Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Vỉa hè trong đời sống đô thị nhìn từ lý thuyết cấu trúc – hành động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.53 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 63 (3/2019)
No. 63 (3/2019)
Email: ; Website:

VỈA HÈ TRONG ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ
NHÌN TỪ LÝ THUYẾT CẤU TRÚC – HÀNH ĐỘNG
(Nghiên cứu trường hợp vỉa hè đường Nguyễn Thị Minh Khai,
Thành phố Hồ Chí Minh)
The study of pavement in urban life: A view from Structuration Theory
(Case study of Nguyen Thi Minh Khai Street’s pavement, Ho Chi Minh City)
ThS.NCS. Võ Thanh Tuyền(1), PGS.TS. Phan Thị Hồng Xuân(2)
(1),(2)Trường

Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM

Tóm tắt
Bài viết nghiên cứu thực trạng việc sử dụng không gian vỉa hè của người dân đô thị qua việc áp dụng lý
thuyết cấu trúc - hành động của A. Giddens. Trong giới hạn nghiên cứu, tác giả thực hiện nghiên cứu
vỉa hè đường Nguyễn Thị Minh Khai, TP.HCM, do đây là vỉa hè mang đặc trưng của vỉa hè TP.HCM
và đặc biệt là vỉa hè nội thành. Bằng phương pháp thu thập và xử lý thông tin sẵn có, phỏng vấn nhanh
và quan sát tham dự, bài viết phân tích tương quan giữa cấu trúc vỉa hè và hoạt động của người dân
trong đời sống đô thị.
Từ khóa: vỉa hè, không gian công cộng, đời sống đô thị, Lý thuyết Cấu trúc - Hành động của A. Giddens
Abstract
The article investigates the realities of urban pavement use by adopting Giddens' Structuration Theory.


Within the scope of the study, the case put under investigation is Nguyen Thi Minh Khai Street's
pavement (HCMC) as it typifies the Ho Chi Minh city sidewalks, especially metropolitan ones. By tools
of collecting and processing available information, interviews and observation, the article analyses the
correlation between pavement structure and people's activities in urban life.
Keywords: urban pavement, public space, people's activities in urban life, Giddens' Structuration Theory

hình thành nên sự pha trộn đời sống văn
hóa trong đô thị. Trong không gian sống
ấy, vỉa hè có một vai trò không hề nhỏ. Vỉa
hè hình thành dọc theo những tuyến đường
đô thị thường được biết đến như một không
gian công cộng dành cho người đi bộ và hạ
tầng kỹ thuật. Bên cạnh đó, vỉa hè còn là
không gian giao tiếp của đô thị. Nơi đây
diễn ra các cuộc gặp gỡ tình cờ, những
cuộc mua sắm, hoạt động vui chơi và từ đó

1. Đặt vấn đề
Là một không gian sống được hình
thành từ những trục đường ngang dọc tạo
nên bộ khung xương với các khu chức
năng, đô thị chỉ có sự sống khi được dệt
nên từ đời sống đa dạng của con người. Có
những người suốt đời sinh ra, lớn lên và
mất đi tại một nơi, có người sinh ra ở một
nơi, lớn lên ở một nơi và cuộc đời tạo ra cơ
duyên sống ở nhiều nơi khác nhau để rồi
Email:

34



VÕ THANH TUYỀN - PHAN THỊ HỒNG XUÂN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

tạo nên nét văn hóa riêng cho mỗi đô thị.
Vỉa hè đẹp bởi những lợi ích do không gian
kiến trúc của nó mang lại, tính nhân văn
hòa lẫn vào lối sinh hoạt trên vỉa hè của
người dân sống tại đô thị. Nhưng vỉa hè
cũng bị xấu đi bởi những hành động, thói
quen mang tính lợi ích cá nhân của mỗi
con người - những người muốn hưởng lợi
riêng từ vỉa hè.
Từ vấn đề chung về vỉa hè đô thị, dựa
trên nền tảng lý thuyết cấu trúc - hành động
(Structuration) của Anthony Giddens, bằng
phương pháp thu thập và xử lý thông tin
định tính và định lượng, tác giả đã thực
hiện đề tài “Vỉa hè trong đời sống đô thị
nhìn từ lý thuyết cấu trúc - hành động
(Nghiên cứu trường hợp vỉa hè đường
Nguyễn Thị Minh Khai, thành phố Hồ Chí
Minh)”. Đề tài nhằm trả lời cho câu hỏi:
cấu trúc của vỉa hè và hoạt động sống của
người dân đô thị có tương quan với nhau
như thế nào? Trên nền tảng lý thuyết và
vấn đề vỉa hè đô thị hiện nay, giả thuyết
nghiên cứu được cho rằng, vỉa hè tồn tại

