Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

SKKN: Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.31 KB, 21 trang )

     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

I. Phần mở đầu
I.1. Lí do chọn đề tài
  Phân môn Tập làm văn là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc giúp  
học sinh hình thành văn bản nói và viết. Đây là một phân môn mang tính trừu 
tượng trong chương trình Tiếng Việt tiểu học. Dạy phân môn Tập làm văn có 
hiệu quả cao tức là người giáo viên đã xâu chuỗi kiến thức từ các phân môn: Tập 
đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Chính vì thế mà phân môn tập làm văn có tính 
chất tổng hợp, là kết quả  lĩnh hội các kiến thức của môn Tiếng Việt. Trong 
chương trình tiểu học hiện nay, mục tiêu chính của môn Tiếng Việt là hình thành 
và phát triển cho học sinh các kỹ  năng: nghe, nói, đọc, viết. Đặc biệt  ở  lớp 3, 
phân môn tập làm văn rèn cả  bốn kỹ năng: nói, nghe, đọc và viết. Trong giờ  tập  
làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài tập (nói,  
viết); xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành văn bản. Bên cạnh đó  
học sinh còn tập kể  lại những mẩu chuyện được nghe thầy, cô kể  trên lớp. Bên  
canh đó qua từng nội dung bài dạy, phân môn tập làm văn còn bồi dưỡng thái độ 
ứng xử  có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm 
lành mạnh tốt đẹp cho học sinh. 
      Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con 
người thực hiện quá trình tư  duy – chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư  tưởng, tình 
cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao 
động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói ­ ngôn bản và dưới dạng viết ­ văn bản) giữ vai 
trò quan trọng trong sự  phát triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn học sinh nói 
đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ  thuộc rất lớn 
vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói 
riêng.
   Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học, đòi hỏi người thầy phải biết vận  
dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học sao cho  
phù hợp với khả năng sử  dụng ngôn ngữ  và tâm lí lứa tuổi học sinh (HS) để  giờ 


học diễn ra tự nhiên, nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải 
có nghệ  thuật sư  phạm, biết dẫn dắt, gợi mở  đưa học sinh giải quyết các tình 
huống và thông qua việc xử lí các tình huống đó học sinh lĩnh hội được kiến thức  
bài học. Đối với phân môn Tập làm văn, để  thực hiện được điều đó càng khó 
hơn. Qua thực tế  giảng dạy học sinh lớp 3, tôi thấy hầu như  học sinh rất lúng 
túng, chưa biết cách vận dụng để làm các dạng bài Tập làm văn. Từ đó, tôi đã tìm  
cách để hướng dẫn học sinh phương pháp học tập để học tốt phân môn Tập làm  
văn với dạng bài: “Kể  hay nói, viết về  một chủ  đề”. Từ  thực tế  vận dụng, tôi 
tổng hợp thành kinh nghiệm : "Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng 
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

1


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

cao chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 3" với dạng bài “Kể hay nói, viết 
về một chủ đề” với hi vọng trao đổi với đồng nghiệp về các phương pháp giảng  
dạy phân môn Tập làm văn dạng bài “Kể  hay  nói, viết về  một chủ  đề”, nhằm 
làm tốt hơn vai trò giảng dạy, giúp học sinh dễ dàng hơn trong khi làm các bài tập 
dạng này.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
* Mục tiêu
Việc dạy cho học sinh nắm được cách kể  hay nói, viết về  một chủ  đè có 
hiệu quả trong phân môn Tập làm văn ở lớp Ba là rất quan trọng. Dạy tốt vấn đề 
này giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết một cách linh hoạt để 
biết làm bài văn  kể hay nói, viết về một chủ đề cho trước có hiệu quả. Giúp học  
sinh mạnh dạn, tự tin và ham thích học văn. Vậy mục tiêu nghiên cứu trong đề tài 
này tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:

  
­ Tìm hiểu các bài nói, viết về  một chủ  đề  có trong chương trình tập làm 
văn lớp 3.
  
­ Thực trạng việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh về phân môn  
Tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học hiện nay.
­ Một số biện pháp hỗ trợ học sinh khi lam các bài tập dạng bài Kể hay nói, 
viết về một chủ đề.
  

* Nhiệm vụ

 Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp hợp lí nhằm nâng cao hiệu quả giờ học  
Tập làm văn ở lớp 3 với dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 3 năm học 2011 – 2012 đến năm học 2014 – 2015.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu một số  biện pháp giúp học sinh có thể  làm tốt các bài tập dạng 
bài Kể hay nói, viết về một chủ đề trong phân môn Tập làm văn lớp 3.
        Thời gian thực hiện đề tài bắt đầu thực hiện từ tháng 8 năm 2011 đến nay.
I.5. Phương pháp nghiên cứu
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

2


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

        1 ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu, lí luận.

