Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt Luận án tiến sĩ Khoa học cây trồng: Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật sản xuất chè vụ Đông Xuân trên giống chè Kim Tuyên tại tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.12 KB, 28 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

PHAN CHÍ NGHĨA

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
SẢN XUẤT CHÈ VỤ ĐÔNG XUÂN TRÊN GIỐNG
CHÈ KIM TUYÊN TẠI TỈNH PHÚ THỌ
Ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 9.62.01.10

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG

THÁI NGUYÊN – 2018


Luận án được hoàn thành tại:
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn
2. PGS.TS. Nguyễn Ngọc Nông
Ngƣời phản biện 1: ...............................................
Ngƣời phản biện 2: ...............................................
Ngƣời phản biện 3: ...............................................

Luận án đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Trƣờng
Họp tại: TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Vào hồi ..... giờ, ngày ..... tháng ...... năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thƣ viện Quốc gia


- Trung tâm học liệu Đại học Thái Nguyên
- Thƣ viện Trƣờng Đại học Nông Lâm - ĐH Thái Nguyên


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Phan Chí Nghĩa, Nguyễn Văn Toàn (2016), Kết quả nghiên cứu ảnh
hưởng của lượng mưa và ẩm độ đất đến việc sản xuất chè Đông Xuân
tại Phú Thọ, Hội thảo quốc gia về Khoa học cây trồng, lần thứ hai, Cần
Thơ 11,12/8/2016. (ISBN: 978-604-60-2351-7, tr 1107-1113)
2. Phan Chí Nghĩa, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Ngọc Nông
(2018), Kết quả nghiên cứu kỹ thuật tưới nước và bón phân bổ
sung cho sản xuất chè vụ Đông Xuân tại Phú Thọ, Tạp chí Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, (ISSN: 1859-4581, số 7/2018, tr
88-92)
3. Phan Chí Nghĩa, Nguyễn Văn Toàn, Nguyễn Ngọc Nông, Trần
Thành Vinh (2018), Hàm lượng tinh bột trong rễ chè, ảnh hưởng của
phân hữu cơ sinh học đến sự tích lũy và ứng dụng vào đốn chè trái vụ
phục vụ sản xuất chè Đông Xuân tại Phú Thọ, Khoa học và công nghệ
nông nghiệp Việt Nam, (ISSN: 1859-1558, số 87, tr 51-55)
4. Phan Chí Nghĩa, Nguyễn Văn Toàn, Trần Thành Vinh (2018),
Thay thế một phần phân bón đa lượng bằng phân bón hữu cơ vi sinh
phục vụ sản xuất chè vụ Đông Xuân tại tỉnh Phú Thọ, Kỷ yếu Hội nghị
Khoa học và công nghệ, chuyên ngành Trồng trọt, bảo vệ thực vật giai
đoạn 2013 – 2018, (ISBN:978-604-973-176-1, tr 402-408)



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cây chè (Camellia sinensis L. Okuntze) là loại cây trồng có lịch
sử lâu đời. Việt Nam là một trong một số ít nước trên thế giới có điều
kiện tự nhiên và truyền thống sản xuất chè. Phú Thọ là tỉnh thuộc
vùng trung du miền núi phía Bắc, được coi là cái nôi của ngành chè
Việt Nam. Với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cho phát
triển cây chè.
Hiện nay, sản xuất chè xanh của tỉnh Phú Thọ không có nhiều
lợi thế. Về thương hiệu thì chè xanh Thái Nguyên đã được bảo hộ chỉ
dẫn địa lý cho vùng chè Tân Cương, về chất lượng thì các vùng chè
Hà Giang, Yên Bái, Lâm Đồng có lợi thế về độ cao so với mực nước
biển nên chất lượng chè cao hơn những vùng thấp như Phú Thọ. Vậy
để có thể tạo ưu thế cạnh tranh, ngành chè Phú Thọ cần có những
thay đổi để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Một trong những hướng
có thể nâng cao hiệu quả sản xuất chè xanh ở Phú Thọ đó là sản xuất
chè Vụ Đông Xuân.
Tuy nhiên, sản xuất chè vụ Đông Xuân ở Phú Thọ hiện nay đang
gặp phải những khó khăn. Vì thế, để sản xuất chè xanh vụ Đông
Xuân ở Phú Thọ đạt được kết quả cao và bền vững thì cùng với việc
lựa chọn giống có chất lượng chè xanh tốt là giống chè Kim Tuyên,
vấn đề rất quan trọng và cấp thiết là phải có các biện pháp kỹ thuật
trồng trọt thích hợp. Xuất phát từ những lý do trên, tiến hành thực
hiện đề tài: “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật sản xuất chè vụ
Đông Xuân trên giống chè Kim Tuyên tại tỉnh Phú Thọ”
2. Mục tiêu của đề tài
Xác định được một số biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp làm
tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế trong sản xuất chè Đông
Xuân trên giống chè Kim Tuyên tại tỉnh Phú Thọ.


2

3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp các dẫn liệu khoa học
nghiên cứu về quan hệ giữa ẩm độ đất và năng suất của chè.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp các dẫn liệu khoa học
nghiên cứu về diễn biến hàm lượng tinh bột trong rễ của cây chè theo mùa
và quan hệ của nó với thời vụ đốn chè, một biện pháp kỹ thuật độc đáo
trong nghề trồng chè.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp các dẫn liệu khoa học
nghiên cứu về tương tác giữa biện pháp kỹ thuật tưới nước và bón phân bổ
sung có ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng chè trong vụ Đông Xuân.
- Kết quả của đề tài là tài liệu tham khảo có giá trị cho cán bộ khoa
học kỹ thuật, cho người sản xuất kinh doanh chè, cho giáo viên, sinh viên,
học viên cao học trong học tập, nghiên cứu về cây chè.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Xác định được thời vụ đốn chè hợp lý cho sản xuất chè Đông
Xuân trên cơ sở xác định diễn biến tích lũy hàm lượng tinh bột trong
rễ chè và ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến sự tích lũy đó.
- Xác định được lượng nước tưới và lượng phân bón bổ sung
cho sản xuất chè vụ Đông Xuân trên giống Kim Tuyên tại Phú Thọ.
- Góp phần đa dạng sản phẩm chè nâng cao hiệu quả sản xuất
chè cho tỉnh Phú Thọ.
4. Những đóng góp mới của đề tài
Xác định thời vụ đốn chè trái vụ phù hợp với sản xuất chè vụ
Đông Xuân trên giống chè Kim Tuyên tại tỉnh Phú Thọ trên cơ sở
xác định mối quan hệ giữa hàm lượng tinh bột trong rễ chè và sự sinh
trưởng, phát triển của cây chè sau đốn. Hàm lượng tinh bột càng cao
thì sinh trưởng, phát triển sau đốn của chè càng mạnh và ngược lại.
Xác định quan hệ giữa ẩm độ đất và năng suất của chè Kim
Tuyên tại Phú Thọ có tương quan chặt chẽ (R=0,87).



