Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
I. Phần mở đầu
I.1. Lí do chọn đề tài
Phân môn Tập làm văn là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc giúp
học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là một phân môn mang tính trừu
tượng trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Dạy phân môn Tập làm văn có
hiệu quả cao tức là người giáo viên đã xâu chuỗi kiến thức từ các phân môn: Tập
đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Chính vì thế mà phân môn tập làm văn có tính
chất tổng hợp, là kết quả lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt. Trong
chương trình tiểu học hiện nay, mục tiêu chính của môn Tiếng Việt là hình thành
và phát triển cho học sinh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đặc biệt ở lớp 3,
phân môn tập làm văn rèn cả bốn kỹ năng: nói, nghe, đọc và viết. Trong giờ tập
làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói,
viết); xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh đó
học sinh còn tập kể lại những mẩu chuyện được nghe thầy, cô kể trên lớp. Bên
canh đó qua từng nội dung bài dạy, phân môn tập làm văn còn bồi dưỡng thái độ
ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm
lành mạnh tốt đẹp cho học sinh.
Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con
người thực hiện quá trình tư duy – chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình
cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao
động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói ngôn bản và dưới dạng viết văn bản) giữ vai
trò quan trọng trong sự phát triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn học sinh nói
đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc rất lớn
vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói
riêng.
Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học, đòi hỏi người thầy phải biết vận
dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học sao cho
phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh (HS) để giờ
học diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải
có nghệ thuật sư phạm, biết dẫn dắt, gợi mở đưa học sinh giải quyết các tình
huống và thông qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến thức
bài học. Đối với phân môn Tập làm văn, để thực hiện được điều đó càng khó
hơn. Qua thực tế giảng dạy học sinh lớp 3, tôi thấy hầu như học sinh rất lúng
túng, chưa biết cách vận dụng để làm các dạng bài Tập làm văn. Từ đó, tôi đã tìm
cách để hướng dẫn học sinh phương pháp học tập để học tốt phân môn Tập làm
văn với dạng bài: “Kể hay nói, viết về một chủ đề”. Từ thực tế vận dụng, tôi
tổng hợp thành kinh nghiệm : "Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
1
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
cao chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 3" với dạng bài “Kể hay nói, viết
về một chủ đề” với hi vọng trao đổi với đồng nghiệp về các phương pháp giảng
dạy phân môn Tập làm văn dạng bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề”, nhằm
làm tốt hơn vai trò giảng dạy, giúp học sinh dễ dàng hơn trong khi làm các bài tập
dạng này.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
* Mục tiêu
Việc dạy cho học sinh nắm được cách kể hay nói, viết về một chủ đè có
hiệu quả trong phân môn Tập làm văn ở lớp Ba là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề
này giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt để
biết làm bài văn kể hay nói, viết về một chủ đề cho trước có hiệu quả. Giúp học
sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Vậy mục tiêu nghiên cứu trong đề tài
này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
Tìm hiểu các bài nói, viết về một chủ đề có trong chương trình tập làm
văn lớp 3.
Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn
Tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay.
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh khi lam các bài tập dạng bài Kể hay nói,
viết về một chủ đề.
* Nhiệm vụ
Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp hợp lí nhằm nâng cao hiệu quả giờ học
Tập làm văn ở lớp 3 với dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 3 năm học 2011 – 2012 đến năm học 2014 – 2015.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu một số biện pháp giúp học sinh có thể làm tốt các bài tập dạng
bài Kể hay nói, viết về một chủ đề trong phân môn Tập làm văn lớp 3.
Thời gian thực hiện đề tài bắt đầu thực hiện từ tháng 8 năm 2011 đến nay.
I.5. Phương pháp nghiên cứu
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
2
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.
2 Phương pháp phân tích, tổng hợp.
3 Phương pháp điều tra, khảo sát
4 Phương pháp luyện tập, thực hành
5 Phương pháp trao đổi, tranh luận.
II. Phần nội dung
II.1. Cơ sở lí luận
Tiếng Việt lớp 3 được học trong 35 tuần, học kì I có 18 tuần, học kì II có 17
tuần, mỗi tuần học 8 tiết, riêng phân môn Tập làm văn mỗi tuần học sinh được
học 1 tiết. Các tiết Tập làm văn đều được sắp xếp ở cuối mỗi tuần học, bởi vì
đây là phân môn tích hợp của các phân môn khác trong môn Tiếng Việt.
