Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐÔ THỊ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY,THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.93 KB, 70 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MÔI TRƯỜNG - ĐÔ THỊ
~~~~~~*~~~~~~
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế và Quản lý đô thị
Đề tài :
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
TÁC QUẢN LÝ HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐÔ THỊ TRÊN
ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY,THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Sinh viên thực hiện : ĐỖ THỊ HƯƠNG
MSSV : CQ491288
Lớp : KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ ĐÔ THỊ
Khoá : 49
Giảng viên hướng dẫn : TS. NGUYỄN KIM HOÀNG
Cán bộ hướng dẫn : TRẦN PHÚ THIẾT
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HTGT Hệ thống giao thông
HTGTĐT Hệ thống giao thông đô thị
GTĐT Giao thông đô thị
KCHTĐT Kết cấu hạ tầng đô thị
HĐND Hội đồng nhân dân
UBND Ủy ban nhân dân
ĐBGPMB Đền bù giải phóng mặt bằng
CN – XDCB Công nghiệp – Xây dựng cơ bản
DV – TM Dịch vụ – Thương mại
NN Nông nghiệp
TTPT Trung tâm phát triển


QLDTHTĐT Quản lý duy tu hạ tầng đô thị
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU,SƠ ĐỒ
Bảng 2.1 Dân số trung bình Quận Cầu Giấy giai đoạn 2005 – 2010......................................25
Bảng 2.2 Tỷ trọng các ngành kinh tế trên địa bàn Quận giai đoạn 2005 – 2010....................27
Sơ đồ 2.1 Sơ đồ bộ máy hành chính Quận Cầu Giấy..............................................................31
Bảng 2.3 Tổng hợp hiện trạng sử dụng đất quận Cầu Giấy năm 2010...................................33
Bảng 2.4 Hiện trạng một số tuyến đường chính trên địa bàn Quận........................................35
Bảng 2.5 Các tuyến xe khách tại bến xe Mỹ Đình - Hà Nội...................................................37
Bảng 2.6 Tổng hợp số liệu hạ tầng giao thông do Quận Quản lý giai đoạn 2005 - 2010......40
Bảng 2.7 Dự án duy tu các tuyến đường phố trên địa bàn Quận giai đoạn
2005 - 2010..............................................................................................................................42
Bảng 2.8 Công tác cấp phép sử dụng vỉa hè giai đoạn 2005 - 2010........................................43
Bảng 3.1 Tổng hợp các tuyến đường + mương phải mở theo quy hoạch Quận đến năm 2015
...................................................................................................................................................52
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là do bản thân thực hiện, không sao
chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác; nếu sai phạm tôi xin chịu
kỷ luật với Nhà trường.
Hà Nội, ngày 14 tháng 5 năm 2011
Sinh viên

Đỗ Thị Hương
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống giao thông là xương sống, là huyết mạch của cả hệ thống kinh tế, xã
hội. Phát triển và đảm bảo hệ thống giao thông vận hành thông suốt là điều kiện tiên
quyết, là tiền đề phát triển nền kinh tế, văn hóa, xã hội. Xã hội càng văn minh, yêu
cầu càng cần một hệ thống đồng bộ cơ sở hạ tầng kĩ thuật nói chung và hệ thống giao
thông nói riêng. Trong chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030, quan điểm phát triển của Đảng đã chỉ rõ “Giao thông vận tải là

một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cần ưu tiên đầu tư phát
triển đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững nhằm tạo tiền đề cho phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước.”
Trong điều kiện nước nhà đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, việc phát triển hệ thống giao thông có vai trò đặc biệt quan trọng. Thực tế
cho thấy những vùng, những điểm có tốc độ đô thị hóa càng nhanh thì tốc độ phát
triển kinh tế càng mạnh, mật độ dân cư càng đông, mật độ xây dựng càng nhiều và hệ
thống giao thông càng bộc lộ nhiều yếu kém. Như thế vai trò của các nhà quản lý càng
được đề cao như là nhân tố không thể thiếu để phát triển và đảm bảo hệ thống giao
thông vận hành thông suốt.
Cầu Giấy nằm ở cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội, là một trong những quận
có tốc độ đô phát triển mạnh mẽ nhất, là nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông quan
trọng của thủ đô. Nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống giao thông đối với sự phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, công tác quản lý và phát triển hệ thống giao thông đã
được Quận đẩy mạnh. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển không ngừng và phức tạp
của nền kinh tế, công tác quản lý còn bộc lộ nhiều yếu kém. Trong thời gian thực tập
ở Ủy ban nhân dân quận, em đã được tìm hiểu và nhận thấy tính cấp thiết của việc
quản lý hệ thống giao thông đảm bảo điều kiện để phát triển kinh tế nhất là với quận
có tốc độ đô thị hóa nhanh như quận Cầu Giấy. Chính vì vậy em chọn đề tài “Một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý hệ thống giao thông đô thị
trên địa bàn Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu cho
chuyên đề của mình với mong muốn đem đến cái nhìn tổng quan hơn về công tác
quản lý hệ thống giao thông, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác trên.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Tập trung làm rõ cơ sở lý luận của công tác quản lý hệ thống giao thông đô thị.
- Tìm hiểu thực trạng hệ thống giao thông và thực trạng công tác Quản lý hệ
thống giao thông trên địa bàn quận Cầu Giấy. Đồng thời, tập trung phân tích nguyên
nhân của những yếu kém, tồn tại.

- Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng quản lý
hệ thống giao thông trên địa bàn Quận.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Chuyên đề chỉ tập trung nghiên cứu công tác quản lý hệ thống giao thông mà
chủ yếu là hệ thống các tuyến đường, các công trình giao thông trên địa bàn Quận
Cầu Giấy giai đoạn 2005 – 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính như:
- Phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp quan sát thực tế.
- Phương pháp thu thập số liệu.
- Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp duy vật biện chứng khác.
