Đề bài: Vẻ đẹp lãng mạn của truyện ngắn "Mảnh trăng cuối rừng" của Nguyễn
Minh Châu
Bài làm
Nguyễn Minh Châu thuộc lứa nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu chia làm hai thời kỷ: trong và sau kháng chiến
chống Mỹ. Trong chiến tranh, Nguyễn Minh Châu nổi tiếng là một cây bút xông xáo, bám
sát từng bước đi của cuộc kháng chiến, mô tả trung thực, chân thành và trang trọng chủ
nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam. Ông là tác giả cuốn tiểu thuyết:
"Dấu chân người lính" nổi tiếng với hàng loạt truyện ngắn viết về người lính. Ở chặng
sau, Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút đi đầu trong việc đổi mới văn học.
Nhà văn đã mạnh dạn đặt ra rất nhiều vấn đề đối với việc hoàn thiện đạo đức và nhân
cách con người. Văn của Nguyễn Minh Châu càng ngày càng thấm đẫm những nỗi đời và
nặng trĩu một dư vị triết lý
"Mảnh trăng cuối rừng" là một trong những truyện ngắn xuất sắc được viết đầu những
năm chống Mỹ. Đây là một truyện ngắn lãng mạn của con người Việt Nam giữa những
năm chống Mỹ ác liệt. Nó viết về một cuộc hẹn hò kỳ lạ của một đôi trai gái, mà điểm
hẹn là nơi trọng điểm đánh phá của giặc Mỹ, giữa rừng già Trường Sơn
Qua đó nhà văn đã thể hiện được sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ Việt Nam, sức sống bất
diệt của dân tộc Việt Nam
"Mảnh trăng cuối rừng" đẹp như một bài thơ bằng văn xuôi Phong vị lãng mạn của nó
thấm đượm vào trong từng chi tiết nhỏ nhất của tác phẩm Như chúng ta biết. trong văn
học kháng chiến chống Mỹ có một nguồn cảm hứng lớn. đó là cảm hứng lãng mạn. Cảm
hứng ấy tìm đến những vẻ đẹp lý tưởng, tìm kiếm chất thơ ngay trong đời thường, vẽ ra
tất cả những gì mà mình mơ ước về con người và cuộc đời. Cho nên, cảm hứng lãng mạn
như một đôi cánh bay bổng, chắp cánh cho hiện thực, chắp cánh cho con người bay lên
trong thế giới của mơ ước, của khát vọng. Con người trong cảm hứng lãng mạn thường
hiện ra với vẻ đẹp lãng mạn phi thường, lý tưởng. Một trong những đặc sắc của "Mảnh
trăng cuối rừng" chính là vẻ đẹp lãng mạn ấy.
Trước hết chất lãng mạn hiện ra ngay trong nhan đề của câu chuyện. Ban đầu khi mới
được viết ra, truyện này có tên là "Mảnh trăng”, đến khi nó được in, lại trong tập ”Những
vùng trời khác nhau", tác giả mới chắp thêm vào hai chữ "cuối rừng". Và chúng ta thấy
rằng đây mới là cái tên mà tác phẩm cần phải có. Phải là "Mảnh trăng" chứ không phải là
"vầng trăng". Vầng trăng hiện ra một hình ảnh trăng tròn đầy, viên mãn, e rằng không
hợp. Còn mảnh trăng gợi ra hình ảnh trăng đầu tháng mảnh mai, mới mẻ, e ấp, tinh khôi.
Nó phù hợp với tinh thần của câu chuyện. Trước hết, nó là một ẩn dụ về nhân vật chính
của câu chuyện là Nguyệt. Nguyệt là trăng, là một cô gái mảnh dẻ. Nó cũng phù hợp với
tình yêu của đôi trai gái, một tình yêu vừa mới nhen nhóm, ban sơ, hứa hẹn, một ngày mai
sẽ tròn đầy. Đồng thời, nó cũng phù hợp với chính cuộc hò hẹn của câu chuyện. Cuộc hò
hẹn có vẻ đẹp của một mảnh trăng đầu tháng, họ tìm nhau, gặp nhau mà hoá ra chưa gặp.
