Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Lịch sử hình thành và phát triển các dòng họ tại Thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.98 KB, 8 trang )

Số 27 (52) - Tháng 4/2017

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Lịch sử hình thành và phát triển các dòng họ
tại Thành phố Đà Nẵng
The history of formation and development of families in Da Nang city
PGS.TS. Lê Văn Tấn, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Le Van Tan, Assoc.Prof., Ph.D., Vietnam Academy of Social Sciences
ThS. Tăng Chánh Tín, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
Tang Chanh Tin, M.A., University of Education and Training, Da Nang University
Tóm tắt
Trong tổng thể văn hóa của một quốc gia, dân tộc; dòng họ có vai trò và vị trí vơ cùng quan trọng.
Khơng chỉ dừng lại ở một tập thể người cùng chung một dòng máu, một ơng tổ; dòng họ đã trở thành
một hạt nhân gắn kết chặt chẽ các thành viên, ẩn chứa sức mạnh to lớn về vật chất cũng như tinh thần.
Trong mỗi dòng họ, vấn đề lịch sử hình thành và phát triển của dòng họ được đặc biệt coi trọng. Sự hình
thành, nguồn gốc, thành phần và sự phát triển của các dòng họ phản ánh sinh động lịch sử, văn hóa của
dân tộc trong những giai đoạn đã qua.
Chọn Đà Nẵng, thành phố biển miền Trung làm đối tượng khảo sát, bài viết sẽ tập trung khắc họa lịch
sử hình thành và phát triển của các dòng họ tại Đà Nẵng để thấy được sự đa dạng và phong phú trong
thành phần cư dân ở mảnh đất này.
Từ khóa: dòng họ, văn hóa dòng họ, hình thành, phát triển, Đà Nẵng.
Abstract
In the overall culture of a nation or an ethnicity, family plays a very important role. Not only do a group
of people share a bloodline or an ancestor but family has also formed a nucleus connecting members
closely, hiding enormous strengths physically as well as spiritually. In each family, the history and
development of family is highly valued. The formation, the origin, the composition and the development
of family vividly reflected the history and culture of the nation in the past time. Choosing Da Nang, a
central coastal city, as a research subject, the article will focus on depicting the history of formation and
development of families in Da Nang in order to show the diversity and abundance of residential
composition in this land.


Keyword: family, family culture, formation, development, Da Nang.

dòng họ, văn hóa dòng họ được xem là một
trong những thành tố đặc sắc của văn hóa
Đà Nẵng. Dòng họ với những biểu hiện
sinh động của nó đã trở thành một phần
khơng thể thiếu trong đời sống vật chất lẫn
tinh thần của người dân Đà Nẵng, góp

1. Đặt vấn đề
Lịch sử hơn 700 năm (kể từ mốc 1306)
với tư cách là một phần lãnh thổ của Đại
Việt đã tạo cho Đà Nẵng một bề dày văn
hóa truyền thống, được kết tinh từ nhiều
thành phần văn hóa độc đáo. Trong đó,
3


LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DÒNG HỌ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Đỗ Trọng Am trong cuốn Văn hóa
dòng họ Việt Nam cũng đã đưa ra một khái
niệm về dòng họ như sau: “Dòng họ là tổ
chức của những người có cùng huyết
thống, cùng một ông tổ sinh ra, theo thời
gian và theo hệ thống dọc, thường tụ họp
quanh một ngôi từ đường và sinh sống gần
gũi trong làng xã, thời gian càng dài thì
chi nhánh càng phát triển, không chỉ hạn
chế bởi phạm vi biên giới”4.

GS Nguyễn Đình Chú trong một bài
viết của mình cũng đã nhận định: “Dòng
họ xuất hiện từ khi có hôn nhân và gia đình
hạt nhân là một cặp vợ chồng theo quan hệ
đực - cái. Gia đình từ bố mẹ mà có con cái.
Từ con cái mà có cháu chắt, rồi chút chít
mà thành dòng họ. Dòng họ theo thời gian
phát triển ngày một đông đúc sẽ có sự
phân chi phân phái”5.
Trong số các định nghĩa về dòng họ,
nhiều người đánh giá cao cách định nghĩa
của Léopold Cadière, trong cuốn Văn hóa,
tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam: “Người
Việt cho dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng
thuộc về một họ, tức gia đình theo nghĩa
rộng, tổ chức vững chắc, liên kết chặt chẽ
bằng huyết thống, bằng những quyền lợi
vật chất, bằng những niềm tin tôn giáo,
bằng các mối dây luân lý của cộng đồng”6
Như vậy, ta có thể thấy rằng, việc đưa
ra một định nghĩa chính xác, đầy đủ về
dòng họ là không hề dễ dàng. Tùy mỗi
cách tiếp cận, mỗi hướng nghiên cứu mà
các học giả, nhà nghiên cứu đưa ra những
quan điểm của mình về dòng họ. Trong đó,
khái niệm mà Léopold Cadière đưa ra có
sự thuyết phục cao nhất khi đã đưa ra
những dấu hiệu nhận diện nổi bật của dòng
họ là “huyết thống”, “quyền lợi vật chất”,
“niềm tin tôn giáo” và “luân lý cộng