5. Kết cấu của bài viết
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài viết gồm 3 chương
Chương 1. Cơ sở lý luận của công tác quản lý hệ thống giao thông đô thị
Chương 2. Thực trạng hệ thống giao thông đô thị và công tác quản lý hệ
thống giao thông đô thị trên địa bàn Quận Cầu Giấy
Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao công tác quản lý
hệ thống giao thông đô thị trên địa bàn Quận
Quản lý đô thị nói chung và Quản lý hệ thống giao thông đô thị nói riêng là biện
pháp không thể thiếu để phát triển đô thị theo hướng bền vững. Đó là công việc phức
tạp, yêu cầu kiến thức tổng hợp về đô thị, các lý luận, và kiến thức thực tế. Do thời
gian, kiến thức và tài liệu có hạn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu
sót, kính mong sự đóng góp của các thầy cô để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Trong thời gian thực tập và nghiên cứu chuyên đề em luôn nhận được sự chỉ
bảo, giúp đỡ nhiệt tình của các bác, các cô chú và các anh chị trong phòng Quản lý đô
thị cùng với sự hướng dẫn của TS Nguyễn Kim Hoàng. Em xin chân thành cảm ơn
thầy giáo Nguyễn Kim Hoàng, bác Trần Phú Thiết – Trưởng phòng Quản lý đô thị
quận Cầu Giấy cùng toàn thể các bác, các cô chú, các anh chị trong phòng đã giúp đỡ
em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ
HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐÔ THỊ
ĐÔ THỊ VÀ QUẢN LÝ ĐÔ THỊ
Đô thị
1.1.1.1 Khái niệm
Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông
nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên
ngành, có vai trò thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của một
miền lãnh thổ, của một tỉnh, của một huyện hoặc một vùng trong tỉnh, trong huyện.
Trong khái niệm này cần lưu ý một số điểm sau đây:
- Trung tâm tổng hợp: Những đô thị là trung tâm tổng hợp khi chúng có vai
trò và chức năng nhiều về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
- Trung tâm chuyên ngành: Những đô thị là trung tâm chuyên ngành khi
chúng có vai trò và chức năng chủ yếu về một mặt nào đó như công nghiệp cảng, du
lịch – nghỉ dưỡng, đầu mối giao thông…
- Một đô thị là trung tâm tổng hợp của một vùng hay của một tỉnh có thể
cũng là trung tâm chuyên ngành của một vùng liên tỉnh hoặc toàn quốc. Do đó, việc
xác định trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành còn phải căn cứ vào vị trí
của đô thị đó trong một vùng lãnh thổ nhất định.
- Lãnh thổ đô thị gồm: Nội thành hoặc nội thị (gọi chung là nội thị) và ngoại
ô. Các đơn vị hành chính của nội thị gồm: Quận và phường, còn các đơn vị hành
chính của ngoại thị gồm: Huyện và xã.
- Quy mô dân số: Quy mô dân số tối thiểu của một đô thị không nhỏ hơn
4000 người. Riêng ở miền núi, quy mô dân số tối thiểu của một đô thị không nhỏ hơn
2000 người. Quy mô này chỉ tính trong nội thị.
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp: Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp của một
đô thị không nhỏ hơn 60%. Tỷ lệ này chỉ tính trong nội thị. Lao động phi nông nghiệp
bao gồm:
 Lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.
 Lao động xây dựng cơ bản.

 Lao động giao thông vận tải, bưu điện, tín dụng, ngân hàng.
 Lao động thương nghiệp, dịch vụ, du lịch.
 Lao động trong các cơ quan hành chính, văn hóa, giáo dục, y tế, phục vụ
nghiên cứu khoa học, kĩ thuật
 Các lao động khác…ngoài khu vực xản xuất nông nghiệp
- Cơ sở hạ tầng đô thị: Cơ sở hạ tầng đô thị gồm hạ tầng kĩ thuật (giao thông,
thông tin – liên lạc, cấp nước, cấp năng lượng, thoát nước, xử lý rác thải, vệ sinh môi
trường) và hạ tầng xã hội ( nhà ở, các công trình thương nghiệp, dịch vụ công cộng,
ăn uống, nghỉ dưỡng, y tế, văn hóa, giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục
thể thao, công viên, cây xanh, các công trình phục vụ lợi ích công cộng khác).
Theo “Quy chuẩn xây dựng Việt Nam, Quy hoạch xây dựng của Bộ Xây
Dựng 2008”: Đô thị là điểm dân cư tập trung, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, xã hội của một vùng lãnh thổ, có cơ sở hạ tầng thích hợp và quy mô dân số thành
thị tối thiểu là 4000 người (đối với miền núi tối thiểu là 2800 người) với tỷ lệ lao
động phi nông nghiệp tối thiểu 65%. Đô thị gồm các loại thành phố, thị xã, thị trấn.
Đô thị bao gồm các khu chức năng đô thị.
Khu đô thị là khu vực xây dựng một hay nhiều khu chức năng của đô thị, được
giới hạn bởi ranh giới tự nhiên, ranh giới nhân tạo hoặc các đường chính đô thị. Khu
vực đô thị gồm các đơn vị ở, các công trình dịch vụ cho bản thân khu đô thị đó, có thể
có các công trình dịch vụ chung của toàn đô thị hoặc cấp vùng.
Khái niệm đô thị có tính tương đối do sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế
- xã hội, hệ thống dân cư. Mỗi nước có quy định riêng tùy theo yêu cầu và khả năng
quản lý của mình.
Việt Nam quy định đô thị là những thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ với tiêu
chuẩn về quy mô dân số cao hơn, nhưng cơ cấu lao động phi nông nghiệp thấp hơn.
Điều đó xuất phát từ đặc điểm nước ta là một nước đông dân, đất không rộng, đi từ
một nước nông nghiệp lên xã hội chủ nghĩa. Điều đó cũng thể hiện sự nhận thức đầy
đủ hơn về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện
nước ta.
1.1.1.2 Các đặc trưng của đô thị

Đô thị là các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của vùng và của cả nước, có
vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế. Đô thị có các đặc trưng như:
- Các vấn đề xã hội luôn luôn tiềm ẩn: Tội phạm, tệ nạn xã hội, thiên tai,
hỏa hoạn, dịch bệnh, ô nhiễm mội trường…
- Các thách thức về kinh tế luôn được đặt ra: Cung cấp dịch vụ, đất đai, nhà
ở, đảm bảo công ăn việc làm, giao thông, đi lại…
- Cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh hoặc đã được quy hoạch và hoàn chỉnh từng
phần, mật độ các công trình cao là những đặc trưng cơ bản của đô thị. Cơ sở hạ tầng,
mật độ dân số cao và quy mô dân số là những yếu tố tạo ra những lợi thế, hiệu quả
kinh tế về tính tập trung của đô thị.
- Cơ cấu lao động, sự phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa cao
là tiền đề cơ bản của việc nâng cao năng suất lao động, là cơ sở đời sống kinh tế - xã
hội của đô thị.
- Cấu trúc xã hội: Xã hội công nghiệp khác làng, xã, người dân đô thị gắn
với cuộc sống thương mại, công nghiệp.