3
Xác định biện pháp đồng thời giữa tưới nước và bón phân bổ
sung làm tăng hiệu quả sản xuất chè vụ Đông Xuân trên giống Kim
Tuyên tại tỉnh Phú Thọ.
5. Cấu trúc luận án
Luận án gồm 111 trang (không kể phần tài liệu tham khảo), mở
đầu 3 trang, tổng quan tài liệu 26 trang, đối tượng, vật liệu, nội dung
và phương pháp nghiên cứu 19 trang, kết quả nghiên cứu và thảo
luận 61 trang, kết luận và đề nghị 02 trang. Luận văn có 41 bảng thể
hiện kết quả nghiên cứu, 11 hình ảnh và biểu đồ, 89 tài liệu tham
khảo, trong đó có 57 tài liệu tiếng Việt và 30 tài liệu tiếng Anh.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Thứ nhất: Vấn đề thay đổi thời vụ đốn chè phù hợp với sản xuất
vụ Đông Xuân. Theo quy trình đốn chè kinh doanh Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn thì thời vụ đốn sẽ từ tháng 12 đến tháng 1. Nếu sử
dụng thời vụ này sẽ làm giảm thu hoạch búp trong vụ Đông Xuân.
Chính vì vậy, cần thay đổi thời vụ trước hoặc sau khi thu hoạch chè
Đông Xuân mới có hiệu quả.
Việc xác định thời vụ đốn nào là thích hợp cần có cơ sở khoa học
chắc chắn. Các nghiên cứu về tổng quan đã cho biết có một mối liên hệ
mật thiết giữa sinh trưởng của chè sau đốn và hàm lượng tinh bột trong
rễ chè. Chính vì vậy, cần tìm hiểu diễn biến hàm lượng tinh bột trong
rễ chè theo tháng trong năm. Sau đó nghiên cứu sinh trưởng của cây
chè sau khi đốn tại các thời điểm này. Từ đó, chọn ra những thời điểm
đốn trái vụ phù hợp với giống chè Kim Tuyên đang sản xuất tại Phú
Thọ. Đây chính là nội dung nghiên cứu đầu tiên của đề tài.
Thứ hai: Vấn đề tưới nước và bón phân bổ sung cho cây chè trong

những thời điểm lượng mưa và ẩm độ thấp.
Nhiều tác giả đều thống nhất muốn cây chè sinh trưởng phát triển
tốt cần lượng mưa >100 mm/tháng. Tuy nhiên, ảnh hưởng của lượng


4
mưa đến sinh trưởng, phát triển của cây chè thực chất là thông qua tác
động đến độ ẩm đất. Chính độ ẩm đất là yếu tố quan trọng để cây chè
sinh trưởng, phát triển tốt. Trong đề tài này, vấn đề đầu tiên đặt ra là
xem xét nhu cầu ẩm độ đất của cây chè theo các tháng trong năm, từ
đó tìm ra mối quan hệ giữa năng suất của chè và ẩm độ đất.
Các nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Anh (1994) và Lê Tất Khương
(1997) đưa ra lượng tưới từ 600 - 800 m3/ha/tháng là phù hợp với sản
xuất chè miền Bắc Việt Nam. Bên cạnh đó, để sản xuất chè vụ Đông
Xuân cần thiết phải tăng lượng bón vào các tháng mùa Thu. Đây là
những tháng mà sau đó đáng lẽ ra cây chè được nghỉ ngơi và phục hồi.
Chính vì vậy, để bổ sung sinh dưỡng cho chè ra búp trong vụ Đông
Xuân cần chuyển dịch quy trình bón hàng năm bằng cách tăng thêm
15% lượng phân khoáng vào tháng 9 và giảm 15% lượng bón vào
tháng 2.
Lúc này, lượng bón tháng 9 chuyển thành: 100 N + 33 P205 + 33
K20 (tương đương lượng phân đơn: 217,39 kg urê + 206,25 kg supe
Lân + 58,93 kg kali clorua). Tuy nhiên, việc xác định thời điểm bón
vào tháng 9 hay rải lượng phân bón này làm hai lần (tháng 9 và tháng
12) ảnh hưởng rất lớn đến sự sung sức của chè trong giai đoạn này.
Các nghiên cứu trước đây về sản xuất chè vụ Đông Xuân đều xem xét
đơn lẻ hai kỹ thuật tưới nước và bón phân khoáng bổ sung cho chè vụ
Đông Xuân mà chưa có một nghiên cứu nào đề cập đến việc xác định
biện pháp đồng thời tưới nước và bón phân khoáng bổ sung đến sản
xuất chè Đông Xuân.