2 ­ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
3 ­ Phương pháp điều tra, khảo sát
4 ­ Phương pháp luyện tập, thực hành
5 ­ Phương pháp trao đổi, tranh luận.
II. Phần nội dung
II.1. Cơ sở lí luận
Tiếng Việt lớp 3 được học trong 35 tuần, học kì I có 18 tuần, học kì II có 17 
tuần, mỗi tuần học 8 tiết, riêng phân môn Tập làm văn mỗi tuần học sinh được 
học 1 tiết. Các tiết Tập làm văn đều được sắp xếp  ở  cuối mỗi tuần học, bởi vì 
đây là phân môn tích hợp của các phân môn khác trong môn Tiếng Việt.
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng  
Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng tổng 
hợp từ nhiều phân môn khác như: Học Vần, Tâp viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ 
và câu… Để  làm được một bài văn học sinh phải sử  dụng cả  bốn kĩ năng: “ Nghe, 
nói, đọc, viết “. Phải vận dụng những kiến thức về tiếng Việt, về cuộc sống thực  
tiễn. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tạo lập văn bản, 
trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng tiếng  
Việt trong đời sống sinh hoạt. Bài tập làm văn là nơi thể  hiện rõ nhất năng lực, kĩ 
năng, kiến thức của học sinh. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng 
hợp, toàn diện, sáng tạo có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội 
dung, chương trình phân môn Tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy  
Tập làm văn phải đạt được mục đích cụ  thể  hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp  
của thầy, học sinh cần có vốn kiến thức ngôn ngữ  về  đời sống thực tế.  Điều này  
đòi hỏi phân môn Tập làm văn phải có nhiệm vụ  cơ  bản sau: Thứ  nhất là giúp cho 
học sinh sau quá trình luyện tập lâu dài có ý thức nắm được cách viết và cách nói 
sáng tạo các văn bản theo nhiều phong cách khác nhau. Thứ hai là phân môn này góp 
phần bổ  sung kiến thức, rèn luyện tư  duy, trau dồi thái độ   ứng xử  có văn hóa, tinh  
thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp; qua nội dung  
bài dạy, hình thành nhân cách cho học sinh. Còn nhiều nhiêm vụ khác nữa nhưng tôi  
chỉ nêu hai nhiệm vụ tôi coi là quan trọng nhất. Tóm lại: Dạy phân môn Tập làm văn  

theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực, sáng tạo, chủ động học tập, biết  
diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn bản. 
II.2. Thực trạng 
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

3


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

a. Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi về phía giáo viên
­ Đặc trưng phân môn Tập làm văn là hình thành và rèn luyện cho học sinh  
khả  năng trình bày văn bản nói (viết)  ở  nhiều thể  loại khác nhau. Để  thực hiện 
mục tiêu đó, mỗi giáo viên không ngừng học hỏi, cải tiến phương pháp và hình 
thức tổ chức dạy học để giúp học sinh nắm được kiến thức, nói (viết) được đoạn 
văn theo yêu cầu.
­ Giáo viên luôn quan tâm chăm sóc học sinh trong từng tiết học, nghiên cứu 
nội dung bài dạy, lựa chọn các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với mỗi  
đối tượng học sinh.
­   Qua   các   phương   tiện   thông   tin   đại   chúng,   qua   bồi   dưỡng   chuyên   môn 
thường xuyên, giáo viên luôn được tiếp cận với những phương pháp day học đổi 
mới, phát 
huy tính tích cực sáng tạo của học sinh.
* Thuận lợi về phía học sinh
­ Ở lứa tuổi học sinh lớp 3, các em rất thích tìm tòi, học hỏi.
­ Nội dung chương trình môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn 
nói riêng rất phong phú. Sách giáo khoa kênh chữ  rõ ràng, các câu hỏi sát thực;  
kênh hình được trình bày đẹp phù hợp tâm lí lứa tuổi.

­ Học sinh đã được làm quen kĩ năng tạo lập văn bản ở các lớp dưới. Đây là 
cơ sở giúp học sinh học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
* Khó khăn về phía giáo viên
­ Trong giảng dạy phân môn Tập làm văn, khi rèn kĩ năng nói, viết cho học  
sinh giáo viên có đầu tư nghiên cứu mục tiêu từng bài dạy, lựa chọn các phương  
pháp phù hợp với đối tượng học sinh nhưng sự đầu tư  chưa sâu, hầu hết chỉ dựa  
vào sách giáo viên nên hiệu quả môn dạy chưa cao.
­  Một số đề bài chưa thực sự gần gũi với học sinh như kể về một ngày hội, 
viết tin thể  thao… thiếu thực tế  nếu giáo viên chỉ  nói suông thì học sinh không  
hiểu, không nắm bắt được nên hiệu quả chưa cao.
­ Việc tổ chức giờ học trên lớp của giáo viên chưa phát huy dược vốn ngôn 
ngữ  vốn có của các em cũng như  chưa khơi dậy  ở  học sinh sự mạnh dạn tự tin  
trong học tập.
* Khó khăn về phía học sinh
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

4


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

 
­ Môn tập làm văn là một môn khó, nhiều em còn ngại làm văn, lười suy  
nghĩ nên  ở  các giờ  học các em còn ngại phát biểu, viết bài sơ  sài. Cách dùng từ 
đặt câu chưa đúng, viết đoạn văn còn nghèo ý, chưa có sự sáng tạo. Hầu hết học  
sinh chỉ trả lời hay viết đúng theo câu hỏi gợi ý.
Đây là những vấn đề  nan giải đòi hỏi người giáo viên phải có biện pháp 
thích hợp để từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Tập làm văn.
b. Thành công, hạn chế

b.1. Đối với học sinh
Khi tôi vận dụng các biện pháp này trong giờ  dạy Tập làm văn, học sinh  
buộc phải có sự tư duy động não suy nghĩ vấn đề mà giáo viên nêu ra, tìm tòi các 
từ ngữ, hình ảnh phù hợp với chủ đề trong bài nói, viết. Học sinh phải sắp xếp ý, 
hình ảnh phù hợp sau đó sắp xếp câu để thành đoạn văn phù hợp chủ đề. Tóm lại  
biện pháp này giúp học sinh học tập rất tích cực, hiệu quả.
­ Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Qua kiểm 
tra, chất lượng các bài văn của học sinh nâng lên rõ rệt. Bài Tập làm văn dạng Kể 
hay nói, viết về một chủ đề  đã có những ý tưởng độc lập, sáng tạo, có màu sắc  
riêng; một số em còn có những ý tưởng độc đáo, mới lạ. Hầu hết học sinh đã biết  
nói (viết) một đoạn văn ngắn theo chủ đề, diễn đạt khá lưu loát, trôi chảy.
­  Ở  các tiết học Tập làm văn, khi đã làm quen với cách học này, học sinh  
mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập cũng như giao tiếp nhất là đối với những học 
sinh trung bình và yếu.
 
­ Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn  ở  lớp 3, giờ  học  
không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua thực hành giao tiếp 
cho thấy khả  năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu quả, chất  
lượng phân môn Tập làm văn và môn Tiếng Việt nói chung được nâng lên rõ rệt.
b.2. Đối với giáo viên
Khi dạy các bài tập dạng này, giáo viên hoàn thành mục tiêu bài dạy, không 
còn cảm thấy áp lực vì học sinh đã viết được đoạn văn theo yêu cầu dễ dàng hơn.
b.3. Hạn chế
Phương pháp này yêu cầu người giáo viên phải tổng hợp được kiến thức từ 
các phân môn khác trong môn Tiếng Việt, đòi hỏi giáo viên phải có kĩ năng phân 
tích, tổng hợp, tóm lại phải nắm chắc nội dung chương trình của môn Tiếng Việt  
lớp 3.
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

5



     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

c. Mặt mạnh, mặt yếu
Giúp cho học sinh nói (viết) được đoạn văn đúng chủ đề theo yêu cầu của đề 
bài.
Học sinh phải nắm được các từ  ngữ  thuộc chủ  đề, mạnh dạn trình bày ý 
kiến của bản thân.
d. Nguyên nhân
­ Nguyên nhân thành công: Bản thân tích cực tìm tòi học hỏi, nghiên cứu kĩ 
chương trình, sách giáo khoa và kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm. Đặc biệt có  
sự  quan tâm của đồng nghiệp, của lãnh đạo nhà trường trong việc giúp đỡ  bản 
thân trong công tác chuyên môn.
­ Nguyên nhân hạn chế: Một số  giáo viên chưa tổng hợp được kiến thức 
trong quá trình giảng dạy, chưa thực sự  quan tâm đến chất lượng học sinh nói  
chung và chất lượng phân môn Tập làm văn nói riêng.
e. Phân tích, đánh giá về các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Vậy làm thế nào để thực hiện được mục tiêu dạy học của môn Tập làm văn,  
khắc phục thực trạng học Tập làm văn như  đã nói trên? Nhà xuất bản Giáo dục  
Việt Nam đã phát hành bộ  sách Hướng dẫn dạy Tiếng Việt lớp 3 dành cho giáo  
viên. Người giáo viên có thể  lấy đó làm cơ  sở  để  tham khảo, tiến hành thiết kế 
bài giảng Tập làm văn của lớp mình phụ  trách. Tuy nhiên, sách giáo viên (SGV)  
khi hướng dẫn dạy dạng bài Kể  hay nói, viết về  một chủ  đề  hầu hết chỉ  hướng  
dẫn theo một cách, dẫn đến GV thụ  động kiến thức  ở  SGK,  SGV mà ít tìm tòi  
đọc thêm tài liệu khác liên quan đến giảng dạy đặc biệt là khi dạy Tiếng Việt nên  
ngôn ngữ  của giáo viên còn hạn hẹp, bí từ. Khi tổ  chức các hoạt động trong giờ 
học, một số  giáo viên chưa phân định được hoạt động nào là trọng tâm nên hình  
thức tổ  chức dạy còn dàn trải, chưa có sự  liên kết giữa các hoạt động. Một số 

giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp dạy học và 
hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo một quy trình 
áp đặt rập khuôn đã hướng dẫn trong SGV.
Một số  đề  bài trong Sách giáo khoa còn thiếu thực tế, xa rời vốn sống của  
học sinh. Khi làm bài, các em chỉ dựa vào các hình ảnh, tư liệu mà giáo viên cung  
cấp nên bài viết còn sơ sài, chưa có sự sáng tạo.

 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

6


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

Do cách tổ  chức giờ  học còn nhàm chám, rập khuôn nên trong giờ  Tập làm 
văn, đa số học sinh chỉ trả lời câu hỏi theo gợi ý mà ít chịu tìm tòi các chi tiết, hình 
ảnh phù hợp chủ đề, dẫn đến nói, viết bài Tập làm văn cho có, lấy lệ.
II.3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
         Sử  dụng mạng ý nghĩa, bản đồ  tư  duy để  giúp học sinh tìm kiếm và phát  
triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn dạng  “Kể  hay 
nói, viết về một chủ đề” có thêm vốn từ ngữ, tạo cho các em có sự liên tưởng các 
chi tiết hình ảnh trong cùng một chủ đề, biết sắp xếp các chi tiết hình ảnh ấy tạo 
thành một ngôn bản (nói) hay văn bản (viết). Từ đó, có sự mạnh dạn tự tin trong  
học tập cũng như trong giao tiếp.
b. Nội dung, cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
b.1. Nội dung các bài tập làm văn trong Chương trình Lớp 3 dạng “Kể  hay  
nói, viết theo chủ đề”.
Tuần