1.1.1.3 Phân loại đô thị
Việc phân loại đô thị căn cứ vào Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày
07/05/2009. Nghị định này thay thế Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 5/10/2001
của Chính phủ về phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị. Nghị định có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 02 tháng 7 năm 2009, quy định như sau:
Mục đích phân loại đô thị: Việc phân loại đô thị nhằm:
1. Tổ chức, sắp xếp và phát triển hệ thống đô thị cả nước.
2. Lập, xét duyệt quy hoạch xây dựng đô thị.
3. Nâng cao chất lượng đô thị và phát triển đô thị bền vững.
4. Xây dựng chính sách và cơ chế quản lý đô thị và phát triển đô thị.
Phân loại đô thị: Đô thị được phân thành 6 loại như sau: loại đặc biệt, loại I,
loại II, loại III, loại IV và loại V được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
công nhận.
1. Đô thị loại đặc biệt là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận nội
thành, huyện ngoại thành và các đô thị trực thuộc.

2. Đô thị loại I, loại II là thành phố trực thuộc Trung ương có các quận nội
thành, huyện ngoại thành và có thể có các đô thị trực thuộc; đô thị loại I, loại II là
thành phố thuộc tỉnh có các phường nội thành và các xã ngoại thành.
3. Đô thị loại III là thành phố hoặc thị xã thuộc tỉnh có các phường nội thành,
nội thị và các xã ngoại thành, ngoại thị.
4. Đô thị loại IV là thị xã thuộc tỉnh có các phường nội thị và các xã ngoại thị.
5. Đô thị loại IV, đô thị loại V là thị trấn thuộc huyện có các khu phố xây dựng
tập trung và có thể có các điểm dân cư nông thôn.
1.1.2 Quản lý đô thị
1.1.2.1 Khái niệm quản lý đô thị
Quản lý đô thị đã trở nên một chủ đề rất quan trọng đối với các chính phủ và các
tổ chức phát triển quốc tế trên thế giới. Quản lý theo nghĩa rộng là làm cho các công
việc được hoàn thành thông qua các nhân sự. Quản lý liên quan đến việc ra quyết
định hoặc lựa chọn cách thức kế hoạch tổ chức, bảo vệ và sử dụng các nguồn lực có
được để sản xuất hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho việc tiêu thụ, thương mại, hưởng
thụ hoặc để xây dựng vốn và tài sản cho phát triển trong tương lai.
Quản lý đô thị là quá trình tác động bằng các cơ chế, chính sách của các chủ
thể quản lý đô thi (các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội, các sở, ban ngành chức
năng) vào các hoạt động đô thị nhằm thay đổi hoặc duy trì hoạt động đó.
Trên góc độ Nhà nước, quản lý nhà nước đối với đô thị là sự can thiệp bằng
quyền lực của mình (bằng pháp luật, thông qua pháp luật) vào các quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở đô thị nhằm phát triển đô thị theo định hướng nhất định.
Mục tiêu chung của quản lý đô thị là nâng cao hiệu quả và tính hợp lý trong quá
trình sử dụng các nguồn lực của đô thị (con người, kĩ thuật, vật liệu, thông tin, dịch vụ
cơ sở hạ tầng và hệ thống kinh tế của sản xuất). Cụ thể là:
- Nâng cao chất lượng và sự hoạt động một cách tổng thể của đô thị
- Đảm bảo sự phát triển và tái tạo bền vững của các khu vực đô thị.
- Cung cấp các dịch vụ đô thị và cơ sở hạ tầng cơ bản để đáp ứng các nhu cầu
chức năng của đô thị và các cư dân sống và làm việc trong đô thị đó, nhằm cải thiện
chất lượng sống và sức khỏe của cư dân đô thị.

1.1.2.2 Các phương pháp và công cụ quản lý đô thị
Thông thường người ta phân chia các phương pháp thành các nhóm như sau:
- Các phương pháp hành chính: Là các phương pháp tác động dựa vào các mối
quan hệ tổ chức của cả hệ thống quản lý Nhà nước về đô thị và hệ thống kỉ luật của
các tổ chức trong hệ thống thông qua các mệnh lệnh, văn bản quyết định hành chính
mang cưỡng chế.
- Các phương pháp kinh tế: Là các phương pháp tác động vào đối tượng quản lý
thông qua các lợi ích kinh tế để họ tự lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả cho
tổ chức, xã hội và bản thân họ.
- Các phương pháp đi vào tâm lý xã hội – giáo dục: Là các phương pháp tác
động vào nhận thức, tình cảm, tâm lý nhằm thuyết phục, nâng cao nhận thức và tính
tự giác của cán bộ công chức thực thi công vụ và đối tượng liên quan.
Ngoài ra, có thể kể đến các phương pháp khác như:
- Phương pháp quản lý theo mục tiêu.
- Phương pháp kế hoạch cuốn chiếu.
- Các phương pháp thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh.
- Các phương pháp thương thuyết.
- Phương pháp quản lý thích nghi theo biến đổi của môi trường và theo xu thế
khoa học hóa.
Các công cụ quản lý như:
- Luật pháp và các quy định dưới luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch hóa.
- Tài chính: Cấp ngân sách và đầu tư tài chính, trang thiết bị, hạ tầng kĩ thuật.
Các nguồn tài chính nước ngoài, các thuế và phí, huy động vốn trong nước.
- Dùng công cụ truyền thông cho các lĩnh vực đô thị (ví dụ truyền thông môi
trường, truyền thông văn hóa, truyền thông dân số, kế hoạch hóa gia đình…
1.1.2.3 Nội dung quản lý đô thị
Trong đô thị luôn tồn tại các nhu cầu ăn, ở, đi lại, làm việc, học tập, chữa bệnh,
vui chơi giải trí,…Các nhu cầu đó ngày càng đòi hỏi cao hơn, và các nhu cầu mới
thường xuyên phát sinh. Để đáp ứng các nhu cầu đó việc tổ chức xã hội đô thị một

cách khoa học và việc quản lý các hoạt động trở thành một yếu tố khách quan.
Quản lý là hoạt động mang tính kinh tế - xã hội, người ta cần tính đến hiệu quả
của công tác quản lý. Vì hoạt động đô thị đa dạng và phức tạp, cần có sự lựa chọn,
phân loại đối tượng quản lý một cách hợp lý. Các lĩnh vực của quản lý đô thị cần
được quan tâm là:
- Quản lý quy hoạch và kiểm soát phát triển đô thị.
- Quản lý kinh tế đô thị.
- Quản lý đất đai và nhà ở đô thị.
- Quản lý dân số, lao động và việc làm trong đô thị.
- Quản lý các công trình kết cấu hạ tầng đô thị.
- Quản lý môi trường đô thị.
- Quản lý văn hóa, xã hội đô thị.
- Quản lý tài chính đô thị.