Để sản xuất chè bền vững, cần thay thế một phần phân khoáng đa
lượng bằng các loại phân bón hữu cơ, đặc biệt là phân hữu cơ vi sinh.
Đây là các loại phân có chứa các chủng vi sinh vật có ích, mang lại
hiệu quả lâu dài cho nương chè. Việc thử nghiệm thay thế 30% giá trị
phân khoáng bằng ba loại phân hữu cơ vi sinh phổ biến trên thị trường


5
là Sông Gianh, Tiến Nông và Quế Lâm có ý nghĩa thực tiễn lớn với sự
phát triển bền vững của nương chè.
Thứ ba: Sau khi xác định được một số biện pháp kỹ thuật tốt nhất
áp dụng cho sản xuất chè vụ Đông Xuân trên giống chè Kim Tuyên tại
Phú Thọ. Cần xây dựng mô hình sản xuất với diện tích lớn, trong đó
lựa chọn các kỹ thuật tốt nhất là kết quả nghiên cứu của các nội dung
trên để kiểm chứng hiệu quả của mô hình.
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giống chè Kim Tuyên tuổi 7 – 11.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1/2014 đến 4/2018
Địa điểm nghiên cứu: Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp
miền núi phía Bắc, Xã Phú Hộ và xã Văn Lung, thị xã Phú Thọ, tỉnh
Phú Thọ.
2.1.2. Vật liệu nghiên cứu
* Hệ thống tưới: Sử dụng hệ thống tưới phun mưa áp lực bằng
máy bơm, hệ thống có bể chứa xi măng dung tích 15 m3 dẫn đến các
ống dẫn chính bằng nhựa PVC Ø=60 mm, đầu ống dẫn chính có van
khóa vặn tay, sau đó dẫn đến các ống dẫn phụ bằng nhựa PVC

Ø=27mm, trên các ống dẫn phụ có các vòi phun khoảng cách 10
m/vòi. Bán kính tưới của vòi là 5 - 6 m.
* Phân bón bao gồm:
+ Phân bón đa lượng: Đạm urê Phú Mỹ (N: 46,3%), supe lân
Lâm Thao (P2O5: 16 – 16,5%) và kali clorua Phú Mỹ (K2O: 61±1%)
tất cả đều phổ biến trên thị trường.


6
+ Phân hữu cơ vi sinh:
- Phân lân hữu cơ vi sinh Quế Lâm: Độ ẩm: 30%; Hữu cơ: 23%,
N-P2O5hh-K2O: 1-3-1; Các chủng Vi sinh vật hữu ích: Aspergillus sp:
1 x 106 CFU/g; Azotobacter: 1 x 106CFU/g; Bacillus: 1 x 106 CFU/g.
- Phân hữu cơ vi sinh Sông Gianh: Độ ẩm: 30%; Hữu cơ:
15%; P2O5hh: 1,5%; Acid Humic: 2,5%; Trung lượng: Ca: 1,0%; Mg:
0,5%; S: 0,3%; Các chủng Vi sinh vật hữu ích: Aspergillus sp: 1 x
106 CFU/g; Azotobacter: 1 x 106CFU/g.
- Phân hữu cơ vi sinh Tiến Nông: Độ ẩm: 30%; Hữu cơ: 23%;
Nitơ (N): 1% ; Phốt pho (P2O5): 3% ; Kali (K2O): 1%, Axit Humic:
1,5% ; Vi sinh vật phân giải Xenlulô - Aspergillus Fumigatus: 1 x
106 CFU/g
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Nghiên cứu hàm lượng tinh bột trong rễ chè và ứng dụng
vào việc đốn chè trái vụ
- Nghiên cứu diễn biến hàm lượng tinh bột trong rễ chè theo tháng
trong năm.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến hàm lượng tinh
bột trong rễ và chỉ số diện tích lá chè.
- Nghiên cứu một số thời vụ đốn chè trái vụ trong sản xuất chè vụ
Đông Xuân.

2.2.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của tưới nước và bón phân khoáng
bổ sung đến năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất chè vụ
Đông Xuân
- Nghiên cứu quan hệ của của độ ẩm đất với năng suất của chè Kim
Tuyên.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của tưới nước và bón phân khoáng bổ sung
đến sinh trưởng, năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất chè vụ
Đông Xuân.


7
- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số phân hữu cơ vi sinh đến sinh
trưởng, năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất chè vụ Đông
Xuân.
2.2.3. Xây dựng mô hình sản xuất chè vụ Đông Xuân trên giống
chè Kim Tuyên
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu nghiên cứu sinh trưởng,
năng suất và chất lượng của cây chè
Sử dụng các phương pháp quan trắc thí nghiệm đồng ruộng
chè của Nguyễn Văn Tạo (1998) để tiến hành bố trí các thí nghiệm
đồng ruộng, các nghiên cứu thực nghiệm, theo dõi các chỉ tiêu về
sinh trưởng phát triển, năng suất, chất lượng chè.
2.3.3. Xác định hàm lượng tinh bột trong rễ
Sử dụng phương pháp của Miller (1959): Lấy 3 cây/công thức để
tiến hành thí nghiệm, loại bỏ đất, chọn rễ có đường kính >3mm và tiến
hành cắt nhỏ, rửa bằng nước cất và làm khô ở 80oC cho đến khi trọng
lượng không đổi. Nghiền thành bột mịn. Cân 1g mẫu mỗi công thức
cho vào bình tam giác, bổ sung vào bình 100 ml HCl 5%. Đun cách
thủy mẫu trong 1 giờ. Sau 1 giờ toàn bộ tinh bột chuyển thành

glucose. Để nguội, nhỏ vào 4-5 giọt dung dịch methyl da cam sau đó
dùng NaOH 20% để trung hòa axid tới khi dung dịch đổi màu (từ
hồng sang vàng). Lọc bằng giấy lọc để thu dung dịch trong. Dựng
đường chuẩn và xác định hàm lượng đường.
2.3.4. Xác định tỷ lệ sâu bệnh hại
Theo QCVN 01-118:2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn về Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về phương pháp điều tra
phát hiện sinh vật hại chính gây hại cây chè.
2.4. Phƣơng pháp xử lý số liệu
Số liệu thu được được xử lý trên phần mềm Excel 2010 và phần
mềm IRRISTAT 5.0.