Yêu cầu

Chủ điểm

6

Kể về buổi đầu em đi học

Tới trường

8

Kể về người hàng xóm

Cộng đồng

11

Nói về quê hương

Quê hương

16

Nói về thành thị, nông thôn

Thành   thị   và 
nông thôn


17

Viết về thành thị, nông thôn

Thành   thị   và 
nông thôn

21

Nói về trí thức

Sáng tạo

22

Nói, viết về người lao động trí óc

Sáng tạo

23

Kể lại một buổi biểu diễn nghệ thuật

Nghệ thuật

25

Kể về lễ hội

Lễ hội


26

Kể về một ngày hội

Lễ hội

 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

7


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

28

Kể lại trận thi đấu thể thao

Thể thao

29

Viết về một trận thi đấu thể thao

Thể thao

31

Thảo luận về bảo vệ môi trường


Bầu   trời   và 
mặt đất

32

Nói, viết về bảo vệ môi trường

Bầu   trời   và 
mặt đất

Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học sinh kỹ năng diễn  
đạt bằng lời nói (viết) về một chủ đề thuộc các chủ điểm của môn học: Nói, viết 
về  thành thị  hoặc nông thôn thuộc chủ  điểm Thành thị  và Nông thôn; Kể  về  gia  
đình thuộc chủ điểm Mái ấm; Kể về một buổi thi đấu, kể về lễ hội, …
Xem xét cách triển khai câu hỏi gợi ý  ở  mỗi đề, chúng ta có thể  thấy dạng 
đề  này hầu như  là sự  kết hợp của nhiều thể  loại: miêu tả, tường thuật, thuyết 
minh và phát biểu cảm nghĩ. Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được 
tiến hành theo một trình tự như sau:
­ Giáo viên giới thiệu bài:
­ Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:
+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập
+ GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống câu 
hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.
+ Một học sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét
­ Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).
­ Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.
­ Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.
Trình tự dạy học như vậy bài nào cũng giống bài nào, dẫn đến sự nhàm chán, 
thiếu sự sáng tạo và không tích hợp được các phân môn học khác của môn Tiếng  

Việt.
Khi dạy dạng đề này, ngoài phương án được nêu trên (trong sách giáo viên), 
tôi đã tham khảo một số kinh nghiệm trên mạng internet của đồng nghiệp và của 
chính bản thân, trước hết là nghiên cứu dạy thật tốt các phân môn khác trong môn  
Tiếng Việt, sau đó sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ  tư duy để giúp học sinh tìm 
kiếm và phát triển diễn đạt ý tưởng, giúp cho các em khi làm bài tập làm văn 
dạng  “Kể hay nói, viết về một chủ đề” có thêm vốn từ ngữ, giúp cho các em dựa 
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

8


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

vào mạng ý nghĩa hay bản đồ  tư  duy, có thể  nói (viết) thành đoạn văn theo yêu 
cầu đề bài một cách dễ dàng hơn, tạo sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
   b.2. Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
b.2.1. Hình thành và phát triển “môi trường tư liệu ở lớp học”
Trước tiên tôi thực hiện hình thành “môi trường tư liệu ở lớp học” để giúp  
học sinh có điều kiện dễ dàng sử dụng từ ngữ khi sử dung mạng ý nghĩa hay bản 
đồ tư duy mà tôi trình bày ở phần sau.
        + Thu thập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước.
+ Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản, giới 
thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.
+ Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu thập  
danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo khoa.
+ Tập cho học sinh có thói quen quan tâm đến các trường hợp sử dụng từ hay 
trong khi đọc, kể chuyện hay luyện từ và câu.
b.2.2. Sử dụng “Mạng ý nghĩa”:

Sử dụng “Mạng ý nghĩa” như  là sử  dụng một đồ  dùng dạy học, một biện  
pháp dạy học cụ  thể. Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ  chức cho 
học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học Tập làm  
văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể  hoá tối đa  hoạt động nói và viết  
của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được chuẩn  
mực cơ  bản của một thể  loại văn bản, vừa thể  hiện bản chất cái tôi của  mỗi 
học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em cũng như 
những ý tưởng và ngôn từ  trong các bài đọc theo chủ đề  mà các em đã được học  
trong SGK. 
         *Tiến trình thực hiện phương pháp mạng ý nghĩa:
 Hoạt động 1: Tìm hiểu đề
Trong hoạt động này, học sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong  
trí nhớ để xác định đối tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề. 
Trong trường hợp dùng vật thật hay tranh  ảnh thì khung chủ  đề  cũng chính là 
chúng.
  
Để thực hiện hoạt động này tôi sử dụng một trong các hình thức sau:
­ GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm mắt nghĩ về đối tượng,
­ Tạo tình huống khơi gợi rồi đề nghị học sinh nghĩ đến chủ đề hay đề tài.
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

9


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

­ Kể một mẩu chuyện nhỏ liên quan đến đề bài, kết hợp đặt câu hỏi hướng  
học sinh đến đề tài.
­ Dùng tranh  ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học  

sinh tự sưu tầm.
­ Cho học sinh tô màu rồi đặt tên cho một hình vẽ nào đó (do giáo viên cung 
cấp) liên quan đến đề tài.
­ Sử  dụng mô hình (khung ngôi nhà, khung ngôi trường ...). Trên nền khung 
giáo viên hướng dẫn  học sinh vẽ hay viết thêm chi tiết vào.
­ Sử  dụng một đoạn văn mẫu lấy từ  bài tập đọc đã học hay từ  các bài làm 
của học sinh.
  Hoạt động 2: Tìm ý 
Học sinh tập trung động não nghĩ về đối tượng đã xác định trong khung chủ 
đề và viết ra bất kì những từ ngữ nào liên quan đến đối tượng ấy.  
Khi tiến hành hoạt động này tôi thực hiện theo các bước sau:
­ Sử dụng hệ thống câu hỏi để  kích thích và định hướng cho học sinh phát 
triển ý. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc khơi gợi kinh 
nghiệm riêng, vốn sống thực tế của các em. Ví dụ   đối với văn miêu tả, câu hỏi  
có thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì? 
Em cảm thấy gì?...
­ Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh 
suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng (khung mạng ý nghĩa có thể được  
trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau tuỳ  theo nội dung từng bài : Bông hoa, 
chùm bong bóng, mạng nhện, một cây với những cành lá...
­ Đối với học sinh khá giỏi hay học sinh đã quen với việc sử  dụng mạng,  
giáo viên nên để các em tự nghĩ và viết ra các ý mà không cần đưa một hệ thống 
câu hỏi hoàn chỉnh.
­ Học sinh viết các ý dưới dạng từ  hay cụm từ  xung quanh chủ  đề. Giáo  
viên tuyệt đối tránh viết chốt lại một số  từ  về  đề  bài. Cần xoá đi những ý đã 
được ghi lên bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá nhân  
trong phiếu học tập thì trên bảng chỉ còn lại khung mạng trống. 
 Hoạt động 3: Lập dàn ý : Sắp xếp ý đã có trong mạng. 
­ Hướng dẫn học sinh đánh số  thứ  tự  cho các ý tìm được, lưu ý trình tự 
chung của thể loại văn đang làm và hướng dẫn có tính chất mở (đoạn văn miêu tả 

thì lưu ý những chi tiết nào có ý nghĩa giới thiệu chung thì nói trước, ý nào miêu  
tả chi tiết, cụ 
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