1.2 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐÔ THỊ
1.2.1 Tổng quan chung về kết cấu hạ tầng đô thị
1.2.1.1 Khái niệm kết cấu hạ tầng đô thị
Toàn bộ các công trình giao thông vận tải, bưu điện, thông tin liên lạc, dịch vụ
xã hội như: đường sá, kênh mương dẫn nước, cấp thoát nước, sân bay, nhà ga, xe lửa,
ô tô, cảng sông, cảng biển, cơ sở năng lượng, hệ thống mạng điện, đường ống dẫn
xăng dầu, dẫn khí ga, hơi đốt, kho tàng, giao thông vận tải, giáo dục phổ thông và
chuyên nghiệp, y tế, dịch vụ ăn uống công cộng, nghỉ ngơi du lịch, vui chơi giải trí,
rác thải môi trường đô thị,… được gọi là kết cấu hạ tầng đô thị.
Như vậy, kết cấu hạ tầng đô thị là những tài sản vật chất và các hoạt động hạ
tầng có liên quan dùng để phục vụ các nhu cầu kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư
đô thị.
Trên thực tế, kết cấu hạ tầng là cơ sở nền tảng đảm bảo sự phát triển bền vững
của cả một hệ thống đô thị quốc gia nói riêng và sự phát triển bền vững của một quốc
gia nói chung. Cho nên, người ta thường dùng thuật ngữ “cơ sở hạ tầng đô thị” với
nội dung đồng nhất khi dùng thuật ngữ “kết cấu hạ tầng đô thị” hay “hạ tầng đô thị” .
Cần phân biệt khái niệm thuật ngữ “cơ sở hạ tầng” trong nghiên cứu kinh tế

chính trị học Mác – Lê nin hay còn gọi là cơ sở kinh tế có nghĩa là tập hợp các quan
hệ sản xuất, tạo thành cơ cấu kinh tế của một xã hội. Khái niệm “cơ sở hạ tầng” ở đây
nằm trong mối quan hệ với kiến trúc thượng tầng tạo nên một hình thái xã hội tương
ứng với nó. Còn khái niệm thuật ngữ “cơ sở hạ tầng” của đô thị dùng để chỉ các công
trình có ý nghĩa nền móng của đô thị như: đường sá, cầu cống, hệ thống cấp thoát
nước, dịch vụ xã hội (dịch vụ công)...của đô thị.
1.2.1.2 Phân loại kết cấu hạ tầng đô thị
Theo “Quy chuẩn xây dựng Việt Nam, quy hoạch xây dựng của Bộ Xây
Dựng năm 2008” thì hạ tầng đô thị được chia ra làm hai loại:
- Hạ tầng kĩ thuật đô thị gồm:
+ Hệ thống giao thông
+ Hệ thống cung cấp năng lượng
+ Hệ thống chiếu sáng đô thị
+ Hệ thống cấp nước, hệ thống thoát nước
+ Hệ thống quản lý các chất thải, vệ sinh môi trường
+ Hệ thống nghĩa trang
+ Các công trình hạ tầng kĩ thuật khác
- Hạ tầng xã hội đô thị gồm:
+ Các công trình nhà ở
+ Các công trình công cộng, dịch vụ, y tế, văn hóa, giáo dục, thể dục thể thao,
thương mại và các công trình dịch vụ đô thị khác
+ Các công trình quảng trường, công viên, cây xanh, mặt nước
+ Các công trình cơ quan hành chính đô thị
+ Các công trình hạ tầng xã hội khác.
Cách phân chia này dựa vào tính chất phục vụ của các hạ tầng đô thị và thuận
tiện cho việc phân chia cấp quản lý, ngành quản lý.
1.2.2 Hệ thống giao thông đô thị
1.2.2.1 Khái niệm và phân loại hệ thống giao thông đô thị
a. Khái niệm hệ thống giao thông đô thị
Hệ thống giao thông đô thị (HTGTĐT) là tập hợp của mạng lưới đường, các

công trình phục vụ giao thông và các loại phương tiện giao thông được sử dụng trong
đô thị. Giao thông đô thị một mặt phải đảm bảo công tác vận chuyển và liên hệ thuận
tiện, nhanh chóng giữa các bộ phận chức năng cơ bản của đô thị như: nơi ở, nơi làm
việc, khu nghỉ ngơi, giải trí và các trung tâm của đô thị với nhau, mặt khác phải đáp
ứng các nhu cầu vận chuyển và liên hệ giữa đô thị với các điểm dân cư khác ở xung
quanh. Có thể nói giao thông đô thị là một bộ phận hết sức quan trọng trong thiết kế
quy hoạch đô thị. Mạng lưới giao thông quyết định hình thái tổ chức không gian đô
thị, hướng phát triển đô thị, cơ cấu tổ chức sử dụng đất đai và mối quan hệ giữa các
bộ phận chức năng với nhau (TS. Hồ Ngọc Hùng – Giáo trình Giao thông trong quy
hoạch đô thị).
b. Phân loại hệ thống giao thông đô thị
Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, đề xuất các giải pháp cụ thể về quy hoạch
và tổ chức giao thông phù hợp với nhiều lĩnh vực khác nhau của một chỉnh thể thống
nhất là đô thị, HTGTĐT được phân loại theo nhiều đặc trưng khác nhau.
b.1. Phân chia HTGTĐT theo mối quan hệ giữa giao thông với đô thị
Khi xem xét mối quan hệ giữa giao thông với đô thị, HTGTĐT được phân thành
hai mảng chính là giao thông đối ngoại và giao thông đối nội (hay còn gọi là giao
thông nội thị).
Giao thông đối ngoại gồm: các tuyến đường, các công trình đầu mối và những
phương tiện được sử dụng để đảm bảo sự liên hệ giữa đô thị với bên ngoài và từ bên
ngoài vào trong đô thị.
Giao thông nội thị gồm: các công trình, các tuyến đường và các phương tiện
nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển trong phạm vi của đô thị, đảm bảo nhu cầu liên hệ
giữa các bộ phận cấu thành của đô thị với nhau.
b.2. Phân loại HTGTĐT dựa vào vai trò của các yếu tố cấu thành.
- Hệ thống giao thông động có chức năng đảm bảo cho phương tiện và người di
chuyển giữa các khu vực. Hệ thống giao thông động gồm mạng lưới đường sá, các
công trình trên đường và các công trình khác. Hệ thống đường giao thông được phân
loại theo chất lượng mặt đường: Bê tông, nhựa, đá, cấp phối, đất…, đồng thời được
tổng hợp theo địa bàn phường, quận.