phần quan trọng trong việc hình thành nhân
cách con người, cố kết và tạo nên sức
mạnh của cộng đồng.
Nghiên cứu về dòng họ ở Đà Nẵng
dưới góc nhìn về lịch sử hình thành và phát
triển sẽ góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề
về lịch sử và văn hóa rất thú vị về mảnh đất
“đầu biển cuối sông” này.
2. Những khái niệm về dòng họ
Đối với mỗi người Việt Nam, khái
niệm về dòng họ hẳn đã không còn xa lạ.
Bởi lẽ, ngay từ khi được sinh ra, mỗi người
trong chúng ta đều được sống, được nuôi
dưỡng và trưởng thành trong môi trường
của cộng đồng thân tộc. Dòng họ, dòng tộc
đã trở thành những gì cao quý, thiêng liêng
nhất khi nhớ về của mỗi người con nước
Việt. Tuy vậy, để có được một định nghĩa
đầy đủ, rõ ràng và khoa học về dòng họ thì
không phải là điều dễ dàng. Các học giả,
nhà nghiên cứu trong các công trình của
mình đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau
về dòng họ.
Trong Hán Việt từ điển giản yếu, học
giả Đào Duy Anh đã giải thích “Tộc là họ,
thân thuộc, loài”1.
Hai tác giả Phillippe Papin và Olivier
Tessier trong tác phẩm Làng ở vùng châu
thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ đã đưa

ra nhận định về dòng họ: “Theo định
nghĩa, tộc hay dòng họ tập hợp toàn thể
con cháu bên nội của cùng một ông tổ
được thừa nhận”2.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Từ Chi lại
nêu ra quan niệm: “Họ, quá lắm cũng chỉ
có thể xem là một dạng đặc biệt của gia
đình mở rộng, mà tác dụng chính đối với
các thành viên của nó (tức là các gia đình
nhỏ hợp thành nó) là tạo ra một niềm cộng
cảm dựa trên huyết thống”3.
4


LÊ VĂN TẤN – TĂNG CHÁNH TÍN

đồng”. Có thể nhận thấy, điểm chung nhất
khi đề cập đến một dòng họ đó là có chung
huyết thống và cùng chung một ông tổ.
3. Quá trình hình thành và phát triển
các dòng họ tại Đà Nẵng
3.1. Sự hình thành và phát triển
các dòng họ
Hiện nay, tại Đà Nẵng, vẫn chưa có
một thống kê chính thức về số lượng các
dòng họ tại nơi đây. Tuy vậy, theo sự phát
triển của thời gian cũng như phong trào
phục hưng văn hóa dòng họ đang diễn ra
mạnh mẽ thì số lượng ở nơi đây cũng lên
đến hàng trăm dòng họ. Mỗi một dòng họ ở

Đà Nẵng đều có lịch sử hình thành, nguồn
gốc và quá trình phát triển khác nhau, phản
ánh sinh động quá trình lập làng, mở ấp
của tiền nhân.
Có thể nói, trải qua một thời gian dài
đầy bất ổn kể từ sau mốc thời gian 1306,
khi Huyền Trân công chúa về làm dâu xứ
Chiêm Thành để đổi lại sính lễ là Châu Ô
và Châu Lý (sau đổi thành Thuận Châu và
Hóa Châu). Đến đời vua Lê Thánh Tông,
niên hiệu Quang Thuận thứ 7 (1466), vùng
đất biên viễn phương nam của nước ta mới
dần đi vào ổn định.
Nước ta được chia thành 12 đạo thừa
tuyên. Trong đó có “đạo thừa tuyên Thuận
Hóa gồm 02 phủ là Triệu Phong và Tân
Bình. Vùng đất Đà Nẵng lúc bấy giờ thuộc
huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong với 12
tổng và 96 xã”7.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân
chinh đem quân “Bình Chiêm”, lập ra đạo
thừa tuyên thứ 13 Quảng Nam. Để kịp thời
vỗ yên bờ cõi, mở mang làng xã, vua Lê
Thánh Tông đã thực hiện chính sách “Tòng
chinh lập nghiệp”, cho nhân dân từ các
miền phía Bắc Thuận Quảng, chủ yếu từ