Khi câu chuyện khép lại, chúng ta tin rằng họ vẫn còn tìm nhau trong rừng già Trường
Sơn. Và phải là "cuối rừng" chứ không phải là đầu rừng hay giữa rừng. Cuối rừng là một
không gian khuất lấp, quên lãng. Mảnh trăng vẫn lặng lẽ, âm thầm sáng nơi cuối rừng,
gợi lên một sức sống bền bỉ, một vẻ đẹp mà con người cần phải tìm kiếm. Vì lẽ đó mà
bản thân nhan đề của câu chuyện đã đẹp như một câu thơ hàm súc. Bản thân nhan đề ấy
cũng như một mảnh trăng treo trên bầu trời của câu chuyện, toả xuống thế giới của câu
chuyện ánh sáng thơ mộng và trữ tình của nó
Khung cảnh của câu chuyện này cũng tràn đầy chất lãng mạn. Đó là một đêm trăng đẹp
giữa những ngày bom đạn. Không khí của đêm trăng là một không khí thanh bình, rất phù
hợp cho những cuộc hẹn hò đôi lứa. Xe đi giữa những vạt rừng đen sẫm, gió Tây Nam
xào xạc trên những chỏm rừng, sương mù cứ đùn ra trắng như sữa. Thỉnh thoảng từ thung
lũng vang lên một tiếng chim mơ hồ. Trăng thì hiện ra, khi khuất sau đèo, khi rơi tõm
xuống thung lũng như một trò chơi ú tim. Về đêm, trăng đứng im giữa trời, sáng trong như
một mảnh bạc. Còn xe của Lãm thì bồng bềnh trong sương, tất cả toát lên một vẻ thơ
mộng, trang trọng và huyền bí, phù hợp với việc mô tả tình yêu thiêng liêng, thánh thiện.
Trong đó đáng nói nhất là hình tượng trăng. Toàn bộ câu chuyện được bao bọc trong một
thứ ánh sáng bàng bạc. Ánh trăng như một bầu khí quyển riêng bao bọc câu chuyện. Nếu
như chúng ta làm một thử nghiệm dại dột là tước đi tất cả những câu dính dáng đến trăng
thì câu chuyện sẽ ra sao? Cốt truyện vẫn thế, nhân vật vẫn thế, thậm chí chủ đề cũng
không có ảnh hưởng gì. Tất cả sẽ hiện ra một cách quá ư là rõ rệt, rõ rệt đến mức trần
trụi và chắc chắn là chất thơ của câu chuyện đã hoàn toàn tan biến. Trăng được mô tả
vừa sinh động, vừa giàu chất tượng trưng. Ban đầu là mảnh trăng nhợt nhạt, có lúc trăng
còn làm cho Lãm nhầm với pháo sáng, có lúc trăng lặng lẽ, có lúc trăng tinh nghịch...
Nhưng nhất là lúc trăng ùa vào buồng lái hoà nhập làm một với nhân vật Nguyệt, khiến
cho từng sợi tóc của cô đều sáng lên, khuôn mặt của cô lồng đầy bóng trăng, con đường
trước mặt cũng thếp đầy ánh trăng. Trong khung cảnh ấy phải nói rằng trăng là cái phần
lung linh nhất của bức tranh, cũng là phần lộng lẫy nhất của chất lãng mạn
Tuy nhiên, "Mảnh trăng cuối rừng'' là một truyện ngắn chứ không phải là một bài thơ.