trong đô thị đã có những cấu trúc định sẵn
quy định hành vi của người dân. Bên cạnh
đó, những hoạt động của người dân cũng
làm cho không gian này trở nên đa chức
năng, ngoài những chức năng do cấu trúc
vỉa hè quy định sẵn.
2. Một số khái niệm liên quan đến
đề tài
2.1. Khái niệm “vỉa hè”
Theo tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam
về “Đường đô thị - Yêu cầu thiết kế” của
Bộ Xây Dựng, Vỉa hè (hè đường) là bộ
phận tính từ mép ngoài bó vỉa tới chỉ giới
đường đỏ. Vỉa hè có thể có nhiều chức
năng như: bố trí đường đi bộ, bố trí cây
xanh, cột điện, biển báo... Bộ phận quan
trọng nhất cấu thành vỉa hè là phần hè đi

bộ và bó vỉa. Hè đường chỉ được cấu tạo ở
tuyến phố, mà không có trên đường ôtô
thông thường. (Bộ Xây dựng, 2007, tr.23)
Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, vỉa
hè là phần mặt bằng dành cho người đi bộ
cạnh đường xe chạy của tuyến đường ô tô
trong thành phố hoặc của cầu (Hội đồng
Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách
khoa Việt Nam, 2005, tr. 863). Trong giới
hạn nội dung tìm hiểu, tác giả không
nghiên cứu vỉa hè trên cầu, chỉ nghiên cứu
về các vỉa hè của đường phố trong đô thị.

2.2. Khái niệm “văn hóa vỉa hè”
Các nhà quy hoạch và kiến trúc sư về
đô thị thường nhắc đến vỉa hè không chỉ là
không gian kỹ thuật mà còn là không gian
văn hóa - kinh tế - xã hội. Từ đó có thể
thấy vỉa hè còn có một khái niệm rộng hơn
mà người ta thường gọi là văn hóa vỉa hè.
Theo kết quả nghiên cứu tổng hợp từ luận
văn thạc sĩ của Lương Thảo Ngân Hiền:
vỉa hè “là không gian thiết yếu của người
đi bộ, là nơi lắp đặt các thiết bị đường phố
và bố trí các công trình hạ tầng kỹ thuật…
Vỉa hè còn là không gian kinh tế xã hội,
bởi nó là không gian giao tiếp công cộng
lớn và quan trọng của cư dân đô thị; là nơi
diễn ra các hoạt động văn hóa, các sinh
hoạt cộng đồng, là nơi mà các hoạt động
kinh doanh diễn ra ở một mức độ nhất
định, là nơi phản ánh đời sống đô thị, là bộ
mặt của đường phố, mang nét đặc trưng
của khu vực” (Lương Thảo Ngân Hiền,
2012, tr.16). Như vậy, văn hóa vỉa hè là hệ
thống giá trị do con người sáng tạo và tích
lũy qua quá trình khai thác và sử dụng
không gian vỉa hè.
3. Lý thuyết nghiên cứu
Vận dụng vào nghiên cứu thực trạng
vỉa hè trong đời sống đô thị, chúng tôi sử
dụng lý thuyết cấu trúc - hành động của A.
35



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 63 (3/2019)

Giddens làm cơ sở lý luận cho vấn đề
nghiên cứu.
Anthony Giddens được xem là nhà lý
luận xã hội học hàng đầu của Anh. Với
phương pháp nghiên cứu liên ngành, ông
đã đưa ra được những mô hình lý thuyết
quan trọng và có thể vận dụng nghiên cứu
ở nhiều lĩnh vực. Một trong những lý
thuyết được xem như cống hiến đáng kể
của ông là lý thuyết “Structuration”, được
tạm dịch là lý thuyết cấu trúc - hành động.
(Phạm Văn Bích, 2012, tr.105)
Lý thuyết này được xem như một nỗ
lực cân bằng giữa hai trường phái: Trường
phái cấu trúc với đại diện là E. Durkheim
thể hiện trong tác phẩm Các quy tắc của
phương pháp xã hội học (Durkheim (Đinh
Hồng Phúc dịch), 2012) và trường phái
hành động với đại diện là M. Weber được
thể hiện trong tác phẩm điển hình như Lý
thuyết về tổ chức kinh tế và xã hội (Weber,
1947). Trong khi E. Durkheim cho rằng
cấu trúc xã hội là nhân tố quy định và chi
phối con người, M. Weber lại nhấn mạnh

vai trò của con người chủ động (actor)
(Phạm Văn Bích, 2012, tr.106). Từ đó,
Giddens cho rằng cấu trúc và hành động tất
yếu có liên quan với nhau. Theo ông, cấu
trúc gồm các quy tắc (rules) và nguồn lực
(resources) mà các chủ thể hành động dựa
vào khi họ tạo ra và tái tạo xã hội trong
hoạt động của họ (Giddens, 1984, tr.23).
Các xã hội, cộng đồng hay các nhóm chỉ có
“cấu trúc” chừng nào con người hành xử
theo quy tắc và dễ đoán trước được. Mặt
khác, có thể chỉ có “hành động” vì mỗi
chúng ta, với tư cách cá nhân, sở hữu một
vốn tri thức có cấu trúc xã hội (Giddens,
2006, tr.108). Với quan điểm này, có thể
nhận thấy, Giddens cho rằng, cấu trúc và
hành động không phải là những nhân tố