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng
Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng tổng
hợp từ nhiều phân môn khác như: Học Vần, Tâp viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ
và câu… Để làm được một bài văn học sinh phải sử dụng cả bốn kĩ năng: “ Nghe,
nói, đọc, viết “. Phải vận dụng những kiến thức về tiếng Việt, về cuộc sống thực
tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tạo lập văn bản,
trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng tiếng
Việt trong đời sống sinh hoạt. Bài tập làm văn là nơi thể hiện rõ nhất năng lực, kĩ
năng, kiến thức của học sinh. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng
hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội
dung, chương trình phân môn Tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy
Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp
của thầy, học sinh cần có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống thực tế. Điều này
đòi hỏi phân môn Tập làm văn phải có nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất là giúp cho
học sinh sau quá trình luyện tập lâu dài có ý thức nắm được cách viết và cách nói
sáng tạo các văn bản theo nhiều phong cách khác nhau. Thứ hai là phân môn này góp
phần bổ sung kiến thức, rèn luyện tư duy, trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh
thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp; qua nội dung
bài dạy, hình thành nhân cách cho học sinh. Còn nhiều nhiêm vụ khác nữa nhưng tôi
chỉ nêu hai nhiệm vụ tôi coi là quan trọng nhất. Tóm lại: Dạy phân môn Tập làm văn
theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực, sáng tạo, chủ động học tập, biết
diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn bản.
II.2. Thực trạng
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
3
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
a. Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi về phía giáo viên
Đặc trưng phân môn Tập làm văn là hình thành và rèn luyện cho học sinh
khả năng trình bày văn bản nói (viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Để thực hiện
mục tiêu đó, mỗi giáo viên không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học để giúp học sinh nắm được kiến thức, nói (viết) được đoạn
văn theo yêu cầu.
Giáo viên luôn quan tâm chăm sóc học sinh trong từng tiết học, nghiên cứu
nội dung bài dạy, lựa chọn các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với mỗi
đối tượng học sinh.
Qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua bồi dưỡng chuyên môn
thường xuyên, giáo viên luôn được tiếp cận với những phương pháp day học đổi
mới, phát
huy tính tích cực sáng tạo của học sinh.
* Thuận lợi về phía học sinh
Ở lứa tuổi học sinh lớp 3, các em rất thích tìm tòi, học hỏi.
Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn
nói riêng rất phong phú. Sách giáo khoa kênh chữ rõ ràng, các câu hỏi sát thực;
kênh hình được trình bày đẹp phù hợp tâm lí lứa tuổi.
Học sinh đã được làm quen kĩ năng tạo lập văn bản ở các lớp dưới. Đây là
cơ sở giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
* Khó khăn về phía giáo viên
Trong giảng dạy phân môn Tập làm văn, khi rèn kĩ năng nói, viết cho học
sinh giáo viên có đầu tư nghiên cứu mục tiêu từng bài dạy, lựa chọn các phương
pháp phù hợp với đối tượng học sinh nhưng sự đầu tư chưa sâu, hầu hết chỉ dựa
vào sách giáo viên nên hiệu quả môn dạy chưa cao.
Một số đề bài chưa thực sự gần gũi với học sinh như kể về một ngày hội,
viết tin thể thao… thiếu thực tế nếu giáo viên chỉ nói suông thì học sinh không
hiểu, không nắm bắt được nên hiệu quả chưa cao.
Việc tổ chức giờ học trên lớp của giáo viên chưa phát huy dược vốn ngôn
ngữ vốn có của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin
trong học tập.
* Khó khăn về phía học sinh
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
4
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
Môn tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại làm văn, lười suy
nghĩ nên ở các giờ học các em còn ngại phát biểu, viết bài sơ sài. Cách dùng từ
đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý, chưa có sự sáng tạo. Hầu hết học
sinh chỉ trả lời hay viết đúng theo câu hỏi gợi ý.
Đây là những vấn đề nan giải đòi hỏi người giáo viên phải có biện pháp
thích hợp để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập làm văn.
b. Thành công, hạn chế
b.1. Đối với học sinh
Khi tôi vận dụng các biện pháp này trong giờ dạy Tập làm văn, học sinh
buộc phải có sự tư duy động não suy nghĩ vấn đề mà giáo viên nêu ra, tìm tòi các
từ ngữ, hình ảnh phù hợp với chủ đề trong bài nói, viết. Học sinh phải sắp xếp ý,
hình ảnh phù hợp sau đó sắp xếp câu để thành đoạn văn phù hợp chủ đề. Tóm lại
biện pháp này giúp học sinh học tập rất tích cực, hiệu quả.
Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Qua kiểm
tra, chất lượng các bài văn của học sinh nâng lên rõ rệt. Bài Tập làm văn dạng Kể
hay nói, viết về một chủ đề đã có những ý tưởng độc lập, sáng tạo, có màu sắc
riêng; một số em còn có những ý tưởng độc đáo, mới lạ. Hầu hết học sinh đã biết
nói (viết) một đoạn văn ngắn theo chủ đề, diễn đạt khá lưu loát, trôi chảy.
Ở các tiết học Tập làm văn, khi đã làm quen với cách học này, học sinh
mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập cũng như giao tiếp nhất là đối với những học
sinh trung bình và yếu.
Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn ở lớp 3, giờ học
không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua thực hành giao tiếp
cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu quả, chất
lượng phân môn Tập làm văn và môn Tiếng Việt nói chung được nâng lên rõ rệt.
b.2. Đối với giáo viên
Khi dạy các bài tập dạng này, giáo viên hoàn thành mục tiêu bài dạy, không
còn cảm thấy áp lực vì học sinh đã viết được đoạn văn theo yêu cầu dễ dàng hơn.
b.3. Hạn chế
Phương pháp này yêu cầu người giáo viên phải tổng hợp được kiến thức từ
các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, đòi hỏi giáo viên phải có kĩ năng phân
tích, tổng hợp, tóm lại phải nắm chắc nội dung chương trình của môn Tiếng Việt
lớp 3.
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
5
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
c. Mặt mạnh, mặt yếu
Giúp cho học sinh nói (viết) được đoạn văn đúng chủ đề theo yêu cầu của đề
bài.
Học sinh phải nắm được các từ ngữ thuộc chủ đề, mạnh dạn trình bày ý
kiến của bản thân.
d. Nguyên nhân
Nguyên nhân thành công: Bản thân tích cực tìm tòi học hỏi, nghiên cứu kĩ
chương trình, sách giáo khoa và kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm. Đặc biệt có
sự quan tâm của đồng nghiệp, của lãnh đạo nhà trường trong việc giúp đỡ bản
thân trong công tác chuyên môn.
Nguyên nhân hạn chế: Một số giáo viên chưa tổng hợp được kiến thức
trong quá trình giảng dạy, chưa thực sự quan tâm đến chất lượng học sinh nói
chung và chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng.
e. Phân tích, đánh giá về các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Vậy làm thế nào để thực hiện được mục tiêu dạy học của môn Tập làm văn,
khắc phục thực trạng học Tập làm văn như đã nói trên? Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam đã phát hành bộ sách Hướng dẫn dạy Tiếng Việt lớp 3 dành cho giáo
viên. Người giáo viên có thể lấy đó làm cơ sở để tham khảo, tiến hành thiết kế
bài giảng Tập làm văn của lớp mình phụ trách. Tuy nhiên, sách giáo viên (SGV)
khi hướng dẫn dạy dạng bài Kể hay nói, viết về một chủ đề hầu hết chỉ hướng
dẫn theo một cách, dẫn đến GV thụ động kiến thức ở SGK, SGV mà ít tìm tòi
đọc thêm tài liệu khác liên quan đến giảng dạy đặc biệt là khi dạy Tiếng Việt nên
ngôn ngữ của giáo viên còn hạn hẹp, bí từ. Khi tổ chức các hoạt động trong giờ
học, một số giáo viên chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm nên hình
thức tổ chức dạy còn dàn trải, chưa có sự liên kết giữa các hoạt động. Một số
giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy học và
hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo một quy trình
áp đặt rập khuôn đã hướng dẫn trong SGV.
Một số đề bài trong Sách giáo khoa còn thiếu thực tế, xa rời vốn sống của
học sinh. Khi làm bài, các em chỉ dựa vào các hình ảnh, tư liệu mà giáo viên cung
cấp nên bài viết còn sơ sài, chưa có sự sáng tạo.
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
6
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
Do cách tổ chức giờ học còn nhàm chám, rập khuôn nên trong giờ Tập làm
văn, đa số học sinh chỉ trả lời câu hỏi theo gợi ý mà ít chịu tìm tòi các chi tiết, hình
ảnh phù hợp chủ đề, dẫn đến nói, viết bài Tập làm văn cho có, lấy lệ.