đồng bằng Thanh - Nghệ vào khai phá, lập
làng dựng ấp.
Nhà nghiên cứu Hồ Trung Tú trong

bài viết “Lịch sử hình thành các dòng họ
Quảng Nam” đã nhận định: “cuộc di dân
của người Việt vào vùng Nam Hải Vân là
không phải kéo dài 700 năm suốt từ thời
nhà Lý đến thời các vua Nguyễn mà có thể
chia làm mấy giai đoạn chính: Từ 1306
đến 1402 là sự ổn định của vùng Bắc Hải
Vân. Từ 1402 đến 1407 là 5 năm của
những cuộc di dân đầu tiên được tổ chức
quy mô, cẩn thận, nghiêm khắc và cương
quyết dưới sự chỉ đạo của triều đình nhà
Hồ… Từ 1471 đến 1671 là 200 năm của
những cuộc di dân ồ ạt, tổ chức có, bắt
buộc có, tù đày có, lính thú ở lại có, di dân
tự phát có, tù binh có, ngoại kiều có… Mãi
đến thời Tây Sơn và vua Nguyễn các di dân
mới trở lại với số lượng không đáng kể”8.
Từ nhận định trên, có thể thấy rằng,
lịch sử các dòng họ Quảng Nam nói chung
và Đà Nẵng nói riêng gắn liền với lịch sử
di dân và định cư của người Việt về
phương Nam, đặt trong mối quan hệ giao
lưu, tiếp biến với các dân tộc bản địa, tiêu
biểu là người Chăm. Chính lịch sử có nhiều
biến động của vùng đất này đã tạo cho lịch
sử các dòng họ ở đây có những khác biệt
về thời gian xuất hiện, về nguồn gốc cũng
như quá trình phát triển của các dòng họ.
Theo nghiên cứu tại thành phố Đà
Nẵng, nhiều dòng họ ở đây có lịch sử khá

lâu đời. Trong đó, tộc Phan làng Đà Sơn,
thuộc phường Hòa Khánh Nam, quận Liên
Chiểu, thành phố Đà Nẵng được xem là
dòng họ lâu đời nhất ở xứ Quảng. Đà Sơn
là một trong những làng được thành lập
sớm ở Hóa Châu. Ông Phan Công Thiên,
sinh năm 1318 (đời vua Trần Minh Tông)
5


LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DÒNG HỌ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

là phò mã vua Trần (lấy công chúa Trần
Ngọc Lãng) là tiền hiền thành lập làng
Đà Sơn.
Năm 1346, ông nhận chức “Đô chỉ huy
suy thập tam châu kinh lược chiêu dụ xử trí
Xứ”, tức “người trông coi mười ba châu”
thuộc phía Nam chân đèo Hải Vân và nhận
lệnh vua Trần vào dựng làng lập chợ, ổn
định đời sống nhân dân vùng đất mới Hóa
Châu. Điểm dừng chân đầu tiên của ông
Phan Công Thiên thuộc động Trà Ngâm,
xứ Trà Na (nay là làng Đà Sơn, Hòa Khánh
Nam, Liên Chiểu, Đà Nẵng).
Đi cùng với ông Phan Công Thiên
trong thời gian này còn có các tộc họ:
Nguyễn, Kiều, Đỗ. Đây được xem là 4 tộc
họ tiền hiền của làng. Ban đầu các tộc họ
tiền hiền này cộng cư với người Chăm bản

địa khai khẩn vùng đất dưới chân núi
Phước Tường (đất làng Đà Sơn ngày nay).
Từ đây, diện tích của làng không ngừng
được mở rộng, bao gồm một vùng rộng
lớn từ sát sông Cu Đê vào đến Cẩm Lệ
ngày nay thuộc động Trà Ngâm, xứ Trà Na
trước kia.
Sau những bước chân đầu tiên của ông
Phan Công Thiên vào khai phá làng Đà
Sơn những năm nửa đầu thế kỷ XIV, đến
nửa sau thế kỷ XV, nhất là sau cuộc Nam
chinh của vua Lê Thánh Tông, nhiều dòng
họ từ phía Bắc đã di cư vào phương Nam
để làm ăn sinh sống. Từ đó, mảnh đất Đà
Nẵng đã được nhiều dòng họ chọn làm
điểm dừng chân. Nhiều dòng họ đến đây
thời kỳ này được tôn làm tiền hiền của các
làng. Như tộc Huỳnh tiền hiền làng Thạc
Gián (quận Thanh Khê), tộc Trần, Hồ,
Trương, Nguyễn tiền hiền làng Bồ Bản
(huyện Hòa Vang), tộc Đặng, Lâm,
Nguyễn, Trần, Lê tiền hiền làng Túy Loan