8
Chƣơng 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nghiên cứu hàm lƣợng tinh bột trong rễ chè và ứng dụng vào
việc đốn chè trái vụ
3.1.1. Diễn biến hàm lượng tinh bột trong rễ và năng suất chè Kim
Tuyên theo tháng trong năm
Các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài là Sharma và Murty
(1989) hay trong nước như Nguyễn Đình Vinh (2002) kết luận hàm
lượng Hidratcacbon (tinh bột) có trong rễ chè trước khi đốn tương
quan dương với sự phục hồi sinh trưởng cây chè sau khi đốn. Để làm
sáng tỏ thêm vấn đề này, đã tiến hành thí nghiệm trong chậu vại, xác
định diễn biến hàm lượng tinh bột trong rễ theo tháng trong năm và
năng suất tương ứng của cây chè Kim Tuyên tuổi 2 tại Phú Thọ. Kết
quả được thể hiện ở biểu đồ hình 3.1 biểu diễn hàm lượng tinh bột
trong rễ và năng suất chè theo tháng trong năm.
Từ biểu đồ, ta thấy hàm lượng tinh bột trong rễ chè cao nhất là

tháng 11, 12 trong năm, đạt khoảng 210,9 - 214,6 mg/g. Sau đó, hàm
lượng tinh bột giảm nhẹ khi cây chè bắt đầu huy động nguồn dinh
dưỡng dự trữ để ra những đợt búp đầu mùa Xuân. Sau tháng 4, hàm
lượng tinh bột trong rễ chè giảm đột ngột xuống 100,8 mg/g và
xuống thấp nhất vào tháng 7 chỉ đạt 66,2 mg/g. Lúc này là thời điểm
có ánh sáng trực xạ lớn, mưa nhiều, rất thích hợp cho quá trình quang
hợp và hô hấp của thực vật, chính vì vậy cây đã huy động một lượng
lớn dinh dưỡng tích lũy ở dạng tinh bột dưới rễ để nuôi các bộ phận
thân lá trên mặt đất, phục vụ cho quá trình sinh trưởng của cây. Đến
tháng 9, do lúc này số ngày nắng và lượng mưa bắt đầu giảm, hàm
lượng tinh bột ở rễ chè lại có chiều hướng tăng do cây chè bắt đầu
tích lũy dinh dưỡng cho các bộ phận dưới mặt đất. Hàm lượng tinh
bột đạt đỉnh vào tháng 12 và sau đó bắt đầu chu kỳ sinh trưởng mới.


9

Hình 3.1. Diễn biến hàm lƣợng tinh bột trong rễ và năng
suất chè theo tháng trong năm
Đường biểu diễn năng suất trên biểu đồ cho thấy năng suất búp
của cây chè theo các tháng trong năm cũng có sự khác biệt rất lớn,
gần như là đường đối xứng với đường biểu diễn hàm lượng tinh bột
trong rễ, nhận trục đối xứng là đường thẳng song song với trục
hoành. Có thể nhận thấy năng suất búp chè thấp nhất trong các tháng
từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau, chỉ đạt 1,64 – 2,54 g/cây. Tuy
nhiên, khi gặp điều kiện mưa xuân từ tháng 3 trở đi, năng suất búp
chè tăng dần và đạt cao nhất vào tháng 7 (11,8 g/cây), sau tháng 7
năng suất búp chè giảm dần và cây bước vào thời kỳ ngủ nghỉ.
Ta có thể nhận thấy giữa hàm lượng tinh bột trong rễ và sản
lượng của chè có mối quan hệ tương quan nghịch. Khi hàm lượng

tinh bột trong rễ thấp thì năng suất chè cao và ngược lại, khi hàm
lượng tinh bột trong rễ cao thì năng suất chè thấp. Đây chính là một
trong những cơ sở để các nhà khoa học chọn lựa thời điểm đốn chè
chính vụ thích hợp ở Việt Nam.
Đốn chè chính là phương pháp phá vỡ ưu thế ngọn của thân
chính cây chè, tạo ra bộ khung tán đồng đều góp phần tăng năng suất
búp cho cây. Việc lựa chọn thời vụ đốn chè dựa trên hai yếu tố: hàm
lượng tinh bột dự trữ ở rễ chè và điều kiện khí hậu tại thời điểm đốn


10
(Guinard, 1953). Để cây chè có thể sinh trưởng tốt sau khi đốn và tạo
ra sức bật cho cây, hàm lượng tinh bột dự trữ trong rễ chè tại thời
điểm đốn phải đủ lớn. Đây là nguồn cung cấp dinh dưỡng cho hình
thành và phát triển mầm chè mới. Đồng thời, thời tiết lúc này cũng
phải có số giờ nắng thấp, giảm thiểu sự hô hấp qua lá gây mất năng
lượng cho cây chè trong giai đoạn này. Chính vì vậy, trong canh tác
chè ở miền Bắc Việt Nam, rất nhiều tác giả đã chọn lựa thời vụ đốn
vào tháng 11, 12 hàng năm (Đỗ Văn Ngọc, 1994). Đây là những
tháng cây chè có tích lũy hàm lượng tinh bột lớn, số giờ nắng trong
ngày chỉ từ 1,4 - 2,6 giờ (Trạm khí tượng nông nghiệp Phú Hộ,
2016), rất thích hợp để đốn chè. Như vậy, để lựa chọn thời vụ đốn
cho canh tác chè vụ Đông Xuân, chúng ta cần dựa trên hàm lượng
tinh bột trong rễ chè và điều kiện khí hậu tại thời điểm đốn.
Nhìn vào vào hình 3.1, có thể thấy tháng 4 và tháng 9 là hai thời
điểm hàm lượng tinh bột trong rễ chè khá cao (>150 mg/g) và thời
điểm này số giờ nắng trong ngày cũng ở mức trung bình từ 2,7 - 5,2
giờ (Trạm khí tưởng NN Phú Hộ, 2016), đây là hai thời điểm nếu sử
dụng kỹ thuật đốn sẽ là thích hợp nhất để cho ta có thể thu hoạch búp
trong các tháng vụ Đông Xuân (từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau).