II.3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Sử dụng mạng ý nghĩa, bản đồ tư duy để giúp học sinh tìm kiếm và phát
triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn dạng “Kể hay
nói, viết về một chủ đề” có thêm vốn từ ngữ, tạo cho các em có sự liên tưởng các
chi tiết hình ảnh trong cùng một chủ đề, biết sắp xếp các chi tiết hình ảnh ấy tạo
thành một ngôn bản (nói) hay văn bản (viết). Từ đó, có sự mạnh dạn tự tin trong
học tập cũng như trong giao tiếp.
b. Nội dung, cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
b.1. Nội dung các bài tập làm văn trong Chương trình Lớp 3 dạng “Kể hay
nói, viết theo chủ đề”.
Tuần
Yêu cầu
Chủ điểm
6
Kể về buổi đầu em đi học
Tới trường
8
Kể về người hàng xóm
Cộng đồng
11
Nói về quê hương
Quê hương
16
Nói về thành thị, nông thôn
Thành thị và
nông thôn
17
Viết về thành thị, nông thôn
Thành thị và
nông thôn
21
Nói về trí thức
Sáng tạo
22
Nói, viết về người lao động trí óc
Sáng tạo
23
Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật
Nghệ thuật
25
Kể về lễ hội
Lễ hội
26
Kể về một ngày hội
Lễ hội
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
7
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
28
Kể lại trận thi đấu thể thao
Thể thao
29
Viết về một trận thi đấu thể thao
Thể thao
31
Thảo luận về bảo vệ môi trường
Bầu trời và
mặt đất
32
Nói, viết về bảo vệ môi trường
Bầu trời và
mặt đất
Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh kỹ năng diễn
đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề thuộc các chủ điểm của môn học: Nói, viết
về thành thị hoặc nông thôn thuộc chủ điểm Thành thị và Nông thôn; Kể về gia
đình thuộc chủ điểm Mái ấm; Kể về một buổi thi đấu, kể về lễ hội, …
Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể thấy dạng
đề này hầu như là sự kết hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tường thuật, thuyết
minh và phát biểu cảm nghĩ. Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được
tiến hành theo một trình tự như sau:
Giáo viên giới thiệu bài:
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:
+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập
+ GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống câu
hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.
+ Một học sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét
Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).
Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.
Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.
Trình tự dạy học như vậy bài nào cũng giống bài nào, dẫn đến sự nhàm chán,
thiếu sự sáng tạo và không tích hợp được các phân môn học khác của môn Tiếng
Việt.
Khi dạy dạng đề này, ngoài phương án được nêu trên (trong sách giáo viên),
tôi đã tham khảo một số kinh nghiệm trên mạng internet của đồng nghiệp và của
chính bản thân, trước hết là nghiên cứu dạy thật tốt các phân môn khác trong môn
Tiếng Việt, sau đó sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ tư duy để giúp học sinh tìm
kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn
dạng “Kể hay nói, viết về một chủ đề” có thêm vốn từ ngữ, giúp cho các em dựa
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
8
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
vào mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy, có thể nói (viết) thành đoạn văn theo yêu
cầu đề bài một cách dễ dàng hơn, tạo sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
b.2. Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
b.2.1. Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học”
Trước tiên tôi thực hiện hình thành “môi trường tư liệu ở lớp học” để giúp
học sinh có điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi sử dung mạng ý nghĩa hay bản
đồ tư duy mà tôi trình bày ở phần sau.
+ Thu thập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước.
+ Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới
thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.
+ Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu thập
danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo khoa.
+ Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ hay
trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu.
b.2.2. Sử dụng “Mạng ý nghĩa”:
Sử dụng “Mạng ý nghĩa” như là sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện
pháp dạy học cụ thể. Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ chức cho
học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm
văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói và viết
của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn
mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của mỗi
học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như
những ý tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã được học
trong SGK.
*Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa:
Hoạt động 1: Tìm hiểu đề
Trong hoạt động này, học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong
trí nhớ để xác định đối tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề.
Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là
chúng.
Để thực hiện hoạt động này tôi sử dụng một trong các hình thức sau:
GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm mắt nghĩ về đối tượng,
Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài.
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
9
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
Kể một mẩu chuyện nhỏ liên quan đến đề bài, kết hợp đặt câu hỏi hướng
học sinh đến đề tài.
Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học
sinh tự sưu tầm.
Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung
cấp) liên quan đến đề tài.
Sử dụng mô hình (khung ngôi nhà, khung ngôi trường ...). Trên nền khung
giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào.
Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm
của học sinh.