10


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

thể thì nói sau).
­ Mỗi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự.
­ Gọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã làm trước lớp để 
cả  lớp theo dõi. Ngoài khung mạng làm mẫu, GV vẽ  sẵn trên bảng các mạng 
tương tự và che chúng lại. Sau khi HS đã tìm ý và hình thành mạng ý nghĩa trong  
phiếu bài tập, giáo viên cho một số em lên thể hiện lại ý của mình vào các khung  
mạng trên bảng.
 Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài dưới  
dạng nói hay viết 
­ Nếu là bài tập nói, giáo viên hướng dẫn học sinh nhìn mạng ý nghĩa của 
mình diễn đạt thành câu, thành bài trước lớp hay theo nhóm, cặp, theo nhóm đôi là 
tốt nhất.
­ Nếu là bài tập viết, giáo viên hướng dẫn học sinh diễn đạt mỗi từ  ngữ 
xoay quanh mạng ít nhất một câu.
 Hoạt động 5: Trao đổi, sửa chữa và nhận xét:
­ Nếu là bài nói, cho vài nhóm học sinh thể  hiện lại trước lớp rồi tổ  chức  
trao đổi nhận xét và rút kinh nghiệm về  cách nói phù hợp với yêu cầu của nội 
dung và thể loại của đề bài .
­ Nếu là bài viết: Tổ chức cho học sinh đọc sửa chữa bản nháp của mình theo 
hình thức nhóm/cặp (đổi vở cho nhau sửa chữa). Giáo viên theo dõi giúp đỡ chung.

  Hoạt động 6: Dựa vào bản nháp đã được sửa, học sinh viết lại bài hoàn 
chỉnh.
*Ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Đề bài: Nói về quê hương em (BT2­TV3 ­Tập1­ Tr92)
1. Chuẩn bị: 
Phiếu học tập
a..Hoàn thành bảng dưới đây
Tên bài đọc
Quê hương là...
Chi tiết làm em xúc động nhất
Giọng   quê  ...................................... ..............................................................
hương
...................................... ..............................................................
Quê hương 
..................................... ...............................................................
..................................... ..............................................................
Đất quý, đất yêu ..................................... .............................................................
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

11


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

Vẽ quê hương

.....................................
.....................................
.....................................


.............................................................
...............................................................
..............................................................

        
b. Đánh dấu X trước mỗi câu nếu em đồng ý, đánh XX trước mỗi câu nếu em rất 
đồng ý.
        Qua các bài đọc trên em thấy quê hương:
           Là tất cả những gì gần gũi, thân thương đối với mình.
           Là nơi mình sinh ra và lớn lên.
           Là những điều mình có thể nghe, có thể thấy, có thể sờ, có thể nếm.
           Là nơi mà khi xa mình thấy nhớ thương.
   c. Các em hãy nghĩ về quê hương mình:
         Quê em  ở đâu? Em yêu nhất cảnh vật gì ở  quê hương? Cảnh vật đó có gì 
đáng nhớ? Tình cảm của em đối với quê hương như thế nào?
2. Cách tiến hành
 Hoạt động 1: Giúp HS tìm hiểu yêu cầu của đề bài và chuẩn bị thông tin ý 
tưởng để nói. Trước hết GV phát phiếu học tập cho học sinh và dẫn dắt học sinh  
hoàn thành bài tập a, b trên phiếu (theo nhóm)
­ GV treo bảng phụ có ghi các bài tập a, b trên bảng. Cho các nhóm tự  nêu  
kết quả  bài làm của mình, các nhóm khác nhận xét, GV bổ  sung hoàn thành bài 
tập. Giới thiệu nội dung chủ đề “Nói về quê hương”.
Hoạt động 2: HS tập trung động não nghĩ về  quê hương đã xác định trong  
khung chủ  đề  và viết ra bất kì những từ  ngữ  nào liên quan đến quê hương mà 
mình đang nghĩ tới.
­ GV treo bài tập c (ghi sẵn  ở bảng phụ) lên bảng kèm với lời dẫn dắt để 
kích thích học sinh hồi tưởng.
­ HS làm vào giấy nháp; GV đồng thời gọi hai em làm vào bảng phụ ghi vào  
khung chủ  đề  cụm từ  “Quê hương em” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của 

mình có được xung quanh chủ đề ấy (lưư ý HS chỉ ghi từ hoặc cụm từ)
 Ví dụ:                    
                      Vườn cây                  công viên                thành phố
yêu
                           

 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

12


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

                      con sông                      Quê hương em              bờ đê, bãi cỏ        
                                                                            
                     nông thôn                  đường phố
             nhà cao tầng
      Hoạt động 3: HS đánh số  thứ  tự  các ý mình vừa tìm được, GV hướng 
dẫn các em sắp xếp các ý bằng số thứ tự 1,2,3.
­ GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý HS trung bình và yếu để  giúp các em  
điều 
chỉnh.
           Chẳng hạn với ví dụ trên, học sinh có thể đánh số thứ tự như sau:
                     vườn cây (4)            công viên (4)            thành phố (1)          yêu (5)
                           

                      con sông (2)                     Quê hương em                   bờ đê, bãi cỏ (3) 
                                                                            
                     nông thôn (1)                  đường phố (3)


             nhà cao tầng (2)