độc lập, cái này áp chế và chi phối cái kia,
mà luôn có sự tác động qua lại với nhau.
Theo đó, "tất cả mọi hành động xã hội đều
đòi hỏi phải có trước một cấu trúc. Đồng
thời cấu trúc cũng đòi hỏi phải có hành
động bởi vì “cấu trúc” phụ thuộc vào tính
chất có quy tắc của hành vi con người"
(Giddens, 1984, tr.108-109).
Áp dụng lý thuyết trong bài viết này,
có thể thấy rằng vỉa hè có một cấu trúc
định sẵn quy định các hành vi của con
người. Tuy nhiên, bản thân người dân sử

dụng vỉa hè cũng đồng thời tác động và
tham gia vào cấu trúc không gian ấy một
cách chủ động và có mục đích riêng. Trong
giới hạn nghiên cứu, chúng tôi căn cứ các
thiết chế hiện tại trong cấu trúc không gian
của vỉa hè, có tác động trực tiếp đến lối
sống của người dân như không gian vật lý,
công tác quản lý vỉa hè (các quy định/ luật
pháp, nhân lực quản lý vỉa hè) để phân tích
các hoạt động của người dân trên vỉa hè đó.
Không gian vật lý của vỉa hè gồm những
yếu tố như kích thước không gian, lối đi
(gạch lát, bó vỉa), cây xanh, bồn hoa, các
công trình chức năng dọc vỉa hè (trường
học, công viên, nhà ở, cửa hàng…). Công
tác quản lý vỉa hè có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu gồm quy định về việc sử dụng
vỉa hè (điển hình như Luật giao thông
đường bộ năm 2008, Quyết định số
74/2008/QĐ-UBND của Ủy ban Nhân dân
TP.HCM về việc ban hành Quy định về
quản lý và sử dụng lòng đường, vỉa hè trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh), hoạt
động tuần tra lập lại trật tự vỉa hè của các
nhà quản lý. Trong giới hạn bài viết, chúng
tôi tập trung phân tích yếu tố cấu trúc
không gian là chủ yếu, bên cạnh việc điểm
qua các yếu tố thiết chế khác thuộc công
tác quản lý vỉa hè.
36



VÕ THANH TUYỀN - PHAN THỊ HỒNG XUÂN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

trúc - hành động của A. Giddens.
5. Kết quả nghiên cứu
5.1. Giới thiệu vỉa hè đường Nguyễn
Thị Minh Khai
Vỉa hè TP.HCM cũng như bao vỉa hè
khác với chức năng cho người đi bộ và hạ
tầng kỹ thuật, nhưng dường như chức năng
thương mại lâu đời đã ăn sâu bám rễ trên
không gian nhỏ hẹp này đã lấn át nhiều
hơn chức năng cơ bản của nó. Vỉa hè đã
gắn liền với những công việc mưu sinh của
người dân, nơi dành cho bao người đi dạo
phố, cho hàng xóm ngồi buôn chuyện cùng
nhau. Nhưng vỉa hè cũng đang dần xấu đi
khi từ lâu, quy hoạch thiết kế của thành
phố không chú trọng đến vỉa hè, cùng với
sự phát triển tự phát, thói quen đi xe hai
bánh và hình thức nhà phố có mặt tiền
buôn bán nhỏ lẻ đã làm cho vỉa hè thành
phố trở nên lộn xộn, ảnh hưởng đến mĩ
quan chung của đô thị.
Hiện nay, đường Nguyễn Thị Minh
Khai thuộc khu vực Quận 1 và Quận 3,
TP.HCM. Đường Nguyễn Thị Minh Khai

là một trong những con đường xưa nhất
TP.HCM, được Nguyễn Hữu Doãn cho mở
năm 1748, có tên là đường Thiên Lý (Trần
Hữu Quang, 2017, tr.41), cùng lớn dần
theo thăng trầm của mảnh đất Sài Gòn này.
Cấu trúc không gian vỉa hè ở đây đáp ứng
được thành tố cơ bản nhất của vỉa hè là có
hè đi bộ và bó vỉa xuyên suốt đoạn đường
Nguyễn Thị Minh Khai. Tuy nhiên, chiều
rộng của vỉa hè trên tuyến đường này
không đồng nhất, có những đoạn vỉa hè
hẹp (0.5m) điển hình như đoạn vỉa hè từ
đường Đinh Tiên Hoàng đến đường Mạc
Đĩnh Chi, Tôn Thất Tùng đến Nguyễn
Thượng Hiền; lại có những đoạn vỉa hè
rộng trên 3m như đoạn vỉa hè từ đường
Lương Hữu Khánh đến Cống Quỳnh (trước