Đường đô thị được sử dụng và khai thác vào các mục đích sau đây:
+) Lòng đường dành cho xe cơ giới và xe thô sơ;
+) Vỉa hè dành cho người đi bộ, để bố trí các công trình cơ sở hạ tầng kĩ thuật
như: Chiếu sáng, cung cấp năng lượng, cấp thoát nước, thông tin liên lạc, vệ sinh đô
thị, các trạm đỗ xe, các thiết bị an toàn giao thông, để trồng cây xanh công cộng, cây
bóng mát hoặc cây xanh cách ly, để sử dụng tạm thời trong các trường hợp khi được
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép như: Quầy báo sách, buồng điện thoại
công cộng, các dịch vụ công cộng, tập kết, trung chuyển vật liệu xây dựng, biển báo,
bảng tin, quảng cáo, trông giữ các phương tiện giao thông, tổ chức các hoạt động văn
hóa, xã hội, tuyên truyền.
Hệ thống đường sá có vai trò quyết định đến việc phát triển kinh tế đô thị. Việc
lựa chọn vị trí các công ty, nơi ở của các hộ gia đình phần lớn phụ thuộc vào hệ thống
đường sá và phương tiện đi lại trong thành phố. Thời gian, chi phí vận chuyển hàng
hóa và thời gian đi lại phụ thuộc vào độ dài và chất lượng mặt đường. Giá cả của các
mảnh đất phụ thuộc nhiều vào mức độ thuận tiện của nó về giao thông. Một mảnh đất
có thể tăng giá gấp nhiều lần nhờ có việc mở một con đường gần đó.
- Hệ thống giao thông tĩnh có chức năng phục vụ phương tiện và hành khách
(hoặc hàng hóa) trong thời gian không di chuyển. Nó gồm hệ thống các điểm đầu mối
giao thông của các phương thức vận tải khác nhau (các nhà ga đường sắt, các bến
cảng, ga hàng không, các bến vận tải đường bộ…), các bãi đỗ xe, các điểm đầu - cuối,
các điểm trung chuyển, các điểm dừng dọc tuyến. Hệ thống giao thông tĩnh là yếu tố
không kém phần quan trọng trong giao thông đô thị hiện đại. Tuy nhiên vấn đề này
vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
- Phương tiện giao thông được chia làm 2 nhóm là: Phương tiện giao thông công
cộng (gồm: ô tô bus, taxi, tàu điện cao tốc, tàu hỏa ngoại thành….) và phương tiện
giao thông cá nhân (xe ô tô cá nhân, xe đạp, xe máy…).
1.2.2.2 Vai trò của hệ thống giao thông đô thị
Hệ thống giao thông đô thị có thể ví như huyết mạch trong một cơ thế sống là đô
thị, nếu huyết mạch được lưu thông tốt thì sẽ là cơ sở thúc đẩy đô thị phát triển mạnh
mẽ, ngược lại một hệ thống giao thông không đồng bộ, không xứng tầm sẽ là lực cản

cho sự phát triển của đô thị. Đối với từng đô thị, ở mức độ khác nhau, HTGTĐT luôn
tạo ra những hiệu quả và có vai trò nhất định trong các lĩnh vực sau:
- GTĐT cho phép mở rộng phạm vi cung cấp nhân lực
Trong phạm vi đô thị, nếu không tổ chức được một mạng lưới GTĐT hợp lý,
đảm bảo nhu cầu liên hệ nhanh chóng và thuận tiện thì tốc độ di chuyển chậm sẽ làm
ảnh hưởng đến khả năng cung cấp nhân lực cho các trung tâm công nghiệp, các khu
vực hành chính, dịch vụ…Kích thước của đô thị càng mở rộng thì vai trò của GTĐT
càng trở nên quan trọng bởi chính GTĐT là cơ sở để tăng khoảng cách đi lại từ nguồn
đến đích. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phạm vi cung cấp nhân lực, phạm vi
phục vụ sẽ được mở rộng.
- Mang lại hiệu quả do tiết kiệm thời gian đi lại
Chi phí thời gian trong việc đi lại trong các đô thị rất khác nhau tùy thuộc vào
tốc độ của các phương tiện giao thông mà đô thị có thể sử dụng. Đô thị càng lớn thì
nhu cầu đi lại càng cao, chiều dài của chuyến đi càng lớn, nếu đô thị có được
HTGTĐT hợp lý, sử dụng được các phương tiện phù hợp thì tổng thời gian tiết kiệm
do đi lại là đáng kể, góp phần tạo ra tổng sản phẩm xã hội và tăng thời gian nghỉ ngơi,
tái phục hồi sức lao động cho người dân…
- HTGTĐT đảm bảo sức khỏe và nâng cao an toàn cho người dân
An toàn giao thông gắn liền với hệ thống phương tiện và mạng lưới hạ tầng kỹ
thuật giao thông. Hàng năm trên thế giới có chừng 800000 người thiệt mạng do tai
nạn giao thông. Xây dựng HTGTĐT hợp lý sẽ góp phần quan trọng trong việc giảm
thiểu tai nạn giao thông, đảm bảo an toàn cho người đi lại. Những điều kiện tiện nghi
tối thiểu của phương tiện vận chuyển luôn có ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe của
hành khách.
- Bảo vệ môi trường đô thị
Quy hoạch, tổ chức GTĐT phải gắn liền với các giải pháp bảo vệ môi trường.
Khi đô thị sử dụng các loại phương tiện giao thông hiện đại, không chiếm diện tích
đường hoặc phương tiện sử dụng năng lượng sạch sẽ giúp hạn chế mật độ xe lưu
thông trên đường, hạn chế được khối lượng lớn khí thải chứa nhiều chất độc hại có
ảnh hưởng tới môi trường sinh thái đô thị.

- Đảm bảo trật tự, ổn định xã hội
Hiệu quả của HTGTĐT trong lĩnh vực xã hội là hết sức to lớn và không thể tính
hết được. GTĐT với chức năng đảm bảo nhu cầu đi lại thường xuyên của người dân
đô thị như: đi làm, đi mua sắm, đi thăm viếng…Nếu công tác vận chuyển của GTĐT
bị ách tắc thì ngoài thiệt hại về mặt kinh tế còn ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý, trật tự,
an toàn xã hội….
- Vấn đề giá thành chi phí cho vận chuyển và đi lại trong đô thị
Giá thành có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người dân vì nhu cầu và số
lần đi lại trong ngày của người dân là rất lớn. Việc đi lại bằng phương tiện cá nhân
như: ô tô cá nhân, xe máy, xe đạp hay bằng các phương tiện công cộng có ảnh hưởng
đáng kể đến chi phí của mỗi cá nhân, gia đình và xã hội.