3.1.2. Ảnh hưởng của thời điểm đốn đến sinh trưởng sau đốn của
cây chè Kim Tuyên tại Phú Thọ
3.1.3. Ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến chỉ số diện tích lá
và hàm lượng tinh bột trong rễ chè
3.1.3.1. Ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến chỉ số diện tích lá
chè (LAI)
Chỉ số diện tích lá có ảnh hưởng trực tiếp đến quang hợp của
chè, khi theo dõi ảnh hưởng của bón phân hữu cơ vi sinh đến chỉ số
diện tích lá của chè 2 tuổi 10 tháng sau đốn, có thể nhận thấy:
Trước khi bắt đầu thí nghiệm chỉ số diện tích lá chè ở công thức
đối chứng và có bổ sung phân hữu cơ vi sinh là tương đương nhau,


11
đạt 1,13. Sau khi tiến hành đốn chè 10 tháng, ở công thức đối chứng,
chỉ số diện tích lá tăng thêm 0,38, đạt 1,51. Đây là mức tăng phù hợp
với cây chè Kim Tuyên thời kỳ kiến thiết cơ bản.
Bảng 3.5.Ảnh hƣởng phân hữu cơ vi sinh đến hệ số
diện tích lá chè
Hệ số diện tích lá
Công thức
Trước khi
10 tháng sau Chênh lệch
đốn
đốn
Đối chứng
1,13
1,51
0,38
Bón phân HCVS

1,13 ns
1,77 *
0,64
0,04
0,03
LSD0,05
2,1
1,7
CV%
Ở công thức có bón bổ sung phân hữu cơ vi sinh, có thể thấy rất
rõ ảnh hưởng của các thành phần dinh dưỡng trong phân và hai
chủng vi sinh vật Aspergillus và Azotobacter đã ảnh hưởng tốt đến bộ
lá cây chè. Chỉ số diện tích lá chè sau 10 tháng tăng 0,64 lên 1,77.
Khi so sánh với công thức đối chứng đã có sự sai khác rõ ràng có ý
nghĩa ở mức tin cậy 95%. Như vậy, nếu chúng ta bón bổ sung phân
hữu cơ vi sinh, cây chè sinh trưởng tốt hơn sau đốn và tạo ra bộ lá có
chỉ số diện tích cao hơn, tạo thuận lợi cho quang hợp của chè.
3.1.3.2. Ảnh hưởng của phân hữu cơ vi sinh đến hàm lượng tinh bột
trong rễ chè
Những công trình mới nhất của Li và cs (2016), Fan và cs
(2016) khi nghiên cứu tác động của phân hữu cơ vi sinh tới sự tích
lũy tinh bột đã kết luận, việc bón phân hữu cơ vi sinh làm nâng cao
kết cấu đất, bổ sung dinh dưỡng và giúp cây phát triển. Điều này thực
chất là do phân hữu cơ vi sinh đã nâng cao chỉ số diện tích lá, làm
tăng cường độ quang hợp. Chính vì vậy cây tổng hợp được nhiều vật
chất hữu cơ hơn, trên cơ sở đó tinh bột được dự trữ trong rễ cũng sẽ
tăng theo. Kết quả nghiên cứu cho thấy:


12

Bón bổ sung phân hữu cơ vi sinh làm tăng hàm lượng tinh bột
đáng kể ở tất cả các tháng theo dõi. Dao động trong khoảng từ 0,4 20,3 mg/g. Mức chênh lệch cao nhất là tháng 5, thấp nhất là tháng 8.
Bảng 3.6. Ảnh hƣởng phân hữu cơ vi sinh đến hàm lƣợng tinh
bột trong rễ chè
Đơn vị: mg/g
Hàm lƣợng tinh bột trong rễ
Đối
chứng
Bón phân HCVS
Tháng
Trung
Trung
Chênh lệch
±Sd
±Sd
bình
bình
214,6
227,2
12,6
1
2,5
6,3
210,5
215,7
5,2
2
3,3
8,0
200,7

208,4
7,7
3
4,2
7,4
187,3
197,6
10,3
4
2,9
6,3
100,8
121,1
20,3
5
3,2
7,9
75,7
78,9
3,2
6
6,8
5,4
66,2
75,2
9,0
7
5,5
5,5
68,9

69,3
0,4
8
3,7
7,5
153,2
164,2
11,0
9
4,7
8,5
167,7
178,6
10,9
10
5,8
8,9
180,6
185,2
4,6
11
6,3
6,6
210,9
214,3
3,4
12
3,7
9,1
Ghi chú: Số liệu trung bình hai năm 2015 và 2016.

Bón bổ sung phân HCVS vào các tháng 2, tháng 7 và tháng 9 hàng năm
Sd: Standard Deviation (Độ lệch chuẩn)

Thời điểm tháng 4 và tháng 9, việc bón bổ sung phân hữu cơ vi
sinh đã làm tăng hàm lượng tinh bột ở rễ chè thêm lần lượt 10,3 và
11,0 mg/g. Nâng hàm lượng tinh bột trong rễ chè ở tháng 4 lên 197,6
mg/g và tháng 9 lên 164,3 mg/g. Đây là mức tăng đáng kể góp phần
nâng cao nguồn năng lượng dự trữ cho cây, đảm bảo sức bật cho sự
sinh trưởng của cây sau đốn.
3.2. Ảnh hƣởng của tƣới nƣớc và bón phân bổ sung đến năng
suất, chất lƣợng và hiệu quả sản xuất chè vụ Đông Xuân


13
3.2.1. Quan hệ giữa lượng mưa, ẩm độ đất và năng suất của giống
chè Kim Tuyên
Có thể thấy, tại Phú Hộ lượng mưa phân bố rõ rệt thành vụ Đông
Xuân bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 3. Những tháng này
có lượng mưa rất thấp (từ 114,6 - 85,3 mm). Điều này không đảm
bảo lượng mưa tối thiểu theo yêu cầu sinh thái của cây chè (< 100
mm). Vụ Hè Thu đánh dấu bằng trận mưa rào đầu tiên vào ngày
5/4/2014 sau đó kéo dài đến tháng 9. Thời điểm này lượng mưa luôn
duy trì ở mức cao (từ 97,4 - 333,5 mm). Điều này thể hiện rõ hơn qua
hình 3.5.
Mối quan hệ giữa lượng mưa và ẩm độ đất ảnh hưởng như thế
nào đến sinh trưởng và phát triển giống chè Kim Tuyên cần được
phân tích rõ thêm, đó là quan sát các số liệu về năng suất theo tháng
của giống chè Kim Tuyên trong năm 2014.