4. Phương pháp nghiên cứu
Ở đề tài này, chúng tôi kết hợp sử
dụng phương pháp định tính và định lượng
để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu, cụ thể là
thu thập và xử lý thông tin sẵn có, điều tra
bảng hỏi, phỏng vấn và quan sát tham dự
tại các điểm nghiên cứu. Thời gian khảo sát
được thực hiện từ tháng 4/2018 đến tháng
9/2018.
Về phương pháp điều tra bảng hỏi, tác
giả sử dụng cách chọn mẫu phi xác suất, cụ
thể là chọn mẫu thuận tiện, tiến hành thực

hiện 48 phiếu khảo sát cho người dân có
mặt tại vỉa hè trên tuyến đường Nguyễn
Thị Minh Khai. Tuy nhiên, việc lựa chọn
mẫu đảm bảo được tính đa dạng về độ tuổi
gồm 10 trẻ em (dưới 16 tuổi), 13 thanh
niên (16 đến 30 tuổi), 12 trung niên (31
đến 59 tuổi), 13 người cao tuổi (trên 60
tuổi). Thống kê kết quả khảo sát cho thấy
đối tượng khảo sát thuộc đa dạng ngành
nghề từ trí thức đến lao động phổ thông.
Do đây là tuyến đường có nhiều công trình
với nhiều chức năng (vui chơi giải trí,
thương mại, văn phòng, giáo dục và ở) nên
dễ dàng tiếp cận được đa dạng đối tượng
khảo sát trên vỉa hè. Điều tra viên hỏi trực
tiếp người trả lời bảng hỏi và giải thích các
phương án trả lời (do có một số phương án
trả lời mang tính hàn lâm). Kết quả khảo
sát được xử lý bằng phần mềm SPSS.
Chúng tôi cũng thực hiện 4 cuộc phỏng
vấn với người dân hoạt động trên vỉa hè
đường Nguyễn Thị Minh Khai (2 chủ cửa
hàng, 2 người bán hàng rong).
Nội dung bài viết sẽ tập trung phân
tích, đánh giá các chức năng chính của vỉa
hè trong đời sống văn hóa. Từ đó cho thấy
những thực trạng của hoạt động người dân
trên vỉa hè đường Nguyễn Thị Minh Khai
và được lý giải trên nền tảng lý thuyết cấu
37



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 63 (3/2019)

bệnh viện Từ Dũ), từ đường Trương Định
đến Cách Mạng Tháng Tám (trước Công
viên Tao Đàn).v.v. Vỉa hè Nguyễn Thị
Minh Khai mang đặc trưng của vỉa hè
thành phố và đặc biệt là vỉa hè nội thành.
Do không chỉ được hình thành từ lâu, gắn
liền với quá trình hình thành và phát triển
của đô thị này, mà đây còn là con đường có
nhiều công trình với nhiều chức năng khác
nhau (vui chơi giải trí, giáo dục, thương
mại). Đây cũng là đoạn đường có vỉa hè
không đồng bộ về chất lượng hạ tầng và
gắn liền với đa dạng hoạt động của thị dân.
Do vậy, chúng tôi lựa chọn vỉa hè đường

Nguyễn Thị Minh Khai để thực hiện
nghiên cứu điển hình.
5.2. Về chức năng của vỉa hè
Khác với vỉa hè các nước phát triển, vỉa
hè tại TP.HCM và đường Nguyễn Thị Minh
Khai nói riêng gắn liền nhiều hơn với cuộc
sống người dân, nhất là những người dân
nghèo đến từ nhiều nơi, bám trụ lại thành
phố để mưu sinh. Do đó, bên cạnh chức

năng chính của vỉa hè là nơi dành cho đi bộ
và bố trí hạ tầng kỹ thuật, vỉa hè còn có
những chức năng xã hội khác. Kết quả điều
tra bảng hỏi cho thấy các chức năng khác
của vỉa hè được đánh giá, cụ thể như sau:

Biểu đồ 1: Số lượng ý kiến về chức năng của vỉa hè trong đời sống đô thị

Có 47 ý kiến cho rằng vỉa hè là nơi
mưu sinh của nhiều người dân buôn bán tại
các mặt tiền, vỉa hè. 41 người đồng ý rằng
vỉa hè là nơi ghi lại những dấu ấn lịch sử,
giúp con người yêu mến, tự hào vùng đất
đã sinh sống hay đi qua. Chỉ có 29 người
cho rằng vỉa hè tạo nên hình ảnh đẹp cho
đô thị, giúp con người tự hào và sống văn
minh hơn trong môi trường ngăn nắp, trật

tự. Có 44 ý kiến cho rằng vỉa hè là nơi con
người thực hiện các hoạt động giao tiếp,
gắn kết cộng đồng. 46 người đồng ý kiến
cho rằng vỉa hè là nơi không phân biệt
đẳng cấp xã hội. Nguyên nhân số ít người
đồng ý rằng vỉa hè tạo nên hình ảnh cho đô
thị là do vỉa hè này chỉ đẹp ở một vài tuyến
đường (điển hình như: đoạn vỉa hè trước
Thảo Cầm Viên, đoạn vỉa hè Phùng Khắc
38