Hoạt động 2: Tìm ý
Học sinh tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ
đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy.
Khi tiến hành hoạt động này tôi thực hiện theo các bước sau:
Sử dụng hệ thống câu hỏi để kích thích và định hướng cho học sinh phát
triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh
nghiệm riêng, vốn sống thực tế của các em. Ví dụ đối với văn miêu tả, câu hỏi
có thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì?
Em cảm thấy gì?...
Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh
suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể được
trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo nội dung từng bài : Bông hoa,
chùm bong bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá...
Đối với học sinh khá giỏi hay học sinh đã quen với việc sử dụng mạng,
giáo viên nên để các em tự nghĩ và viết ra các ý mà không cần đưa một hệ thống
câu hỏi hoàn chỉnh.
Học sinh viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. Giáo
viên tuyệt đối tránh viết chốt lại một số từ về đề bài. Cần xoá đi những ý đã
được ghi lên bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá nhân
trong phiếu học tập thì trên bảng chỉ còn lại khung mạng trống.
Hoạt động 3: Lập dàn ý : Sắp xếp ý đã có trong mạng.
Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý tìm được, lưu ý trình tự
chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tính chất mở (đoạn văn miêu tả
thì lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu
tả chi tiết, cụ
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
10
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
thể thì nói sau).
Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.
Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để
cả lớp theo dõi. Ngoài khung mạng làm mẫu, GV vẽ sẵn trên bảng các mạng
tương tự và che chúng lại. Sau khi HS đã tìm ý và hình thành mạng ý nghĩa trong
phiếu bài tập, giáo viên cho một số em lên thể hiện lại ý của mình vào các khung
mạng trên bảng.
Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới
dạng nói hay viết
Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của
mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đôi là
tốt nhất.
Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ ngữ
xoay quanh mạng ít nhất một câu.
Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét:
Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể hiện lại trước lớp rồi tổ chức
trao đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về cách nói phù hợp với yêu cầu của nội
dung và thể loại của đề bài .
Nếu là bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo
hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa). Giáo viên theo dõi giúp đỡ chung.
Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hoàn
chỉnh.
*Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2TV3 Tập1 Tr92)
1. Chuẩn bị:
Phiếu học tập
a..Hoàn thành bảng dưới đây
Tên bài đọc
Quê hương là...
Chi tiết làm em xúc động nhất
Giọng quê ...................................... ..............................................................
hương
...................................... ..............................................................
Quê hương
..................................... ...............................................................
..................................... ..............................................................
Đất quý, đất yêu ..................................... .............................................................
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
11
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
Vẽ quê hương
.....................................
.....................................
.....................................
.............................................................
...............................................................
..............................................................
b. Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất
đồng ý.
Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:
Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.
Là nơi mình sinh ra và lớn lên.
Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.
Là nơi mà khi xa mình thấy nhớ thương.
c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:
Quê em ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở quê hương? Cảnh vật đó có gì
đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
2. Cách tiến hành
Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý
tưởng để nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh
hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)
GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự nêu
kết quả bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ sung hoàn thành bài
tập. Giới thiệu nội dung chủ đề “Nói về quê hương”.
Hoạt động 2: HS tập trung động não nghĩ về quê hương đã xác định trong
khung chủ đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến quê hương mà
mình đang nghĩ tới.
GV treo bài tập c (ghi sẵn ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để
kích thích học sinh hồi tưởng.
HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bảng phụ ghi vào
khung chủ đề cụm từ “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của
mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)
Ví dụ:
Vườn cây công viên thành phố
yêu
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
12
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
con sông Quê hương em bờ đê, bãi cỏ
nông thôn đường phố
nhà cao tầng
Hoạt động 3: HS đánh số thứ tự các ý mình vừa tìm được, GV hướng
dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.
GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý HS trung bình và yếu để giúp các em
điều
chỉnh.
Chẳng hạn với ví dụ trên, học sinh có thể đánh số thứ tự như sau:
vườn cây (4) công viên (4) thành phố (1) yêu (5)
con sông (2) Quê hương em bờ đê, bãi cỏ (3)
nông thôn (1) đường phố (3)
nhà cao tầng (2)
Hoạt động 4: HS nhìn mạng của mình và nói
Cho hai em nói mẫu trước lớp .
Ví dụ : Quê hương em thuộc một vùng nông thôn yên bình. Ở đó có cây đa
cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà em
là con sông quê hương uốn lượn quanh làng. Ven sông là bờ đê với bãi cỏ xanh
mượt, những chú trâu béo tròn đang ung dung gặm cỏ. Em rất thích tắm mình
dưới con sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình.