Cho nên dù chất trữ tình, chất thơ bộc lộ trong khung cảnh khá đậm, nhưng cũng chưa
phải là yếu tố quyết định. Chúng ta biết trung tâm của truyện ngắn là nhân vật là con
người, cho nên, chính vẻ lãng mạn của con người mới là yếu tố quyết định chất lãng mạn
của tác phẩm. Và tất nhiên nhân vật trung tâm của tác phẩm chính là Nguyệt
Nhân vật Nguyệt có lẽ là nét lãng mạn nhất của câu chuyện này, Nguyễn Minh Châu đã
có dụng ý khi miêu tả ngoại hình nhân vật Nguyệt hoàn toàn tương phản với khung cảnh
chiến tranh lúc bấy giờ. Giữa rừng núi hoang sơ, giữa cảnh bom đạn tàn phá ác liệt, bỗng
hiện ra một cô gái mảnh dẻ với trang phục đời thường Sự hiện diện của một người con
gái như thế là một sự lạc lõng, trớ trêu hay là một sự thách thức với bom đạn? Nguyệt
được mô tả với một thân hình mảnh dẻ nhưng cứng cỏi đầy sức sống. Dáng người dong
dỏng cao. Giọng nói trong trẻo, cứng cỏi. đôi mắt đen láy và sâu thẳm, mái tóc dày thơm
mát và trẻ trung làm sao. đôi gót chân bóng hồng, đôi dép cao su sạch sẽ. Quần lụa chấm
mắt cá. Tất cả những điều đó đã làm toát lên ở Nguyệt một vẻ đẹp thanh xuân Giữa
khung cảnh chiến tranh, Nguyệt xuất hiện như đang đi đến một cuộc hẹn hò thời bình.
Điều này đã giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện được một điều rất sâu sắc trong sức sống
của Nguyệt. Bom đạn không tiêu diệt được khát vọng tình yêu. Nếu như giữa những ngày
tàn khốc, một cô gái như Nguyệt vẫn biết chăm lo được những nét đẹp thuộc vẻ nữ tính,
thì có nghĩa là bom đạn, chết chóc đã hoàn toàn bất lực trước sức sống của con người. Họ
vẫn ung dung sống, sống như bản thân mình, ngừng cao đầu làm người, bất chấp mọi sự
đe doạ tàn bạo, dã man nhất.
Tuy nhiên, điều đáng nói hơn ở nhân vật Nguyệt, không phải là ở ngoại hình, mà ở vẻ
đẹp trong tính cách của nhân vật này. Phải nói rằng, Nguyễn Minh Châu đã có cách kể rất
tự nhiên và khéo léo. Hình ảnh Nguyệt cứ hiện dần ra, hiện dần lên. Ban đầu. Nguyệt
ngồi ở trong thùng xe tối om, cả Lãm và người đọc chỉ nghe thấy giọng nói của cô, nhưng
chỉ cần nghe giọng nói Lãm cũng đã mơ hồ cảm nhận được phẩm chất bên trong của
người con gái đó. Thế rồi Nguyệt hiện ra thật sự. và được nhà văn giới thiệu dần từng
nét một. Nét đầu tiên mà Lãm và người đọc nhận ra ở Nguyệt là gót chân bóng hồng.
Nghĩa là Nguyệt cứ hiện dần ra dưới ánh sáng và bằng ánh sáng. Thoạt đầu là dưới ánh
sáng tù mù của ngọn đèn xe xích, rồi Nguyệt hiện dần lên dưới ánh trăng, Nguyệt chói
sáng lên trong lửa đạn, rồi cuối cùng Nguyệt đọng lại trong ánh sáng tình yêu ờ trái tim
Lãm Khi trăng đã lặn, Nguyệt quay lui trở về ngầm" Lãm vẫn cứ thấy Nguyệt đi trước xe
mặt lòng đầy bóng trăng. Bởi vì, Nguyệt cũng là một thứ ánh sáng, ánh sáng tươi mát của
vành trăng mà bom đạn không thể nào che khuất được. Cuối cùng, Nguyệt hiện lên trong
tim Lãm óng ánh một tình yêu chói ngời và bất diệt. Có thể nói vẻ đẹp của Nguyệt gồm
hai phương diện chính: một là người yêu lý tưởng, ở đây cô hiện ra chủ yếu trong ánh
trăng, hai là một chiến sĩ anh hùng, ở khía cạnh này cô hiện ra chủ yếu trong bom đạn.