VÕ THANH TUYỀN - PHAN THỊ HỒNG XUÂN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Khoan đến Hai Bà Trưng (bên trái), trước
công viên Tao Đàn,… được lát gạch sạch
đẹp, có cây xanh trang trí), một vài đoạn
còn nhiều chỗ thiếu mĩ quan (điển hình
như: đoạn vỉa hè đi qua Nhà văn hóa
Thanh niên lát gạch con sâu bị hư hại nặng,
bể vụn; đoạn vỉa hè từ Đinh Tiên Hoàng
đến Mạc Đĩnh Chi, Tôn Thất Tùng đến
Nguyễn Thượng Hiền có chiều rộng hẹp và
bị chiếm dụng làm nơi để xe hay trưng bày
hàng hóa…).
5.3. Vỉa hè trong đời sống kinh tế
Các nhà phố dọc vỉa hè đường
Nguyễn Thị Minh Khai thường được dùng
để kinh doanh buôn bán. Thực trạng cho
thấy, vỉa hè giúp ích rất nhiều cho đời
sống kinh tế, cho thu nhập của người dân
sống dọc tuyến phố này. Theo 2 chủ cửa
hàng được phỏng vấn, không gian trong
nhà rất hẹp mà giá thuê mặt bằng ở đây rất
cao, muốn mở rộng thêm chỗ buôn bán
cũng khó khăn, chỉ có vỉa hè giúp họ có
thêm chỗ đặt bàn ghế hay trưng bày hàng
hóa để khách đi qua dễ nhìn thấy. Theo
một chủ quán ăn, khách của bà thích ngồi
ở ngoài nhà hơn, “nên việc bày bàn ghế ra

vỉa hè vậy mà hút khách” (Phỏng vấn sâu,
ngày 15/9/2018). Và hầu hết các cửa hàng
này đều sử dụng vỉa hè để làm nơi giữ xe.
Điều này cho thấy vỉa hè đã chia sẻ cùng
người dân những khó khăn trong điều kiện
thiếu thốn không gian.
Nguyễn Thị Minh Khai cũng như
nhiều tuyến đường khác trong thành phố,
vỉa hè là nơi mưu sinh của nhiều ngành
nghề. Qua khảo sát, vỉa hè là nơi kiếm
sống của những người bán hàng rong dùng
phương tiện chủ yếu là xe đẩy bán thức ăn,
nước uống, thuốc lá, kẹo ngậm, khẩu trang,
găng tay. Ngoài ra, còn có các ngành kinh
tế vỉa hè khác như xe ôm, vé số rải rác trên

vỉa hè; các vật dụng như bóp da, bao da,
gối hơi du lịch cũng được bán thường
xuyên ở vỉa hè giao với ngã tư Pasteur; dán
hình xâm cũng được bày bên cạnh công
viên Tao Đàn; người bán tăm bông thường
ngồi ở vỉa hè giao với ngã tư Nam Kỳ Khởi
Nghĩa; sửa xe lề đường cũng rải rác ở các
ngã ba, ngã tư trên vỉa hè Nguyễn Thị
Minh Khai. Thực phẩm được bán tập trung
ở vỉa hè trước công viên Tao Đàn, trước
Cung Văn hóa Lao Động và Thảo Cầm
Viên. Qua thông tin ghi nhận từ kết quả
phỏng vấn 2 người bán hàng rong, họ đều
là người từ nơi khác tới, nhưng bám trụ ở

đây một thời gian khá lâu (10 năm, hơn 7
năm), chính vỉa hè là nơi gắn liền với cuộc
mưu sinh của họ từ khi bước chân vào
TP.HCM. Những người bán hàng rong này
có một đặc điểm là đã bán ở đâu thì quen ở
đó, họ chỉ rời đi chỉ khi nào điều kiện buôn
bán quá khó khăn. Mưu sinh trên vỉa hè là
nghề của nhiều người dân không có nhiều
vốn. Nhưng hiện nay, buôn bán của họ
ngày một khó khăn do tuyến đường
Nguyễn Thị Minh Khai không nằm trong
danh sách cho phép buôn bán hàng rong.
Những người này thường xuyên phải trốn
tránh đội trật tự lòng lề đường. Hàng rong
thường tập trung bán nhiều nhất trước công
viên Tao Đàn, Thảo Cầm Viên, Cung Văn
Hóa Lao Động là những công trình công
cộng. Rải rác trên vỉa hè, họ thường buôn
bán ở các ngã tư hay nép bên các nhà phố.
Một người bán hàng rong trước Cung Văn
hóa Lao Động cho biết, những người đến
đây vui chơi thường có nhu cầu ăn uống,
nên nhiều người tập trung lại buôn bán mặc
dù thường xuyên bị xử lý hành chính do
lấn chiếm vỉa hè.
Những người buôn bán trên vỉa hè
bằng hình thức lưu động với “cửa hàng” là
39