Hình 3.5. Lƣợng mƣa, ẩm độ đất tại Phú Hộ năm 2014

Từ phân tích tương quan, thiết lập được phương trình hồi quy
giữa năng suất theo tháng của giống chè Kim Tuyên và ẩm độ đất là
y = 0,52x - 9,30. Dựa trên phương trình này có thể dự báo năng suất
chè dựa theo số liệu về độ ẩm đất tại các địa điểm nghiên cứu.


14

Hình 3.6. Tƣơng
quan giữa năng
suất theo tháng
của giống chè
Kim Tuyên và ẩm
độ đất.
Cũng kết quả bảng 3.16 và hình 3.6 cho thấy muốn sản xuất chè
Kim Tuyên trong vụ Đông Xuân tại Phú Thọ đạt hiệu quả cần có các
biện pháp nâng cao độ ẩm đất, tối thiểu độ ẩm đất cần đạt > 30%.
Điều này đồng nghĩa với việc để sản xuất chè có hiệu quả ở thời gian
từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau thì chúng ta cần phải nâng cao độ
ẩm đất cho cây chè.
Phương pháp nâng cao độ ẩm đất tối ứu chính là tưới nước bổ
sung. Chúng tôi đã nghiên cứu hệ thống tưới nước phun mưa cố định.
Đây là hệ thống cung cấp nước dưới dạng hạt mưa thông qua hệ
thống đường ống dẫn nước, vòi phun được lắp đặt cố định trên diện
tích khu tưới. Áp dụng hệ thống tưới này dựa trên tính toán lượng
nước tưới và nhu cầu phân bón để có thể vừa bổ sung được ẩm độ đất
đồng thời cung cấp dinh dưỡng cho cây chè từ tháng 10 đến tháng 3
năm sau.
3.2.2. Ảnh hưởng của tưới nước và bón phân khoáng bổ sung đến sinh
trưởng, năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất chè Đông Xuân

* Các yếu tố cấu thành năng suất
Bảng 3.18 cho thấy, không có sự tương tác giữa việc tưới nước
và bón phân khoáng bổ sung lên mật độ búp của cây chè (PT&P >
0,05). Khi không tưới nước bổ sung mật độ búp chè trong vụ Đông
Xuân chỉ từ 50,6 đến 75,2 búp/m2. Sau khi thực hiện tưới nước bổ
sung mật độ búp lập tức tăng lên từ 193,7 đến 206,8 búp/m2.


15
Bảng 3.18. Ảnh hƣởng của tƣới nƣớc và bón phân khoáng đến
các yếu tố cấu thành năng suất cây chè vụ Đông Xuân
Mật độ búp
Khối lượng búp
Chiều dài búp
Công thức
(búp/m2)
(g/búp)
(cm)
T0P0
50,6
0,56
4,36
T0P1
62,6
0,53
4,40
T0P2
75,2
0,55
4,45

T1P0
193,7
0,56
4,43
T1P1
194,1
0,55
4,36
T1P2
206,8
0,57
4,43
PT
0,00
0,09
0,99
PP
0,00
0,11
0,61
PT&P
0,15
0,44
0,62
LSD0,05 T
5,9
0.176574E-01
0,11
LSD0,05 P
7,2

0.216258E-01
0,13
LSD0,05 T&P
10,2
0.305835E-01
0,19
CV(%)
4,2
3,9
4,3
Ghi chú: Số liệu bình quân 3 năm 2014 – 2017

Có sự khác biệt ở các công thức bón phân khoáng (Pp < 0,05).
Trong đó, công thức bón rải lượng phân làm hai lần trong tháng 9 và
tháng 12 cho mật độ búp chè cao nhất đạt 206,8 búp/m2 cao hơn công
thức bón phân theo quy trình cũ 13,1 búp/m2. Có một điều đặc biệt là
khi áp dụng kết hợp biện pháp tưới nước với bón phân khoáng, nếu chỉ
đơn thuần tăng lượng phân bón lên hai lần so với quy trình cũ (công thức
T1P1) thì mật độ búp không có sự thay đổi rõ rệt (194,1 búp/m2 so với
193,7 búp/m2), nhưng nếu bón rải lượng phân đó ra làm hai lần trong vụ
Đông Xuân (công thức T1P2) thì mật độ búp được nâng cao rất rõ rệt
(206,8 búp/m2 so với 193,7 búp/m2). Điều này có thể là do cây chè
không thể hấp thu một lúc quá nhiều phân bón khoáng mà cần bổ sung
từ từ theo thời gian.
Hai chỉ tiêu khối lượng và chiều dài búp không thay đổi nhiều
khi tưới nước và bón phân khoáng bổ sung. Khối lượng búp đạt cao
nhất khi có tưới nước bổ sung và bón rải lượng phân làm hai lần
trong tháng 9 và tháng 12 đạt 0,57 gam/búp. Chiều dài búp có xu



16
hướng cao hơn khi rải lượng phân làm hai lần trong tháng 9 và tháng
12 ở cả hai công thức tưới và không tưới, cao nhất đạt 4,45 cm. Tuy
nhiên, kết quả xử lý thống kê cho thấy sự chênh lệch khối lượng búp
và chiều dài búp ở các công thức nghiên cứu không chắc chắn ở độ
tin cậy 95% (PT, PP và PT&P > 0,05).
* Năng suất và sản lượng
Bảng 3.19. Ảnh hƣởng của tƣới nƣớc và bón phân khoáng đến
năng suất lứa hái, sản lƣợng chè
Năng suất TB
Số lứa hái
SL vụ
Tổng
lứa
vụ Đông
Đông
SL
Công thức
vụ Đông Xuân
Xuân
Xuân
năm
(tạ/ha)
(lứa)
(tạ/ha)
(tạ/ha)
T0P0
1,23
2
2,46

72,1
T0P1
1,63
2
3,26
69,9
T0P2
1,76
2
3,52
68,0
T1P0
7,43
3
22,29
70,7
T1P1
8,90
3
26,70
68,8
T1P2
9,03
3
27,09
71,9
PT
0,00
0,43
PP

0,00
0,32
PT&P
0,01
0,00
LSD0,05 T
0,29
1,19
LSD0,05 P
0,36
1,46
LSD0,05 T&P
0,51
2,06
CV(%)
5,5
7,4
Ghi chú: Số liệu bình quân 3 năm 2014 - 2017