Hoặc: Em và gia đình sống ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà
cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em
thường được bố mẹ dẫn đi chơi công viên, được ngồi trên cái ghế đá mát rượi.
Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.
Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.
Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc
biệt lưu ý giúp học sinh yếu.
Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
13
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp (không nhìn mạng ý nghĩa).
Nếu là học sinh yếu, có thể cho học sinh nhìn mạng để nói.
Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến
khích HS tự tìm đặt và trả lời thêm câu hỏi mở rộng. Chẳng hạn: Quê em có gì
đặc biệt? Em mơ ước gì về quê hương của mình? GV nhận xét chung.
Ví dụ 2: Dạy bài : Kể về gia đình (BT1TV3 tập1 tr 28)
Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹ năng nói : Kể được
một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen.
1.Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm công việc gì? Tính
tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình?
2.Cách tiến hành
Hoạt động 1:
Cho HS đọc yêu cầu bài tập, GV giúp HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể
về gia đình mình cho bạn mới quen biết.
Học sinh tập trung động não nghĩ về gia đình và viết ra bất kỳ những từ
ngữ nào liên quan đến gia đình mình.
Giáo viên treo bảng phụ lên bảng. HS đọc thầm và hồi tưởng.
HS làm vào giấy nháp. GV gọi đồng thời hai em làm vào bảng phụ, ghi vào
khung chủ đề cụm từ “gia đình mình” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của
mình có được xung quanh chủ đề đó.
Ví dụ:
Làm ruộng anh, chị học sinh
Ông, bà Gia đình mình bố, mẹ
Yêu thương em hạnh phúc
Hoạt động 2: Học sinh đánh số thứ tự của mình vừa tìm được theo thứ tự
1,2,3...
Chẳng hạn có thể đánh số thứ tự như sau:
Làm ruộng anh, chị (3) học sinh (4)
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
14
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
Ông, bà (1) Gia đình mình bố, mẹ (2)
Yêu thương (5) em (3) hạnh phúc (6)
GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp các
em điều chỉnh.
Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói
GV gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp.
Ví dụ : Gia đình mình có 6 người : Ông bà, bố mẹ tớ, anh Hà và tớ. Ông bà
mình đã lớn tuổi rồi. Bố mẹ tớ đều ở nhà làm ruộng. Anh Hà là học sinh lớp 7.
Ông bà mình rất hiền, thường kể chuyện cho mình nghe. Mẹ mình luôn bận bịu
với việc nhà, vì thế mình yêu mẹ lắm. Lúc nào rảnh việc học, mình lại giúp đỡ
bố mẹ. Gia
đình mình rất hạnh phúc.
Cả lớp nhận xét, GV sửa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu có sai sót).
b.2.3. Sử dụng “Bản đồ tư duy”:
Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp
3, tôi sử dụng bản đồ tư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa. Bản đồ tư duy là một
phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để dạy tập làm văn, người giáo
viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của
từng chủ đề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồ tư duy cần phải đảm bảo đúng
kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ để qua đó học sinh
tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn.
Ví dụ khi dạy đề bài: Nói, viết về người lao động trí óc (BT1, 2 TV3
Tập 2 – Tr38), các bước đi như đã trình bày ở trên, giáo viên sử dụng bản đồ tư
duy như sau thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa:
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
15
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu (các từ ngữ phục vụ
cho đề bài) để hoàn thành bài nói về người lao động trí óc dễ dàng hơn.
Ví dụ 1: Cô em là bác sĩ làm việc tại bệnh viện huyện. Hằng ngày, cô đều
đến bệnh viện miệt mài với công việc của mình. Mỗi khi khám bệnh, cô ân cần
hỏi han người bệnh về tình trạng bệnh tật. Ai cũng khen cô khám bệnh rất giỏi,
kê đơn phát thuốc uống là khỏi ngay. Mọi người rất yêu quý cô. Em thật tự hào
về cô của em.
Ví dụ 2: Em muốn kể về cô giáo đang dạy lớp 3 của em. Hàng ngày, cô lên
lớp dạy chúng em học, bài nào chưa hiểu, cô tìm mọi cách để giảng giải, hướng
dẫn chúng em đến hiểu thì thôi. Cô thu từng chồng vở tập làm văn của chúng em
mang về, em đoán rằng cô chắc phải thức cả đêm để chấm bài, để sửa từng câu
chữ cho chúng em. Rồi cô còn soạn bài cho buổi học ngày mai…Cô là một người
giáo viên tận tụy, hết lòng vì học sinh thân yêu. Nhớ ơn cô, chúng em luôn chăm
chỉ học tập để cô vui lòng.