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 63 (3/2019)

đôi gánh, xe đẩy, chiếc bàn nhỏ hay thậm
chí chỉ là một tấm bạt. Họ đặt tại nhiều vị
trí trên vỉa hè, nhưng nhiều nhất là sát lòng
lề đường để thuận tiện cho người mua. Khi
giao thông ở TP.HCM phần lớn là xe máy,
việc mua bán giữa người mua trên lòng
đường và người bán trên vỉa hè diễn ra
thuận tiện và nhanh chóng. Thống kê đến
năm 2017, toàn thành phố có 7,6 triệu xe
máy, mỗi tháng có gần 3.000 phương tiện
đăng ký mới, trong khi dân số thành phố
năm 2017 là 13 triệu người (Tá Lâm,
2017). Theo báo cáo nghiên cứu khoa học
“Xây dựng trật tự đô thị TP.HCM từ cách
tiếp cận văn hóa xã hội” năm 2005 của tác
giả Nguyễn Thế Cường, thói quen đi xe
gắn máy góp phần tạo nên những thói quen
mua sắm trên vỉa hè. Khi có cầu ắt hẳn có
cung. Nền kinh tế vỉa hè Sài Gòn còn tồn
tại mãi là vì vậy. Người đi xe dễ dàng tiếp
cận hàng rong bên đường, mua một món
hàng họ cần và đi nhanh chóng. Thành phố
không phải là nơi xa hoa tráng lệ mà tất cả
đều giàu có. Thành phố đa dạng mọi tầng
lớp và còn nhiều cuộc sống khó khăn. Một
khi xã hội cần là đô thị sinh ra những chức

năng để đáp ứng nhu cầu đó (Nguyễn Thế
Cường, 2005). Và hàng rong gắn liền vỉa
hè cũng là một dạng kinh tế đáp ứng nhu
cầu của nhiều thị dân.
Quy định cấu trúc vỉa hè phải rộng để
đáp ứng được các hoạt động mua bán.
Theo quyết định số 74/2008/QĐ-UBND
của Ủy ban Nhân dân TP.HCM, đối với vỉa
hè rộng hơn 3m, cho phép sử dụng tạm
thời ngoài mục đích giao thông tối đa 1,5m
tính từ mép tiếp giáp nhà bên trong vỉa hè
trở ra hoặc từ mép bó vỉa trở vào. Đời sống

văn hóa mỗi đô thị mỗi khác, tùy theo lịch
sử và đặc điểm phát triển của nó sẽ dẫn đến
những hoạt động khác nhau trên vỉa hè.
Khu vực nghiên cứu từ lâu đã có truyền
thống buôn bán trên vỉa hè hay dọc theo
nhà phố mà không phụ thuộc vào cấu trúc
vỉa hè hẹp hay rộng, bó vỉa thẳng đứng
hay vát xéo. Dựa trên cơ sở lý thuyết
Structuration của Giddens, có thể nhận
thấy rằng, hành động con người không phụ
thuộc vào cấu trúc quy định sẵn, mà họ
hành động vì cho rằng hành động ấy có ý
nghĩa riêng.
Như vậy, thực trạng nghiên cứu cho
thấy, vỉa hè nơi đây còn có chức năng dành
cho hoạt động buôn bán. Bên cạnh đó,
trong công tác quản lý, để đảm bảo đô thị

được trật tự, an toàn, văn minh, các vỉa hè
hẹp dưới 3m không được sử dụng cho mục
đích khác ngoài chức năng dành cho người
đi bộ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều
đoạn vỉa hè dưới 3m vẫn bị lấn chiếm để
phục vụ hoạt động buôn bán của người dân
mưu sinh gắn liền vỉa hè, hành động ấy
không phụ thuộc vào cấu trúc quy định mà
họ hành động vì để đáp ứng cho mục đích
mưu sinh hiệu quả hơn.
5.4. Vỉa hè trong đời sống nhân văn
Vỉa hè là nơi con người thực hiện các
hoạt động giao tiếp, nơi có thể quan sát,
nghe ngóng những chuyện mới lạ trong
cuộc sống
Từ xa xưa hay hiện tại, vỉa hè là một
dạng không gian công cộng nơi mọi người
giao tiếp, gặp gỡ tình cờ hay hẹn trước.
Cũng như các vỉa hè khác, vỉa hè trên
tuyến đường Nguyễn Thị Minh Khai là nơi
thường diễn ra các hoạt động giao tiếp.

