Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Nỗi nhớ da diết và sâu nặng đối với quê hương cách mạng đã dệt nên bức tranh tứ bình về Việt Bắc đẹp như trong cảnh thần tiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.25 KB, 3 trang )

Đề bài: Nỗi nhớ da diết và sâu nặng đối với quê hương cách mạng đã dệt nên bức  
tranh tứ bình về Việt Bắc đẹp như trong cảnh thần tiên
Bài làm
Bài thơ Việt Bắc đã được đánh giá là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác phẩm  
xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Bài thơ  có nhiều đoạn 
tuyệt đẹp, "không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà nhiều ngọn bút cùng nở 
một lúc: bút tả  tình, bút tả  cảnh, bút tả  người". Đoạn thơ  đang được bình giảng này là  
một đoạn thơ hay, thể hiện khá đặc sắc những nội dung đó.
Mười dòng thơ  này thực chất có thể  xem như  một bài thơ  độc lập để  thể  hiện nỗi nhớ 
của "ta" khi rời Việt Bắc. "Ta về", nhưng lòng ta có bao vấn vương, thương nhớ  cảnh 
sắc và con người Việt Bắc. Bắt đầu bằng câu hỏi tu từ: "Ta về mình có nhớ ta", Tố Hữu 
đã gợi liên tưởng đến câu ca dao rất quen thuộc:
Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
Cách xưng hô mình ­ ta được tác giả  học tập từ  những áng ca dao xưa. Nhưng đến Tố 
Hữu, giữa ta và mình có sự chuyển hóa, khi thì chỉ người ra đi, lúc thì chỉ người ở lại. sự 
đắp đổi luân chuyển này góp phần thể hiện tình cảm gắn bó thân thương giữa người ra đi 
và người ở lại.
Cảnh chia tay giữa "mình" và "ta" hiện lên có nỗi lưu luyến, nhớ nhung nhưng hoàn toàn  
không mang vẻ sầu bi. Lời thơ chuyển sang thể hiện nôi nhớ của "ta" với cảnh Việt Bắc.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Ve kêu rừng phách đổ vàng


Rừng thu trăng rọi hòa bình
Bốn câu thơ  đều là câu lục trong cặp lục bát nhưng được chia ra để  thể  hiện nỗi nhớ 
cảnh của "ta". Thiên nhiên Việt Bắc  ở mỗi mùa, mỗi thời điểm lại mang vẻ  đẹp riêng.  
Mùa xuân, đó là "mơ nở trắng rừng", còn mùa hạ, đó là tiếng ve ngân và sắc vàng rực rỡ 
của rừng phách. Cảnh ở  đây khi thì tươi xanh, mát dịu, lúc lại bừng lên, rực rỡ  với "hoa  
chuối đỏ  tươi" và "rừng phách đổ  vàng". Bông hoa chuối đỏ  tươi giữa rừng Việt Bắc  


đang ngày đông giá, người đi đường bắt gặp bỗng thấy  ấm lòng. Câu thơ  viết về  mùa 
đông Việt Bắc mà thấy toàn màu "đỏ tươi" và ánh sáng ­ "nắng ánh dao gài . Thật ấm áp 
và sống động, sắc màu và âm thanh của tiếng ve ngân mang đến cho cảnh Việt Bắc một  
vẻ quyến rũ riêng. Đứng ở mùa thu hiện tại với "trăng rọi hòa bình", nhà thơ đã có những  
hoài niệm về  một mùa hạ   ở  Việt Bắc với  ấn tượng mạnh mẽ  nhất khi "Ve kêu rừng  
phách đổ vàng". "Phách" là loại cây riêng có ở núi rừng Việt Bác, thường nở hoa tháng 6, 
tháng 7. Trước lúc nở hoa, rừng cây đồng loạt thay lá, chuyển từ màu xanh sang sắc vàng 
chỉ trong vài ngày. Trong câu thơ, chữ "đô" được sử dụng thật đắc địa. Nó nhằm diễn tả 
sự chuyển màu đồng loạt, mau lẹ, như ai đổ tràn cốc màu xuống cánh rừng.
Nói đến "rừng phách đổ  vàng" tức là đã thể  hiện nét đẹp đặc thù của thiên nhiên Việt  
Bắc. Sự hòa điệu của sắc màu và âm thanh được nói đến một cách tự nhiên. Không biết  
tiếng ve ngân đã làm cho "rừng phách đổ  vàng" hay sắc vàng của rừng phách đã làm dậy  
lên những tiếng ve ngân?
Bút pháp tả  cảnh của nhà thơ  đã có nhiều đặc sắc, nhưng nỗi nhớ  Việt Bắc còn khiến  
cho bút tả người, tả tình của nhà thơ độc đáo hơn:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.


Đều là những câu thơ tái hiện lại con người Việt Bắc nhưng mỗi câu lại có một nét riêng. 
Có khi đó là hình ảnh cụ thể, chi tiết "chuốt từng sợi giang", có khi đó chỉ là dấu ấn khó 
phai mờ. Gắn với cảnh Việt Bắc, đó là những con người trong lao động, nhẫn nại, cần cù  
"chuốt từng sợi giang". Hình ảnh của những con người ấy lồng lộng giữa khung cảnh núi 
rừng nhưng không bị  mờ, nhòa đi mà ánh nắng đèo cao kia chỉ  làm đẹp thêm cho họ.  
Những bàn tay cần mẫn chuốt giang đan nón, "hái măng một mình" cùng với "tiếng hát ân 
tình" nơi núi rừng Việt Bắc chính là những gì còn đọng sâu trong tâm trí và tình cảm của 
"ta" để khi "ta về", "ta" sẽ nhớ mãi "những hoa cùng người". Cảnh ấy và người ấy, nằm  
trong sự  gắn bó, cứ  nhớ  cảnh lại nhớ  người, nhớ người lại nhớ cảnh. Cấu trúc thơ  lục  

bát được tác giả  sử  dụng trong dụng ý không thể  tách rời cảnh và người. Cứ  nhớ  đến  
"Rừng xanh hoa chuối đỏ  tươi" lại hiện lên trong tâm khảm ánh dao gài thắt lưng của  
người đi rừng làm nương... Những điệp từ "nhớ" lặp đi lặp lại nhiều lần càng làm nổi rõ  
hơn tình cảm của "ta" khi rời Việt Bắc. Người  ở  lại đã cất lên tiếng hát "ân tình thủy  
chung" nhưng cũng là nói hộ  nỗi lòng của người đi với bao nhiêu ân tình. "Ta" hẳn phải  
có một tình cảm yêu thương sâu sắc với cảnh và người Việt Bắc thì mới có được những  
dòng thơ mang nét đẹp và nhiều cảm xúc đen như thế.
Sử dụng thể thơ lục bát, mỗi câu lục bát lại nhằm diễn tả một mùa, đoạn thơ có một cấu 
trúc cân đối, hài hòa, trôi chảy. Chính điều này góp phần tạo nên âm điệu ngọt ngào như 
khúc hát ru quen thuộc, như rót vào lòng bạn đọc. Đoạn thơ mười câu thể hiện nỗi niềm 
nhớ cảnh, nhớ người Việt Bắc. Qua nỗi nhớ ấy, ta thấy tình cảm cách mạng và tình cảm 
dân tộc đã quyện hòa. vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc dung dị hiền hòa gắn bó với những 
con người lao động đẹp đẽ, sáng trong. Tình cảm giữa "ta" và "mình" rồi đây sẽ  xa cách  
nhưng mãi mãi vẫn là ân tình, thủy chung.
 



×