Có lẽ hiếm có người con gái nào có được những phẩm chất như Nguyệt, một mình sống
giữa đời, ra giữa trận mạc nhưng vẫn rất duyên dáng, tế nhị. Bom đạn không làm cho tính
cách của Nguyệt bị biến dạng. Nhà văn mô tả cách trả lời, cách đối thoại, giao tiếp của
Nguyệt với người lính lái xe, từ cách ngồi ý tứ đoan trang, cho đến cách dò hỏi, cách động
viên, tất cả đều cho thấy vẻ nết na của Nguyệt. Và nhất là ở Nguyệt có một niềm tin vô
cùng trong sáng vào cuộc đời. Nguyệt và Lãm chưa từng một lần gặp nhau. Nguyệt chỉ
biết về Lãm qua chị Tính và cũng chỉ qua vài câu chuyện ít ỏi. Ấy thế mà Nguyệt đã tự
nguyện đính ước với Lăm. Suốt mấy năm liền, Lãm còn hờ hững, thế nhưng Nguyệt vẫn
gắn bó thuỷ chung với mối tình ấy. Thực ra đó không hẳn là lòng chung thuỷ mà là đức
trung tin. Nguyệt gắn bó với Lãm như muốn giữ một tín niệm với mình. Đối với những
người con gái như Nguyệt, chung thuỷ với người mình yêu trước hết là chung thuỷ với
chính mình. Nói một cách khác, sự bội ước với người khác chính là sự bội ước với bản
thân. Cho nên, ai đã có phẩm chất ấy thì trước sau không bao giờ thay đổi, cho dù hoàn
cảnh có tăm tối, nghiệt ngã và tàn bạo đến đâu. Và đây chính là điều khiến cho Lãm lạ
lùng nhất. Và đến khi hiểu được điều này thì Lãm thấy mình là con người hạnh phúc
nhất. Đây chính là cái mà Nguyễn Minh Châu gọi là sợi chỉ xanh óng ánh, mảnh mai của
tâm hồn Nguyệt và của thế hệ trẻ Việt Nam nói chung mà bom đạn Mỹ không thể nào
chặt đứt. Chúng có thể đánh sập được cầu Đá Xanh nhưng không thể cắt đứt được sợi
chỉ xanh óng ánh mỏng manh ấy. Nó thách thức cả thời gian lẫn bom đạn.
Là cô gái trẻ trung, tươi mát, Nguyệt còn là một người can đảm, kiên cường. Khi máy bay
đến, Nguyệt dường như bộc lộ những tính cách mà chúng ta không thể ngờ lại có được ở
một con người mảnh dẻ nhường ấy. Nguyệt rất am hiểu quy luật hoạt động, oanh tạc
của máy bay địch, thông thạo từng đoạn đường, nhớ rành mạch tùng hố bom, lúc xi nhan
cho xe chạy, lúc nhảy phăng xuống suối cột dây tời để kéo xe lên. Khi địch ném bom
Nguyệt đã đẩy Lãm vào chỗ an toàn duy nhất, còn mình thì đứng che bên ngoài. Sau đó,
chính lúc địch ném bom Nguyệt đã lao ra cứu xe, cuối cùng Nguyệt đã bị thượng. Toàn bộ
hành động dũng cảm, gan dạ của Nguyệt khiến cho Lãm cảm thấy trong mình dâng lên
một tình yêu mãnh liệt đến mê muội.
Như vậy, ở Nguyệt có một vẻ đẹp thật hoàn hảo, vẻ đẹp được lý tưởng hoá, được diễn
tả trong cảm hứng lãng mạn bay bổng. Điều này đã làm cho mối tình của họ trong chiến
tranh thật là rực rỡ. Cuộc hẹn hò của một đôi trai gái biến thành cuộc hiệp đồng chiến
đấu của hai chiến sĩ. Bản tình ca đã hoà vào bản hùng ca để ca ngợi sức sống bất diệt
của dân tộc này khi đối chọi với mọi thế lực ngoại xâm. Và đối với riêng Nguyễn Minh
Châu, đây chính là viên ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người mà nhà văn đã nguyện tìm
kiếm suốt cuộc đời cầm bút của mình.