Ngoài việc đảm bảo nhu cầu vận chuyển và đi lại của người dân, HTGTĐT còn
phải đảm bảo tính hợp lý và hiệu quả thông qua việc giảm chi phí đầu tư và giảm giá
thành chi phí cho vận chuyển và đi lại trong đô thị.
- Ngoài ra HTGTĐT còn đóng vai trò làm trục bố cục đô thị và tổ chức không
gian thành phố. Thông thường việc bố cục quy hoạch chung đô thị đều xoay quanh hệ
thống giao thông. Đặc biệt những tuyến đường phố chính, quan trọng đóng vai trò
quyết định trong việc xác định vị trí các công trình trọng điểm, xác định các trục bố
cục kiến trúc chính và phụ của đô thị. Hơn nữa các tuyến chức năng trên đường phố
với các thiết bị giao thông, ánh sáng, cây xanh là một tổng thể mang tính nghệ thuật
cao, làm cho cảnh quan và môi trường trên đường phố thêm phong phú, bộ mặt kiến
trúc đường phố thêm sinh động.
1.2.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống giao thông đô thị
a. Nhóm các nhân tố tự nhiên
Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất khác nhau tới sự phân bố và hoạt động của
các loại hình giao thông vận tải:
- Khí hậu và thời tiết có ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của các phương tiện
giao thông. Ví dụ vào mùa mưa lũ hoạt đông của các ngành vận tải gặp nhiều trở ngại,
thậm chí còn phải ngừng hoạt động hoàn toàn….
- Điều kiện tự nhiên quy định sự có mặt và vai trò của một số loại hình vận tải.

Ví dụ, ở miền núi có địa hình cao, sông ngòi dốc và ngắn nên không thể phát triển
ngành giao thông vận tải đường sông; còn ở những nước nằm trên các đảo như nước
Anh, Nhật Bản… thì ngành vận tải đường biển lại có vị trí vô cùng quan trọng.
- Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến công tác thiết kế và khai thác các
công trình giao thông vận tải. Không những thế để khắc phục điều kiện tự nhiên
không thuận lợi, chi phí xây dựng cũng lớn hơn rất nhiều.
b. Nhóm các nhân tố kinh tế - xã hội
b.1 Mật độ dân cư và sự phát triển của các ngành kinh tế quốc dân
Dân số đô thị ngày càng tăng là hậu quả tất yếu của quá trình đô thị hóa. Mật độ
dân cư không ngừng tăng kéo theo nhu cầu đi lại, vận chuyển của người dân cũng
tăng lên nhiều, kéo theo nhu cầu phát triển HTGTĐT. Bên cạnh đó, sự phát triển của
các ngành kinh tế quốc dân cũng đòi hỏi sự phát triển của HTGHĐT nhằm đẩy mạnh
lưu thông trong quá trình sản xuất, đẩy mạnh quá trình cung ứng vật tư kỹ
thuật,nguyên liệu, năng lượng cho các cơ sở sản xuất và đưa sản phẩm đến thịt trường
tiêu thụ… Phát triển giao thông vận tải nhằm phát triển giao lưu kinh tế giữa các vùng
trong nước và quốc tế.
Mật độ dân cư quá cao cùng với sự phát triển không ngừng của các ngành kinh
tế tạo thành sức ép cho HTGTĐT. Nếu HTGHĐT không đáp ứng kịp sẽ trở thành lực
cản cho sự phát triển của nền kinh tế và làm giảm chất lượng sống của người dân.
b.2 Sự phân bố dân cư và các ngành kinh tế quốc dân
Sự phát triển và phân bố các ngành kinh tế quốc dân có ý nghĩa quyết định đối
với sự phát triển và phân bố, cũng như sự hoạt động của ngành giao thông vận tải.
Nơi nào tập trung nhiều ngành kinh tế trọng điểm của đất nước thì nơi đó sẽ được chú
trọng đầu tư về mặt cơ sở hạ tầng kỹ thuật giao thông. Ngược lại nơi nào có HTGT
phát triển, thuận tiện đi lại và vận chuyển thì nơi đó sẽ được nhiều nhà đầu tư quan
tâm và kéo theo đó là sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
b.3 Cơ sở hạ tầng giao thông đô thị
Cơ sở hạ tầng giao thông là hệ thống xương sống giúp HTGTĐT hoạt động
thông suốt và hiệu quả. Sự di chuyển nhanh chóng, thuận tiện, sự khai thác và vận
hành tốt các phương tiện giao thông…chỉ có thể có được dựa trên nền tảng cơ sở hạ

tầng giao thông phát triển một cách khoa học. Dù cho công tác tổ chức giao thông
cũng như phương tiện giao thông được đầu tư, phát triển tốt thì nó cũng không thể
phát huy hiệu quả tối đa trên nền tảng cơ sở hạ tầng yếu kém. Nếu không được đầu tư
thích đáng, không đáp ứng kịp tốc độ phát triển của các yếu tố khác như phương tiện
giao thông, nhu cầu đi lại của người dân…thì cơ sở hạ tầng giao thông sẽ trở thành
lực cản cho sự phát triển của đô thị. Và đây cũng là nguyên nhân chính gây ùn tắc
giao thông đô thị.
b.4 Phương tiện giao thông đô thị
Loại hình và mật độ phương tiện giao thông có ảnh hưởng rất lớn đến
HTGTĐT. Số lượng phương tiện giao thông quá lớn, vượt quá sức chịu đựng của
đường đô thị tất sẽ dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông. Vì thế cần phải phát triển loại
hình phương tiện giao thông công cộng để có thể giảm được một lượng đáng kể
phương tiện cá nhân lưu thông trên đường. Tuy nhiên cũng cần có những biện pháp
về mặt tổ chức, quản lý để khắc phục những nhược điểm của loại hình vận tải này.
b.5 Trình độ quản lý và ý thức của người tham gia giao thông
Thực tế cho thấy ở nhiều nước trên thế giới dù mật độ dân số đô thị rất lớn (như
ở Tokyo – Nhật Bản có mật độ dân số là 5748 người/km2) nhưng cũng hiếm khi xảy
ra ùn tắc giao thông do ý thức của người tham gia giao thông rất tốt. Ngược lại,khi ý
thức của người tham gia giao thông kém, không chấp hành đúng luật lệ giao thông,
không nhường nhịn nhau, cứ chen lấn xô đẩy thì sẽ càng làm cho tính trạng ùn tắc
giao thông trở nên nghiêm trọng hơn.
Để HTGT hoạt động đạt hiệu quả cao, ngoài việc nâng cao ý thức người tham
gia giao thông còn cần nâng cao trình độ quản lý. Trình độ quản lý yếu kém,không
phù hợp với yêu cầu phát triển sẽ gây lãng phí, cản trở sự phát triển của HTGTĐT.