Qua theo dõi năng suất trung bình lứa hái trong vụ Đông Xuân
(bảng 3.19) nhận thấy có sự tương tác giữa việc tưới nước và bón
phân khoáng bổ sung cho cây chè (PT&P < 0,05). Khi không tưới nước
bổ sung năng suất trung bình lứa hái trong vụ Đông Xuân chỉ từ 1,23
đến 1,76 tạ/ha. Sau khi thực hiện tưới nước bổ sung năng suất lứa hái
trong vụ Đông Xuân tăng lên từ 7,43 đến 9,03 tạ/ha. Có thể thấy, khi
tưới nước bổ sung làm tăng mật độ búp và trên cơ sở đó làm tăng
năng suất cây chè. Điều này cũng phù hợp với nhận định của của


17

Nguyễn Văn Toàn (1994) khi nghiên cứu về tương quan giữa mật độ
búp và năng suất cây chè.
Trong ba công thức được tưới nước bổ sung, công thức bón rải
lượng phân khoáng làm hai lần trong tháng 9 và tháng 12 cho năng
suất lứa hái trong vụ Đông Xuân cao hơn hai công thức còn lại (Pp <
0,05). Tương tự như khi theo dõi chỉ tiêu mật độ búp, nếu chỉ đơn
thuần tăng lượng phân bón thì chưa mang lại hiệu quả trong việc
nâng cao năng suất chè trong vụ Đông Xuân mà cần kết hợp tưới
nước bổ sung và bón lượng phân khoáng làm nhiều lần mới có thể
mang lại hiệu quả. Điều này còn thể hiện qua việc theo dõi số lứa hái
của cây chè trong vụ Đông Xuân.
Ở công thức không tưới nước bổ sung (T0) chỉ có thể thu được 2
lứa hái trong vụ Đông Xuân. Nhưng ở tất cả các công thức có tưới
(T1) đều có thể thu được 3 lứa hái. Như vậy, việc tưới nước bổ sung
đã làm tăng thêm 1 lứa hái trong vụ Đông Xuân. Điều này có ý nghĩa
rất quan trọng trong việc nâng cao sản lượng của vụ Đông Xuân.
Có thể thấy các công thức có tưới nước bổ sung cho sản lượng
cao hơn các công thức không tưới nước. Cao nhất là công thức tưới
nước và bón rải lượng phân làm hai lần trong tháng 9 và tháng 12 đạt
27,09 tạ/ha vượt đối chứng không tưới và bón phân theo quy trình cũ
24,63 tạ/ha. Có hai lý do cho sự chênh lệch rất rõ của các công thức
có tưới và không tưới. Một là, những công thức tưới nước có năng
suất trung bình lứa cao hơn và hai là những công thức này lại cho thu
thêm 1 lứa hái/vụ.
Khi theo dõi sản lượng chè cả năm nhận thấy có sự tương tác
giữa việc tưới nước bón phân khoáng bổ sung đến sản lượng cả năm
của chè (PT&P < 0,05). Tổng sản lượng cao nhất là công thức đối
chứng không tưới và bón phân khoáng theo quy trình cũ đạt 72,1
tạ/ha. Công thức có sản lượng cả năm thấp nhất là T0P2 chỉ đạt 68,0
tạ/ha. Điều này chứng tỏ việc tưới nước và bón phân khoáng bổ sung



18
để sản xuất chè vụ Đông Xuân không ảnh hưởng nhiều đến tổng sản
lượng cả năm của cây chè mà chỉ ảnh hưởng đến cơ cấu sản lượng
của cây chè trong vụ Đông Xuân (khi tưới nước và bón phân khoáng
bổ sung sản lượng thu được vụ Đông Xuân cao hơn đối chứng). Khi
nâng cao được sản lượng chè vụ Đông Xuân cũng đồng thời với việc
chúng ta đã huy động một lượng lớn dinh dưỡng của cây chè, điều
này sẽ làm ảnh hưởng tới sản lượng chè trong vụ Hè Thu
* Thử nếm cảm quan
Bảng 3.22. Ảnh hƣởng của bón phân kết hợp tƣới nƣớc đến
kết quả thử nếm cảm quan chè xanh
Công
Ngoại
Màu
Tổng
Xếp
Hương Vị
thức
hình
nước
điểm
hạng
4,2
T0P0
Khá
2,6
4,5
5,4

16,8
4,0
T0P1
Khá
2,6
4,5
5,7
16,9
4,2
T0P2
Khá
2.4
4,5
5,7
16,8
4,0
T1P0
Khá
2,5
5,2
5,7
17,5
4,2
T1P1
Khá
2,5
5,0
5,7
17,4
4,0

T1P2
Khá
2,4
5,2
5,7
17,3
Ghi chú: Kết quả thử nếm năm 2017

* Hiệu quả kinh tế
Bảng 3.23. Hiệu quả kinh tế của tƣới nƣớc và bón phân bổ sung
trong sản xuất chè vụ Đông Xuân
Đơn vị: đồng/ha
Công thức
T0P0
T0P1
T0P2
T1P0
T1P1
T1P2

Tổng thu
(GR)

Tổng chi
(TC)

Lãi thuần
((RVAC) = GR-TC)

149.120.000

146.320.000
143.040.000
185.980.000
191.000.000
197.980.000

88.892.000
88.447.000
89.422.000
108.988.000
107.358.000
110.153.000

60.028.000
57.873.000
53.618.000
76.992.000
83.642.000
87.872.000

Ghi chú: Số liệu bình quân 3 năm 2014 – 2017
Tổng thu: Sản lượng chè tươi × hệ số chế biến theo từng vụ × giá bán TB chè khô.
Giá bán trung bình vụ Đông Xuân 200.000 đ/kg chè khô, vụ Hè Thu 100.000 đ/kg chè khô
Tổng chi: công lao động + chi phí vật tư (thuốc BVTV + Phân bón + Nhiên liệu)