Hoặc khi dạy bài: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật (BT1, 2 TV3
tậpII tr 48), giáo viên thực hiện các bước như sau:
Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu
của bài tập: Kể về buổi biếu diễn nghệ thuật (Hoặc buổi biểu diễn văn nghệ ở
trường em).
Học sinh tập trung động não nghĩ về buổi biểu diễn và viết ra bất kỳ
những từ ngữ nào liên quan đến buổi biểu diễn.
Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh
biết một số từ ngữ liên quan đến biểu diễn nghệ thuật. Học sinh nhìn bản đồ tư
duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng.
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
16
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
Yêu cầu học sinh từ một từ trong bản đồ, viết ít nhất một câu về chủ đề
biểu diễn nghệ thuật.
Học sinh ghi vào giấy nháp về buổi biểu diễn.
Giáo viên gọi một vài em kể về buổi biểu diễn cho cả lớp nghe.
Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.
Chẳng hạn: Chủ nhật tuần trước em được bố mẹ cho đi xem xiếc. Mở mà là
tiết mục đu dây của một cặp diễn viên nam nữ. Họ thật là dũng cảm khi đu trên
sợi dây tít trên cao. Sau đó là tiết mục xiếc thú: nào khỉ đi xe đap, chó làm toán, voi
đá bóng… tiết mục nào cũng thật là hấp dẫn. Em thích nhất là tiết mục biến giấy
thành hoa, thành chim bồ câu. Người diễn viên thật khéo léo trong khi biểu diễn.
Em rất thán phục các diễn viên biểu diễn trong ngày hôm đó.
Hoặc: Cứ đến 20/11 hằng năm, trường em lại tổ chức đem văn nghệ chào
mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Đúng 7 giờ thì khai mạc buổi biểu diễn. Sau đó là
lần lượt tiết mục của các lớp. Bạn Hồng Nhung lớp 3D với tiết mục hát đơn ca
“Bông hồng tặng cô” mượt mà, tình cảm. Tiết mục kể chuyện “Bác Hồ đến thăm
trại nhi đồng” của em Thanh Thùy lớp 2C thật truyền cảm, xúc động. Em thích
nhất là tiết mục tam ca “Tiếng hát bạn bè mình” của lớp em. Các bạn vừa hát,
vừa biểu diễn rất chuyên nghiệp. Rồi còn các tiết mục múa của các em lớp một
thật uyển chuyển, dễ thương. Thật là một buổi biểu diễn đầy ý nghĩa để dânh
tặng các thầy cô.
*Lưu ý: Học sinh lớp Ba tư duy chưa nhanh, suy nghĩ để tìm ra các từ ngữ
phục vụ cho đề bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ được bản đồ tư duy hoàn
chỉnh. Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, tôi chuẩn bị bản
đồ tư duy hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa sẵn, sau khi hướng dẫn xong thì có thể xóa đi
và yêu cầu học sinh áp dụng vào để tự làm bài. Đối với những học sinh khá giỏi,
tôi hướng dẫn các em vẽ bản đồ tư duy trong một số bài học nhưng không yêu
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
17
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học sinh vẽ được bản đồ tư duy phục vụ cho
bài học thì giáo viên cần định lượng thời gian phù hợp để các em hoàn thành, tránh
tình trạng lạm dụng vẽ rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu ra.
c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
Để thực hiện được các biện pháp trên, mỗi giáo viên phải là người nắm
chắc kiến thức, hiểu rõ những điều mà đề bài yêu cầu; là người tổng hợp được
kiến thức các môn học để giúp học sinh nhanh chóng hiểu và làm theo yêu cầu
của mỗi đề bài.
Mỗi học sinh phải tham gia tích cực, giàu trí tưởng tượng, vận động tư duy
theo yêu cầu của giáo viên, từ đó mới nhanh chóng tìm được các từ ngữ thuộc chủ
đề và hoàn thành bài nói (viết) trong thời gian quy định.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Để thực hiện tốt các bài tập dựa vào mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy,
trong các tiết dạy các phân môn khác của môn Tiếng Việt như Tập đọc, Kể
chuyện, Luyện từ và câu, người giáo viên phải giúp học sinh nắm được các từ
ngữ thuộc chủ điểm đang học, từ đó có vốn từ phục vụ cho việc hiểu mạng ý
nghĩa hay bản đồ tư duy mà giáo viên đưa ra trong tiết Tâp làm văn cuối tuần.