1.3 LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ HỆ THỐNG GIAO THÔNG ĐÔ THỊ
1.3.1 Khái niệm quản lý HTGT đô thị
Từ khái niệm quản lý đô thị, ta có thể hiểu Quản lý HTGTĐT là tổng thể các
biện pháp, các chính sách, các công cụ mà chủ thể quản lý tác động vào các nhân tố
của HTGTĐT nhằm đảm bảo cho hệ thống này hoạt động có hiệu quả.
Có thể nói giao thông đô thị là một hệ thống chặt chẽ, các yếu tố cấu thành có sự

ràng buộc và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Để hệ thống hoạt động thông suốt, cần thiết
phải đảm bảo các bộ phận được liên kết và phối hợp nhịp nhàng. HTGT mà chủ yếu
là mạng lưới các tuyến đường chính là huyết mạch của hệ thống này. Muốn cho
HTGTĐT hoạt động tốt cần thiết phải quản lý và phát triển một mạng lưới giao thông
phù hợp với từng loại đô thị, phù hợp với địa hình và tình hình kinh tế xã hội, mật độ
dân cư…
Một HTGTĐT hiệu quả là một hệ thống đảm bảo cho dòng di chuyển được
thông suốt, nhịp nhàng “như dòng chảy”, không có điểm ùn tắc, tiết kiệm chi phí, thời
gian đi lại, đem lại tâm lý thoải mái khi tham gia giao thông, và hình thành nên văn
minh đô thị
hiện đại.
1.3.2 Sự cần thiết phải tăng cường quản lý đối với HTGT đô thị
Như phần trên đã phân tích, HTGTĐT có vai trò quan trọng trong việc phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và của đô thị nói riêng. Việc tổ chức quản lý
HTGT tốt đảm bảo cho HTGT hoạt động có hiệu quả, tiết kiệm chi phí và đảm bảo
cho các hệ thống khác vận hành thông suốt. Vì vậy, công tác quản lý HTGTĐT là một
nhu cầu tất yếu, khách quan đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
KCHTĐT mà đặc biệt là HTGTĐT là hàng hóa công cộng, có tầm quan trọng về
kinh tế - xã hội, khó thu được tiền hoặc lợi nhuận thấp, thời gian hoàn vốn dài, có
nhiều rủi ro nên thường do Nhà nước đảm nhận.
Đô thị hóa ngày càng nhanh là xu thế chung của toàn thế giới. Những lợi ích mà
quá trình đô thị hóa mang lại là không thể phủi nhận. Đó là sự hình thành những đô
thị mới, hình thành lối sống văn minh đô thị, kinh tế phát triển ngày càng nhanh. Tuy
nhiên, đô thị hóa là quá trình mang tính hai mặt. Bên cạnh những lợi ích là những tiêu
cực mà nếu quá trình quản lý không tốt, sẽ tác động trở lại, cản trở sự phát triển kinh
tế. Đô thị phát triển đồng nghĩa với việc gia tăng quy mô dân số, gây áp lực rất lớn
đối với HTGTĐT hiện tại. Việc phát triển HTGTĐT là một quá trình lâu dài và cần
thiết phải có sự quản lý của các cơ quan chức năng để đảm bảo cho hệ thống đó phát
triển theo đúng quy hoạch, đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
1.3.3 Nguyên tắc quản lý hệ thống giao thông đô thị

Quản lý kết cấu hạ tầng đô thị nói chung và quản lý HTGTĐT nói riêng tuân thủ
theo các nguyên tắc sau:
1.3.3.1 Tập trung dân chủ và phân cấp quản lý
Tập trung là giao quyền lực và nghĩa vụ cho người đứng đầu. Đại diện là nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Nhà nước thống nhất quản lý mọi mặt của nền
kinh tế và đóng vai trò chủ đạo trong việc quản lý và phát triển KCHTĐT.
Dân chủ nghĩa là mọi chủ trương, đường lối, chính sách phải được bàn bạc, trao
đổi, thống nhất và đại diện cho đông đảo quần chúng được biết. Do đó Chính phủ
cũng tạo điều kiện và mở rộng chức trách cho khu vực kinh tế tư nhân và cộng đồng
tham gia thực hiện các quyền dân chủ quản lý, thực hiện nghĩa vụ đóng góp và thu hút
mọi nguồn vốn, tăng thêm hiệu quả quản lý và phát triển KCHTĐT của quốc gia.
Phân cấp quản lý là sự phân định và xếp hạng các đô thị theo quy mô, vị trí hay
tầm quan trọng của từng đô thị trong phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của vùng
hay địa phương để từ đó xác định các chính sách quản lý, đầu tư thích hợp. Ở nước ta,
trên cơ sở phân loại, đô thị được phân cấp quản lý hành chính như sau:
- Đô thị loại 1 và loại 2 chủ yếu do Trung ương quản lý
- Đô thị loại 3 và loại 4 chủ yếu do tỉnh quản lý
- Đô thị loại 5 chủ yếu do huyện quản lý
Giữa phân loại và phân cấp quản lý có mối quan hệ chặt chẽ. Nguyên tắc chung
là dựa vào phân loại để phân cấp quản lý. Đây là một trong những giải pháp mang
tính nguyên tắc nhằm phân định chức năng và quyền hạn quản lý của chính quyền các
cấp cho thích hợp, tránh sự trùng chéo hoặc bỏ sót.
1.3.3.2 Tiết kiệm và hiệu quả
Nguyên tắc này xuất phát từ thực tiễn sự tăng trưởng kinh tế phát sinh nhu cầu
phát triển KCHTĐT với một quy mô lớn – nhất là trong xu thế bùng nổ đô thị hóa
toàn cầu với tốc độ choáng ngợp. Thực tiễn này đã gây ra hệ quả phát sinh ngày càng
gay gắt, trực tiếp có ảnh hưởng về lâu dài là toàn bộ HTGT trong và xuyên các trung
tâm kinh tế đô thị hóa, hệ thống điện, nước sạch, hệ thống thu gom và xử lý rác thải,
hệ thống bến bãi, kho tang đều bị sử dụng quá tải nhưng không được đầu tư nâng cấp
và mở rộng thỏa đáng đáp ứng tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.

Ở Việt Nam, điều này càng trở nên gay gắt và cấp bách hơn do nhu cầu phát
triển sau đổi mới. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế còn nghèo thì việc đầu tư
cho KCHTĐT cần phải có chính sách và đường lối cụ thể, phù hợp. Tiết kiệm và hiệu
quả là nguyên tắc và phương châm quản lý phù hợp với điều kiện nước ta. Bên cạnh
việc đầu tư xây mới, chúng ta cần tận dụng những thành quả đạt được trong quá khứ,
cải tạo và nâng cấp các tuyến đường.