Hoạt động 4: HS nhìn mạng của mình và nói 
Cho hai em nói mẫu trước lớp . 
 Ví dụ : Quê hương em thuộc một vùng nông thôn yên bình. Ở đó có cây đa 
cổ thụ che bóng rợp cả một vùng. Giếng nước trong veo. Trước mặt ngôi nhà em  
là con sông quê hương uốn lượn quanh làng. Ven sông là bờ  đê với bãi cỏ  xanh 
mượt, những chú trâu béo tròn đang ung dung gặm cỏ. Em rất thích tắm mình 
dưới con sông ấy khi mùa hè đến. Em yêu quê hương của mình.
 Hoặc: Em và gia đình sống  ở thành phố. Ở đó em thấy có nhiều ngôi nhà  
cao tầng. Trên đường phố, mọi người và xe cộ  đi lại tấp nập. Ngày nghỉ, em 
thường được bố  mẹ  dẫn đi chơi công viên, được ngồi trên cái ghế  đá mát rượi.  
Cảm giác của em lúc đó rất là thích. Em yêu quý nơi này.
­ Cả lớp nhận xét, GV bổ sung.
Hoạt động 5: Học sinh nói theo cặp (hoặc nhóm 4). GV bao quát lớp đặc  
biệt lưu ý giúp học sinh yếu.
Hoạt động 6: HS nói thể hiện trước lớp
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

13


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

­ GV gọi đại diện các nhóm lên nói trước lớp (không nhìn mạng ý nghĩa). 
Nếu là học sinh yếu, có thể cho học sinh nhìn mạng để nói.
­ Tổ chức cho HS thể hiện mở rộng cảm xúc về quê hương mình. Khuyến 
khích HS tự  tìm đặt và trả  lời thêm câu hỏi mở  rộng. Chẳng hạn: Quê em có gì  

đặc biệt? Em mơ ước gì về quê hương của mình? GV nhận xét chung.
Ví dụ 2: Dạy bài : Kể về gia đình (BT1­TV3 ­tập1­ tr 28) 
   Đối với bài tập này, giáo viên cần rèn cho học sinh kỹ năng nói : Kể được  
một cách đơn giản về gia đình mình với một người bạn mới quen.
1.Chuẩn bị : Bảng phụ: Gia đình em có những ai? Làm công việc gì? Tính 
tình như thế nào? Tình cảm của em đối với gia đình?
2.Cách tiến hành 
 
Hoạt động 1:
­ Cho HS đọc yêu cầu bài tập, GV giúp HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể 
về gia đình mình cho bạn mới quen biết.
­ Học sinh tập trung động não nghĩ về  gia đình và viết ra bất kỳ  những từ 
ngữ nào liên quan đến gia đình mình.
­ Giáo viên treo bảng phụ lên bảng. HS đọc thầm và hồi tưởng.
­ HS làm vào giấy nháp. GV gọi đồng thời hai em làm vào bảng phụ, ghi vào  
khung chủ  đề  cụm từ  “gia đình mình” rồi sau đó ghi ra bất kì ý tưởng nào của  
mình có được xung quanh chủ đề đó.
  Ví dụ:  
                  Làm ruộng                    anh, chị                          học sinh        

                Ông, bà                         Gia đình mình                 bố, mẹ

                Yêu thương                      em                                    hạnh phúc
  Hoạt động 2: Học sinh đánh số thứ tự của mình vừa tìm được theo thứ tự 
1,2,3...
  Chẳng hạn có thể đánh số thứ tự như sau:  
                  Làm ruộng                    anh, chị (3)                         học sinh (4)       
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

14



     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

                Ông, bà (1)                        Gia đình mình                 bố, mẹ (2)

                Yêu thương (5)                     em  (3)                                  hạnh phúc (6)
 ­ GV bao quát lớp đặc biệt là chú ý học sinh trung bình và yếu để giúp các 
em điều chỉnh.
  Hoạt động 3: Học sinh nhìn mạng ý nghĩa của mình và nói
 ­  GV gọi 2 em đại diện kể về gia đình mình trước lớp.
  Ví dụ : Gia đình mình có 6 người : Ông bà, bố mẹ tớ, anh Hà và tớ. Ông bà  
mình đã lớn tuổi rồi. Bố  mẹ tớ đều ở  nhà làm ruộng. Anh Hà là học sinh lớp 7.  
Ông bà mình rất hiền, thường kể chuyện cho mình nghe. Mẹ  mình luôn bận bịu  
với việc nhà, vì thế  mình yêu mẹ  lắm. Lúc nào rảnh việc học, mình lại giúp đỡ 
bố mẹ. Gia 
đình mình rất hạnh phúc.
­ Cả lớp nhận xét, GV sửa lỗi và cách diễn đạt cho các em (nếu có sai sót).
b.2.3. Sử dụng “Bản đồ tư duy”:
    Ngoài việc sử dụng mạng ý nghĩa nêu trên, trong khi dạy tập làm văn lớp 
3, tôi sử dụng bản đồ tư duy thay cho sơ đồ mạng ý nghĩa. Bản đồ tư duy là một  
phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để  dạy tập làm văn, người giáo 
viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ ngữ phục vụ theo yêu cầu của 
từng chủ  đề, đề  bài. Giáo viên thiết kế  bản đồ  tư  duy cần phải đảm bảo đúng  
kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính thẩm mĩ để qua đó học sinh  
tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang lại hiệu quả giờ học cao hơn.
Ví dụ khi dạy đề bài:  Nói, viết về người lao động trí óc (BT1, 2 ­ TV3 ­ 
Tập 2 – Tr38), các bước đi như  đã trình bày ở  trên, giáo viên sử  dụng bản đồ  tư 
duy như sau thay cho việc sử dụng mạng ý nghĩa:


 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

15


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

 Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu (các từ ngữ phục vụ 
cho đề bài) để hoàn thành bài nói về người lao động trí óc dễ dàng hơn. 
Ví dụ  1: Cô em là bác sĩ làm việc tại bệnh viện huyện. Hằng ngày, cô đều 
đến bệnh viện miệt mài với công việc của mình. Mỗi khi khám bệnh, cô ân cần  
hỏi han người bệnh về tình trạng bệnh tật. Ai cũng khen cô khám bệnh rất giỏi, 
kê đơn phát thuốc uống là khỏi ngay. Mọi người rất yêu quý cô. Em thật tự  hào 
về cô của em.
Ví dụ 2: Em muốn kể về cô giáo đang dạy lớp 3 của em. Hàng ngày, cô lên  
lớp dạy chúng em học, bài nào chưa hiểu, cô tìm mọi cách để  giảng giải, hướng 
dẫn chúng em đến hiểu thì thôi. Cô thu từng chồng vở tập làm văn của chúng em 
mang về, em đoán rằng cô chắc phải thức cả đêm để  chấm bài, để  sửa từng câu 
chữ cho chúng em. Rồi cô còn soạn bài cho buổi học ngày mai…Cô là một người  
giáo viên tận tụy, hết lòng vì học sinh thân yêu. Nhớ  ơn cô, chúng em luôn chăm 
chỉ học tập để cô vui lòng.
 Hoặc khi dạy bài: Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật  (BT1, 2 ­TV3 ­ 
tậpII ­ tr 48), giáo viên thực hiện các bước như sau: 
­ Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu  
của bài tập: Kể về buổi biếu diễn nghệ thuật (Hoặc buổi biểu diễn văn nghệ  ở 
trường em).
­ Học sinh tập trung động não nghĩ về  buổi biểu diễn và viết ra bất kỳ 
những từ ngữ nào liên quan đến buổi biểu diễn.

­ Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giới thiệu cho học sinh  
biết một số từ ngữ liên quan đến biểu diễn nghệ thuật. Học sinh nhìn bản đồ  tư 
duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng.
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

16


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

­ Yêu cầu học sinh từ  một từ trong bản đồ, viết ít nhất một câu về  chủ  đề 
biểu diễn nghệ thuật.

­ Học sinh ghi vào giấy nháp về buổi biểu diễn.
­ Giáo viên gọi một vài em kể về buổi biểu diễn cho cả lớp nghe. 
­ Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung.
Chẳng hạn: Chủ nhật tuần trước em được bố mẹ cho đi xem xiếc. Mở mà là 
tiết mục đu dây của một cặp diễn viên nam nữ. Họ  thật là dũng cảm khi đu trên 
sợi dây tít trên cao. Sau đó là tiết mục xiếc thú: nào khỉ đi xe đap, chó làm toán, voi 
đá bóng… tiết mục nào cũng thật là hấp dẫn. Em thích nhất là tiết mục biến giấy  
thành hoa, thành chim bồ câu. Người diễn viên thật khéo léo trong khi biểu diễn. 
Em rất thán phục các diễn viên biểu diễn trong ngày hôm đó.
Hoặc: Cứ  đến 20/11 hằng năm, trường em lại tổ  chức đem văn nghệ  chào 
mừng ngày Nhà giáo Việt Nam. Đúng 7 giờ thì khai mạc buổi biểu diễn. Sau đó là  
lần lượt tiết mục của các lớp. Bạn Hồng Nhung lớp 3D với tiết mục hát đơn ca  
“Bông hồng tặng cô” mượt mà, tình cảm. Tiết mục kể chuyện “Bác Hồ đến thăm  
trại nhi đồng” của em Thanh Thùy lớp 2C thật truyền cảm, xúc động. Em thích 
nhất là tiết mục tam ca “Tiếng hát bạn bè mình” của lớp em. Các bạn vừa hát,  
vừa biểu diễn rất chuyên nghiệp. Rồi còn các tiết mục múa của các em lớp một  

thật uyển chuyển, dễ  thương. Thật là một buổi biểu diễn đầy ý nghĩa để  dânh  
tặng các thầy cô.
*Lưu ý: Học sinh lớp Ba tư  duy chưa nhanh, suy nghĩ để  tìm ra các từ  ngữ 
phục vụ  cho đề  bài chưa nhiều nên học sinh khó vẽ  được bản đồ  tư  duy hoàn  
chỉnh. Bởi vậy trong khi dạy Tập làm văn muốn đạt hiệu quả, tôi chuẩn bị  bản 
đồ tư duy hoặc sơ đồ mạng ý nghĩa sẵn, sau khi hướng dẫn xong thì có thể xóa đi  
và yêu cầu học sinh áp dụng vào để tự làm bài. Đối với những học sinh khá giỏi, 
tôi hướng dẫn các em vẽ  bản đồ  tư  duy trong một số  bài học nhưng không yêu 
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

17


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

cầu quá cao đối với học sinh. Nếu học sinh vẽ được bản đồ  tư  duy phục vụ cho 
bài học thì giáo viên cần định lượng thời gian phù hợp để các em hoàn thành, tránh  
tình trạng lạm dụng vẽ rồi không đạt yêu cầu đề bài nêu ra. 
c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
Để  thực hiện được các biện pháp trên, mỗi giáo viên phải là người nắm 
chắc kiến thức, hiểu rõ những điều mà đề  bài yêu cầu; là người tổng hợp được 
kiến thức các môn học để  giúp học sinh nhanh chóng hiểu và làm theo yêu cầu  
của mỗi đề bài.
Mỗi học sinh phải tham gia tích cực, giàu trí tưởng tượng, vận động tư duy 
theo yêu cầu của giáo viên, từ đó mới nhanh chóng tìm được các từ ngữ thuộc chủ 
đề và hoàn thành bài nói (viết) trong thời gian quy định.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Để  thực hiện tốt các bài tập dựa vào mạng ý nghĩa hay bản đồ  tư  duy,  
trong các tiết dạy các phân môn khác của môn Tiếng Việt như  Tập  đọc, Kể 