40


VÕ THANH TUYỀN - PHAN THỊ HỒNG XUÂN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Biểu đồ 2: Số ý kiến về nhận định vỉa hè là nơi gắn kết cộng đồng


các mối quan hệ cộng đồng vẫn còn được
thiết lập trên vỉa hè này. Bởi còn rất nhiều
hoạt động kinh tế vỉa hè, còn nhiều người
đi dạo trên vỉa hè, nhiều người thích hóng
mát trên vỉa hè trước cửa nhà và nói
chuyện với hàng xóm, vẫn còn nhiều cuộc
bàn tán trò chuyện bên những quán cóc vỉa
hè mà tác giả đã khảo sát thời gian qua. Để
vỉa hè này nâng cao chức năng kết nối
cộng đồng, cần phải có những biện pháp
cải tạo lại cấu trúc và trang trí vỉa hè, để
vỉa hè từ một không gian cơ học trở thành
không gian nhân văn.
Vỉa hè - nơi không phân biệt đẳng cấp
xã hội
Những người bán hàng rong mang quà
quê lên phố thị cũng tìm thấy ở vỉa hè một
sự gần gũi. Ngay cả khi với số vốn ít ỏi của
người nghèo lên thành phố, họ vẫn có thể
mưu sinh khá dễ dàng với cái vỉa hè thân
thiện. Ngay cả khi trong túi không có nhiều
tiền, người mua cũng có thể tậu cho mình
những món hàng ưa thích. Không khí vỉa
hè đôi khi cũng góp phần làm cho những
gánh hàng rong có thêm vị đặc trưng. Bởi
thế mới có những món ăn ngon của Sài

Qua khảo sát, có 66,7% (32/48 phiếu)
trả lời rằng vỉa hè có khả năng giúp gắn kết

quan hệ cộng đồng. Các hoạt động tạo nên
sự giao tiếp cộng đồng rất đa dạng, bao
gồm: buôn bán trên vỉa hè tạo tương tác
giữa người bán và người mua, ăn uống vỉa
hè tạo tương tác giữa những người khách
hàng, các trò chơi trên vỉa hè được tụ họp
từ những người hàng xóm, bạn bè và đôi
khi thu hút cả người tình cờ đi ngang qua,
đi tản bộ, ra hóng mát và bắt đầu các hoạt
động giao tiếp tình cờ hay cố ý trên vỉa hè
bên cạnh nhiều hoạt động khác mà chỉ có
nơi công cộng như vỉa hè mới có được.
33,3% ý kiến còn lại cho rằng vỉa hè này
không có khả năng tạo các mối quan hệ
cộng đồng. Khi được hỏi thêm lý do, người
được phỏng vấn giải thích rằng cuộc sống
hiện đại, bận rộn như ngày nay, mọi người
ít có thời gian để giao lưu, nói chuyện bên
vỉa hè, người thành thị cũng thường đi xe
máy, ít đi bộ nên các tương tác ít xảy ra,
đường Nguyễn Thị Minh Khai ít hàng
rong, cũng không thấy nhiều người tập
trung trên vỉa hè như những đường khác.
Tuy nhiên, theo nhận định của chúng tôi,
41


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 63 (3/2019)


Gòn chỉ thật sự ngon khi nó còn ở trên vỉa
hè, để nó có thể thưởng thức được khí trời,
trong lành mát mẻ hay khan đặc trong khói
bụi và tiếng còi xe inh ỏi mà từ người giàu
đến nghèo đều thích thưởng thức. Vỉa hè
đường Nguyễn Thị Minh Khai cũng vậy,
dù thuộc nơi trung tâm, tập trung những
tầng lớp thượng lưu, nhưng vỉa hè và
những hoạt động trên đó ngày đêm vẫn
bình dị khiến người ta không còn phân biệt
đẳng cấp.
6. Kết luận
Nhìn từ lý thuyết cấu trúc - hành động
của A.Giddens, từ thực trạng nghiên cứu
vỉa hè trên đường Nguyễn Thị Minh Khai
có thể nhận thấy rằng, cấu trúc vỉa hè
đường Nguyễn Thị Minh Khai cũng như
những vỉa hè khác đều có chức năng dành
cho người đi bộ và hạ tầng kỹ thuật. Theo
đó, vỉa hè tồn tại trong đô thị đã có những
cấu trúc được định sẵn quy định hành vi
của người dân như: đi bộ trên vỉa hè, gặp
gỡ, giao tiếp, hóng mát, vui chơi thư
giãn.v.v. Nếu như vỉa hè chỉ có cấu trúc mà
không có hoạt động của con người, thì vỉa
hè sẽ không thể tồn tại và ngược lại, không
có cấu trúc thì những hoạt động của con
người khó thực hiện hiệu quả. Tuy nhiên,
có những hành động không phụ thuộc vào