1.3.4 Nội dung quản lý hệ thống giao thông đô thị
1.3.4.1 Nội dung quản lý hạ tầng đô thị nói chung
Quản lý KCHTĐT là nhằm thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước các cấp
trong quá trình xây dựng và phát triển KCHTĐT ở nước ta. Hay nói cách khác, quản
lý KCHTĐT là sự thiết lập và thực thi những khuôn khổ thể chế cùng với những quy
định có tính chất pháp quy để duy trì, bảo tồn và phát triển những công trình
KCHTĐT trong một môi trường và cảnh quan tốt đẹp của xã hội. Vì thế, việc quản lý
khai thác, cải tạo và xây dựng các công trình KCHTĐT nói chung phải tuân thủ theo
quy hoạch đô thị đã được phê duyệt. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã, thị trấn
giao cho các cơ quan chuyên trách sử dụng và khai thác các công trình, nội dung quản
lý chủ yếu bao gồm:
- Thực hiện nghiêm túc chế độ sử dụng, giữ gìn, bảo vệ và khai thác các công
trình KCHTĐT hiện có.
- Hợp đồng cung cấp các dịch vụ công cộng (điện, nước, thông tin, dịch vụ…)
với các đối tượng cần sử dụng và hướng dẫn họ thực hiện đúng các quy định về hành
chính cũng như các quy định về kĩ thuật. Phát hiện và xử lý các vi phạm về chế độ sử
dụng và khai thác các công trình KCHTĐT.
- Phát hiện các hư hỏng, sự cố kĩ thuật và có biện pháp sửa chữa kịp thời, thực
hiện chế độ duy tu, bảo dưỡng, cải tạo nâng cấp để duy trì chức năng sử dụng các
công trình KCHTĐT theo đúng định kì.
- Lập hồ sơ và lưu trữ hồ sơ sau khi hoàn thành xây dựng mới, xây dựng lại, sửa
chữa lớn và cải tạo hiện đại hóa công trình.
- Thực hiện đúng nguyên tắc, kế hoạch quản lý đô thị. Tuân thủ nghiêm ngặt
quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị, các điều luật quy định có liên quan.

- Khi cải tạo sửa chữa các công trình KCHTĐT phải có giấy phép của cơ quan
chức năng có thẩm quyền và được sự đồng ý của cơ quan quản lý các công trình
KCHTĐT.
- Các chủ sử dụng các công trình KCHTĐT phải chấp hành nghiêm chỉnh các
quy định và sự hướng dẫn của các cơ quan quản lý đô thị. Nếu xảy ra vi phạm thì tổ
chức và cá nhân vi phạm sẽ bị xử lý theo pháp luật và phải đền bù thiệt hại.
- Đổi mới và tăng cường hiệu lực của bộ máy quản lý, xây dựng chính sách và
các giải pháp tạo vốn, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong nước và nước ngoài
vào mục đích phát triển KCHTĐT. Phương châm “lấy KCHTĐT nuôi KCHTĐT”.
Coi trọng duy tu bảo dưỡng để khai thác sử dụng cũng như cải tạo, mở rộng, phát
triển KCHTĐT. Thống nhất quản lý vốn đầu tư KCHTĐT cũng như thống nhất quản
lý vận hành và khai thác KCHTĐT để đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của đất
nước.
1.3.4.2 Nội dung quản lý cụ thể trên lĩnh vực HTGTĐT
Quan điểm quản lý nói chung là: Coi trọng và đề cao vai trò của quản lý Nhà
nước, hướng tới mô hình Nhà nước pháp quyền. Quản lý Nhà nước được được thực
hiện trên mọi lĩnh vực và mọi thành phần kinh tế. Đối với mỗi lĩnh vực phải thể hiện
quyền lực, sự kiểm soát, giám sát, điều chỉnh của nhà nước ở lĩnh vực đó nhằm đảm
bảo các hoạt động đúng với pháp luật, phù hợp với quyền lợi và nghĩa vụ của mọi
công dân và các tổ chức xã hội.
Nội dung quản lý HTGTĐT bao gồm: Quản lý quy hoạch, thực thi và vận hành
các công trình giao thông; quản lý việc tổ chức phân luồng giao thông; quản lý
phương tiện giao thông…. Trong giới hạn bài viết, em xin đi sâu vào quản lý các
công trình giao thông đô thị, chủ yếu bao gồm mạng lưới đường phố, cầu hầm, quảng
trường, bến bãi…Các công trình giao thông có phạm vi bảo vệ là các đường đỏ và
ranh giới giữa đất của công trình giao thông với đất khác. Đường đô thị được sử
dụng cho giao thông (lòng đường cho xe cộ, vỉa hè dành cho người đi bộ), để bố trí
các công trình KCHTĐT khác (điện, nước, thông tin dịch vụ, vệ sinh môi trường,
trạm đỗ xe, biển báo, quảng cáo, tượng đài…), để trồng cây xanh công cộng và để sử
dụng tạm thời cho các mục đích khác khi chính quyền đô thị cho phép (như bố trí các

quầy sách báo, điện thoại công cộng, tổ chức các hoạt động văn hóa, xã hội, tuyên
truyền giáo dục…)
- Việc quản lý quy hoạch giao thông căn cứ vào “Quy chuẩn xây dựng Việt
Nam, quy hoạch xây dựng của Bộ Xây Dựng năm 2008”. Chương IV: Quy hoạch
giao thông, quy định về quy hoạch giao thông đô thị.
- Việc quản lý và bảo vệ giao thông đô thị cần căn cứ vào các nghị định
thông tư đã được ban hành như:
+ Thông tư số 04/2008/TT – BXD ngày 20/2/2008: Hướng dẫn quản lý đường
đô thị.
+ Nghị định 11/2010/NĐ – CP ngày 24/2/2010: Quy định về quản lý và bảo vệ
kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
+ Thông tư 10/2010/TT – BGTVT ngày 29/4/2010: Quy định về quản lý và bảo
trì đường bộ.
1.3.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý
1.3.5.1 Xu thế đô thị hóa
Đô thị hóa là một quá trình phát triển tất yếu, quá trình này diễn ra nhanh hay
chậm còn tùy thuộc vào yếu tố chủ quan và khách quan.
Đô thị hóa gắn liền với hiện tượng di dân, được xem là nhân tố hàng đầu tác
động đến quy mô dân số. Hiện tượng này trở nên khó đo lường và kiểm soát, đem lại

×