Các biện pháp trên nên thực hiện đồng bộ, thường xuyên trong giờ dạy Tập
làm văn, phối hợp với sử dụng SGV như là một đồ dùng dạy học. Ngoài ra, các
biện pháp đưa ra phải phù hợp với khả năng của học sinh thì mới đạt hiệu quả
cao.
e. Kết quả khảo nghiệm
Khảo sát đầu năm về môn Tiếng Việt, hầu hết phần viết học sinh chưa đạt
điểm cao, đặc biệt là phần tập làm văn. Cụ thể:
Năm học
TSHS
Điểm910 Điểm 78 Điểm 56 Điếm 34 Điểm 21
20112012
34
3
10
16
6
20122013
32
4
12
12
4
20142015
28
3
12
12
1
Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, cuối năm học kết quả phần viết
môn Tiếng Việt như sau:
Năm học
TSHS
Điểm910 Điểm 78 Điểm 56 Điếm 34 Điểm 21
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
18
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
20112012
34
20
8
6
20122013
32
18
10
4
20142015
(HKI)
28
17
8
3
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu
a. Kết quả
Mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy giúp học sinh có căn cứ để hoàn thành câu,
tiến tới viết đoạn, bài.
Sau khi nhận lớp, tôi tiến hành khảo sát học sinh để nắm được thực trạng
đầu năm. Sau đó, áp dụng các giải pháp đã nêu ở trên, chất lượng phân môn Tập
làm văn được nâng lên rõ rệt. Những học sinh trước chỉ trả lời câu hỏi hoặc
không biết viết gì đã có thể dựa mạng ý nghĩa để sắp xếp ý, để nói (viết) được
đoạn văn hoàn chỉnh về chủ đề mà bài tập yêu cầu. Những học sinh khá, giỏi thì
đã có thể tự lập được mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy, viết được những đoạn
văn có hình ảnh, có sự sáng tạo, có cảm xúc mà tôi giới thiệu kèm theo bài viết
này. Đó là phần thưởng cho sự nỗ lực cố gắng của mỗi học sinh cũng như của
bản thân tôi trong quá trình truyền dạy tri thức cho các em.
b. Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Với sự học hỏi của bản thân, sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ tư duy vào
giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 3 đã giảm hẳn áp lực học tập, học sinh thoải
mái, tự tin hơn khi thực hiện bài tập dạng Kể hay nói (viết) theo chủ đề. Kinh
nghiệm tuy không lớn nhưng đã nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn nói
riêng và môn Tiếng Việt lớp 3 nói chung.
III. Phần kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Để nâng cao hiệu quả các giờ học Tập làm văn lớp 3 đặc biệt là với dạng
bài tập “Kể hay nói, viết về một chủ đề”, theo tôi người giáo viên phải có trách
nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp
thích hợp, tác động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của
bản thân
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
19
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
mình. Qua đó các em sẽ tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ học
tập đúng đắn. Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình môn Tiếng
Việt lớp 3, đặc biệt là các bài dạy Tập làm văn có trong chương trình để từ đó
xâu chuỗi được các kiến thức cần cung cấp cho học sinh qua các giờ dạy. Nghiên
cứu kĩ nội dung bài dạy, xác định đúng trọng tâm của bài. Vận dụng nhiều
phương pháp và hình thức dạy học khác nhau, khắc sâu kiến thức bài giảng giúp
mỗi học sinh đều hiểu và làm
bài tập được ngay tại lớp. Đối với mỗi dạng bài tập, giáo viên cần xác định đối
tượng học sinh yếu và tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài
để có biện pháp giúp đỡ kịp thời giúp các em có điều kiện và niềm tin học tiếp
các bài
học sau. Bên cạnh đó, động viên khen kịp thời mỗi tiến bộ dù nhỏ của học sinh
cũng làm cho các em hứng thú trong học tập, khiến cho các em tích cực, tự giác
hơn trong
quá trình tìm hiểu kiến thức của minh.
2. Kiến nghị
Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn
Tiếng Việt ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng
nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh.
Đối với Tổ chuyên môn của nhà trường cần có các buổi sinh hoạt chuyên
môn có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Tháng 2 năm 2015
Người viết
Bùi Thị Kim Thoa
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
20
Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn
lớp 3
………………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana
21