cấu trúc, điển hình như mua bán lấn chiếm
vỉa hè, nhưng con người vẫn hành động vì
bản thân họ cần điều đó để mưu sinh, để
đáp ứng các nhu cầu của mình. Trong bối
cảnh của đất nước đang phát triển như Việt
Nam, đời sống người dân còn nhiều khó
khăn, đặc biệt là những người từ nông thôn
di cư vào đô thị để kiếm sống, hè phố là
nơi thuận tiện giúp họ mưu sinh mà không
tốn nhiều chi phí, đó là những hoạt động
buôn bán hàng rong. Cũng có những hành
động lấn chiếm vỉa hè của các chủ cửa

hàng dọc theo tuyến phố nhằm mục đích
thuận lợi cho việc kinh doanh. Các hành
động không phụ thuộc vào cấu trúc trên đã
cho thấy, con người luôn có sự chọn lựa
hành động sao cho mang lại lợi ích cao
nhất cho mình. Như vậy, kết quả nghiên
cứu đã thỏa mãn giả thuyết mà chúng tôi
đã đưa ra trên cơ sở lý thuyết cấu trúc hành động của A. Giddens. Những hoạt
động của người dân trên vỉa hè đã làm cho
không gian này trở nên đa chức năng và trở
thành không gian nhân văn dung dị, gần
gũi giữa nhịp sống đô thị.
Dù có nhiều ý kiến trái chiều về
những hoạt động của người dân trên vỉa hè
mà không phụ thuộc vào cấu trúc quy định
sẵn, nhưng khi xã hội có nhu cầu mà
chúng ta không có giải pháp nào khác tốt

hơn để đáp ứng nhu cầu đó, thì những
hành động trên vẫn còn tồn tại. Bên cạnh
đó, khi nghiên cứu những giải pháp cải tạo
những điều được cho là tiêu cực, cần phải
cân nhắc đến nhu cầu thực tế của địa bàn
nghiên cứu để có những biện pháp hợp
tình, hợp lý và phù hợp trong bối cảnh
phát triển của địa phương. Việc cải tạo vỉa
hè không phải là dễ dàng. Ở đây cần nhất
là sự quan tâm đúng mức của những nhà
quản lý và nhận thức đúng đắn của người
dân để bảo vệ cảnh quan chung. Vỉa hè
trước những khu chức năng khác nhau cần
được nghiên cứu cải tạo thích hợp để phục
vụ tốt hơn cho những khu chức năng đó.
Nhằm tìm ra được những giải pháp tốt
nhất cho vỉa hè, những nghiên cứu kế thừa
cần có sự phối hợp chặt chẽ từ các nhà
quản lý, các chuyên gia và người dân đô
thị, để vỉa hè không chỉ là lối đi an toàn
cho người đi bộ mà còn là không gian
công cộng hấp dẫn, gắn liền đời sống văn
hóa của thị dân.
42


VÕ THANH TUYỀN - PHAN THỊ HỒNG XUÂN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Xây dựng. (2007). Quyết định số Số 22 /2007/QĐ-BXD về việc ban hành TCXDVN
104:2007 “Đường đô thị - Yêu cầu thiết kế”.
Durkheim. E. (Đinh Hồng Phúc dịch). (2012). Các quy tắc của phương pháp xã hội học.
NXB Tri thức.
Giddens. A. (1984). The Constitution of Society: Outline of the Theory of Structuration.
Cambridge: Polity Press.
Giddens. A. (2006). Sociology (Phiên bản 5). Cambridge: Polity Press.
Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam. (2005). Từ điển Bách
Khoa Việt Nam, tập 4. NXB Từ Điển Bách Khoa.
Lương Thảo Ngân Hiền. (2012). Vỉa hè thành phố Hồ Chí Minh dưới góc nhìn văn hóa học
(Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học). Trường Đại học Khoa học Xã hội Và Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP.HCM.
Nguyễn Thế Cường. (2005). Xây dựng trật tự đô thị TP.HCM từ cách tiếp cận văn hóa xã
hội. Báo cáo nghiên cứu khoa học cấp Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm Văn Bích. (2012). Lý thuyết Structuration của A. Giddens. Tạp chí Xã hội học số 4
(120). Tr. 105-115.
Tá Lâm. (2017, ngày 16 tháng 8). TP.HCM hiện nay có bao nhiêu người, bao nhiêu xe cộ?.
Báo Pháp luật online. Truy xuất từ: />Trần Hữu Quang. (2012). Hạ tầng Sài Gòn buổi đầu. NXB Tổng hợp TP.HCM.
Weber. M. (1947). The Theory of Social and Economic Organization. New York: Oxford
University Press.
Ngày nhận bài: 02/02/2019

Biên tập xong: 15/3/2019

43

Duyệt đăng: 20/3/2019




×