19
Kết quả nghiên cứu cho thấy, lãi thuần thu được ở các công thức
thí nghiệm có sự chênh lệch rất rõ. Những công thức có tưới nước bổ
sung làm tăng năng suất trung bình lứa trong vụ Đông Xuân đồng

thời do giá bán chè xanh trong vụ Đông Xuân cao (200.000 đ/kg chè
thành phẩm) đã làm tăng tổng thu của các công thức này đạt
185.980.000 đ/ha - 197.980.000 đ/ha, điều này thể hiện việc suy giảm
sản lượng vụ Hè Thu không những không ảnh hưởng mà còn làm
tăng hiệu quả kinh tế của việc tưới nước bổ sung.
3.3. Xây dựng mô hình sản xuất chè Đông Xuân trên giống chè
Kim Tuyên
Bảng 3.32. Các yếu tố cấu thành năng suất
của mô hình chè Đông Xuân và mô hình sản xuất đại trà
Mật độ búp
Khối lƣợng búp Chiều dài búp
Công thức
(búp/m2)
(g/búp)
(cm)
Vụ Đông Xuân
Mô Hình
201,22
0,58
4,5
Đối chứng
61,32
0,53
4,3
Vụ Hè Thu
Mô Hình
682,67
0,59
4,35
Đối chứng

610,22
0,60
4,34
Trong vụ Đông Xuân, mô hình thí nghiệm cho mật độ búp
(201,22 búp/m2), khối lượng búp (0,58 gam/búp) cũng như chiều dài
búp (4,5 cm/búp) cao hơn sản xuất đối chứng. Điều này rất có ý
nghĩa cho người sản xuất để nâng cao năng suất chè vụ Đông Xuân,
rõ ràng việc tưới nước và bón phân bổ sung cân đối đã nâng cao các
yếu tố cấu thành năng suất của búp chè Đông Xuân.
Trong vụ Hè Thu, tuy mô hình thí nghiệm có khối lượng búp
thấp hơn đối chứng (0,59 gam/búp) nhưng mật độ và chiều dài búp
lại tăng cao hơn so với đối chứng. Điều này có thể là do hàm lượng
nước trong búp chè ở mô hình cao hơn sản xuất đại trà (do lượng tưới
nước bổ sung trong vụ Đông Xuân), dẫn đến khối lượng vật chất khô
tích lũy trong búp thấp hơn. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên


20
cứu của Ahmed S. (2014). cho rằng khi cây chè thiếu nước sẽ sản
sinh ra một chất là axit jasmonic (JA), chất này làm chậm quá trình
tích lũy vật chất khô của cây chè.
Khi so sánh kỹ hơn năng suất và sản lượng của chè ở mô hình
sản xuất, nhận thấy có sự thay đổi rõ rệt về cơ cấu lứa hái của cây chè
trong năm.
Bảng 3.33. So sánh năng suất của mô hình sản xuất chè đông
xuân và mô hình sản xuất đại trà
NSTB lứa hái Số lứa hái Sản lƣợng
Công thức
(tạ/ha)
(lứa)

(tạ/ha)
Vụ Đông Xuân
Mô hình
9,35
3
28,05
Đối chứng
1,57
2
3,14
Vụ Hè Thu
Mô hình
10,72
6
64,32
Đối chứng
11,37
7
79,59
Cả năm
Mô hình
10,26
9
92,37
Đối chứng
9,19
9
82,73
Qua bảng 3.33 có thể nhận thấy rõ ràng việc thu hái theo mô hình
đại trà khi lượng lớn búp chè được tập trung vào các tháng vụ Hè Thu

hoàn toàn có thể thay đổi được bằng các biện pháp kỹ thuật. Việc thay
đổi chu kỳ đốn, bón phân cân đối và đặc biệt là tưới nước bổ sung vào
các tháng vụ Đông Xuân đã nâng cao năng suất chè trong vụ Đông Xuân
đồng thời tăng số lứa hái trong vụ này thêm 1 lứa.
Khi so sánh tổng sản lượng cả năm cũng cho thấy mô hình sản
xuất chè Đông Xuân đã nâng cao sản lượng thêm 9,6 tạ/ha, điều này
là minh chứng rõ nét nhất của việc mô hình này ảnh hưởng rất ít đến
sản lượng chè Hè Thu. Tuy nhiên, để bổ sung lượng dinh dưỡng cây
trồng mất đi do nâng cao sản lượng, cần thiết phải chú ý đến việc bổ
sung dinh dưỡng cho cây bằng cách tăng lượng phân đa lượng và hữu
cơ cần thiết. Kết quả này phù hợp với những nghiên cứu của Lê Tất


21
Khương (2016). Tác giả cho rằng muốn sản xuất chè Đông Xuân cần
phải phối hợp nhiều yếu tố kỹ thuật từ tưới nước, bón phân và đốn
hái hợp lý.
Kết quả điều tra 30 hộ dân sản xuất chè tại ba địa điểm Thị xã
Phú Thọ, Huyện Thanh Ba và Huyện Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ (mỗi
địa điểm 10 hộ) cho thấy việc sản xuất chè vụ Đông Xuân ở tỉnh Phú
Thọ chưa được áp dụng. 100% số hộ được hỏi hiện nay vẫn sản xuất
chè tập trung vào các mùa vụ truyền thống, chủ yếu là vụ Hè Thu.
Đây là những tháng có sản lượng từ 10,35 - 17,36%. Những tháng
này có tổng sản lượng chiếm 80,7% sản lượng cả năm.
Sản lượng chè các tháng vụ Đông Xuân rất thấp không đáp ứng
được nhu cầu của các nhà máy và thị trường, chỉ từ 0,13 – 10,6%.
Tổng sản lượng chỉ khoảng 19,3%. Tình trạng thiếu nguyên liệu
trong vụ Đông Xuân khiến các nhà máy và hộ nông dân sản xuất cầm
chừng, hiệu quả thấp.


Hình 3.9. Sản lƣợng và giá bán của chè khô các tháng trong năm
tại Phú Thọ
Ngược lại với sản lượng, giá chè thường cao nhất trong thời
điểm vụ Đông (tháng 12 – tháng 2, thời điểm giáp Tết Nguyên Đán)
đạt >200.000 đ/kg chè khô và thấp nhất ở vụ Hè (tháng 6 - tháng 7),


×