chuyện, Luyện từ  và câu, người giáo viên phải giúp học sinh nắm được các từ 
ngữ  thuộc chủ  điểm đang học, từ  đó có vốn từ  phục vụ  cho việc hiểu mạng ý 
nghĩa hay bản đồ tư duy mà giáo viên đưa ra trong tiết Tâp làm văn cuối tuần.
Các biện pháp trên nên thực hiện đồng bộ, thường xuyên trong giờ dạy Tập  
làm văn, phối hợp với sử  dụng SGV như là một đồ  dùng dạy học. Ngoài ra, các 
biện pháp đưa ra phải phù hợp với khả  năng của học sinh thì mới đạt hiệu quả 
cao. 
e. Kết quả khảo nghiệm
Khảo sát đầu năm về môn Tiếng Việt, hầu hết phần viết học sinh chưa đạt 
điểm cao, đặc biệt là phần tập làm văn. Cụ thể:
Năm học

TSHS

Điểm9­10 Điểm 7­8 Điểm 5­6 Điếm 3­4 Điểm 2­1

2011­2012

34

3

10

16

6

2012­2013


32

4

12

12

4

2014­2015

28

3

12

12

1

Sau khi áp dụng các biện pháp nêu trên, cuối năm học kết quả  phần viết  
môn Tiếng Việt như sau:
Năm học

TSHS

Điểm9­10 Điểm 7­8 Điểm 5­6 Điếm 3­4 Điểm 2­1


 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

18


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

2011­2012

34

20

8

6

2012­2013

32

18

10

4

2014­2015 
(HKI)


28

17

8

3

II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề 
nghiên cứu
a. Kết quả
Mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy giúp học sinh có căn cứ để hoàn thành câu,  
tiến tới viết đoạn, bài. 
Sau khi nhận lớp, tôi tiến hành khảo sát học sinh để nắm được thực trạng 
đầu năm. Sau đó, áp dụng các giải pháp đã nêu ở trên, chất lượng phân môn Tập 
làm văn được nâng lên rõ rệt. Những học sinh trước chỉ  trả  lời câu hỏi hoặc 
không biết viết gì đã có thể  dựa mạng ý nghĩa để  sắp xếp ý, để  nói (viết) được  
đoạn văn hoàn chỉnh về chủ đề mà bài tập yêu cầu. Những học sinh khá, giỏi thì  
đã có thể  tự  lập được mạng ý nghĩa hay bản đồ  tư  duy, viết được những đoạn  
văn có hình  ảnh, có sự  sáng tạo, có cảm xúc mà tôi giới thiệu kèm theo bài viết 
này. Đó là phần thưởng cho sự  nỗ  lực cố  gắng của mỗi học sinh cũng như  của  
bản thân tôi trong quá trình truyền dạy tri thức cho các em.
b. Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Với sự học hỏi của bản thân, sử dụng mạng ý nghĩa và bản đồ  tư  duy vào  
giảng dạy phân môn tập làm văn lớp 3 đã giảm hẳn áp lực học tập, học sinh thoải 
mái, tự  tin hơn khi thực hiện bài tập dạng Kể  hay nói (viết) theo chủ  đề. Kinh  
nghiệm tuy không lớn nhưng đã nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn nói  
riêng và môn Tiếng Việt lớp 3 nói chung.
III. Phần kết luận, kiến nghị 

1. Kết luận
Để nâng cao hiệu quả các giờ học Tập làm văn lớp 3 đặc biệt là với dạng 
bài tập “Kể  hay nói, viết về một chủ đề”, theo tôi người giáo viên phải có trách 
nhiệm cao trong công tác giảng dạy. Người giáo viên phải tìm ra những biện pháp 
thích hợp, tác động đến từng đối tượng học sinh để các em phát huy năng lực của 
bản thân 
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

19


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

mình. Qua đó các em sẽ  tự hình thành cách học tập khoa học và một thái độ  học  
tập đúng đắn. Mỗi giáo viên phải  nắm vững nội dung chương trình  môn Tiếng 
Việt lớp 3, đặc biệt là các bài dạy Tập làm văn có trong chương trình để  từ  đó  
xâu chuỗi được các kiến thức cần cung cấp cho học sinh qua các giờ dạy. Nghiên  
cứu   kĩ   nội   dung   bài   dạy,   xác   định   đúng   trọng   tâm   của   bài.   Vận   dụng   nhiều  
phương pháp và hình thức dạy học khác nhau, khắc sâu kiến thức bài giảng giúp 
mỗi học sinh đều hiểu và làm 
bài tập được ngay tại lớp. Đối với mỗi dạng bài tập, giáo viên cần xác định đối 
tượng học sinh yếu và tìm nguyên nhân dẫn đến việc học sinh không theo kịp bài 
để  có biện pháp giúp đỡ  kịp thời giúp các em có điều kiện và niềm tin học tiếp  
các bài 
học sau. Bên cạnh đó, động viên khen kịp thời mỗi tiến bộ  dù nhỏ  của học sinh 
cũng làm cho các em hứng thú trong học tập, khiến cho các em tích cực, tự  giác 
hơn trong 
quá trình tìm hiểu kiến thức của minh.
2. Kiến nghị

    ­ Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn 

Tiếng Việt  ở  Tiểu học nói riêng, giáo viên cần nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng 
nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh. 
 ­ Đối với Tổ  chuyên môn của nhà trường cần có các buổi sinh hoạt chuyên 
môn có chất lượng để  giáo viên có thể  học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao  
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Tháng 2 năm 2015
Người viết

Bùi Thị Kim Thoa
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

20


     Một số biện pháp hỗ trợ học sinh nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn 
lớp 3

………………………………………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

 GV: Bùi Thị Kim Thoa – Trường Tiểu học Krông Ana 

21




×