(huyện Hòa Vang), tộc Trần, Lê, Nguyễn,
Đỗ, Ngô, Huỳnh tiền hiền làng An Hải
(quận Sơn Trà)…
Tiếp đó, dưới thời các chúa Nguyễn,
những cư dân từ phía bắc tiếp tục theo
những đoàn lưu dân vào Nam. Công cuộc
mở rộng bờ cõi của Nguyễn Hoàng vào thế

kỷ XVI và sự kiện triều đình nhà Nguyễn
chính thức được thành lập đầu thế kỷ XIX
đã khiến dòng người di dân vào vùng đất
Thuận Quảng ngày càng nhiều. Nhiều
dòng họ đã dừng chân lập làng tại Đà
Nẵng quần tụ hình thành những làng ấp trù
phú. Điển hình như năm 1605, ông
Nguyễn Huyền lập nên làng Hòa Mỹ (quận
Liên Chiểu); năm 1621, ông Hồ Văn Oai
cùng gia đình dừng chân lập làng tại làng
Thanh Khê (quận Thanh Khê); năm 1643,
ông Văn Đức lập nên làng Trung Nghĩa
(quận Liên Chiểu)…
Tiếp đó, dưới thời Tây Sơn và nhà
Nguyễn sau này, một số dòng họ cũng đến
Đà Nẵng lập nghiệp và lập nên các làng
như Đại La (huyện Hòa Vang), Trung
Lương (quận Cẩm Lệ)…
Như vậy, có thể khẳng định, phần lớn
các dòng họ gốc Việt ở thành phố Đà Nẵng
có lịch sử hình thành và phát triển gắn liền
với quá trình khai hoang, lập làng, mở rộng
lãnh thổ về phía Nam của người Việt.
Bên cạnh đó, vùng đất Đà Nẵng trước
khi có mặt của người Việt chính là địa bàn
sinh sống của người Chăm, chủ nhân của
vương quốc Chămpa hùng mạnh trong lịch
sử. Chính vì vậy, trên địa bàn Đà Nẵng,
còn có một dòng họ rất đặc biệt, dòng họ
này tự nhận mình có nguồn gốc Chăm, có

lịch sử lâu đời nhất trong các dòng họ tại
đây, đó là dòng họ Ông làng Phong Lệ
(phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ).
6


LÊ VĂN TẤN – TĂNG CHÁNH TÍN

từ vị Đệ nhất thủy tổ. Cụ thể như tộc
Nguyễn Hữu làng Hòa An (quận Cẩm Lệ)
đã trải quan hơn 500 năm lịch sử. Tính từ
khi 04 anh em vị thủy tổ gồm Nguyễn Hữu
Hồ, Nguyễn Hữu Hải, Nguyễn Hữu Thanh,
Nguyễn Hữu Châu vào lập làng thời Lê
Thánh Tông đến nay đã đến 17 đời, 02 phái
và 05 chi với hơn 160 hộ. Sau khi người
anh cả Nguyễn Hữu Hồ dừng chân lập làng
tại Hòa An, 03 người em tiếp tục cuộc
hành trình về Nam. Trong đó, ngài Nguyễn
Hữu Hải đến định cư tại huyện Bình Khê,
tỉnh Bình Định, lập nên một nhánh Nguyễn
Hữu tại đây. Còn 02 người em còn lại
không rõ đi đâu.
Với tộc Ông làng Phong Lệ (Hòa Thọ
Đông), tính từ vị thủy tổ Ung (Ông) Văn
Lào đến nay đã được 21 đời với 03 phái và
10 chi. Đa số con cháu họ Ông đều quần
tụ, sinh sống tại làng Phong Lệ, phường
Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ.
Tộc Lê tại Đà Nẵng có tổ đình tại

làng Mân Thái (quận Sơn Trà) vốn là hậu
duệ đời thứ 15 của dòng dõi vua Lê. Đến
đời thứ 16 ông Lê Hào đã sinh hạ được 09
người con. 9 người con này trở thành thủy
tổ của các dòng họ Lê ở các địa phương
như họ Lê ở Gia Lộc, Hà Lộc (Điện Bàn,
Quảng Nam), họ Lê ở Mân Thái, Nại Hiên
Đông, Mỹ Thị (quận Sơn Trà), họ Lê ở
Thanh Khê, Hà Khê (quận Thanh Khê), họ
Lê ở Nam Ô (quận Liên Chiểu) và đặc
biệt là một nhánh họ Lê tại Phan Thiết
Bình Thuận.
Ngoài ra các dòng họ Đàm, Đinh,
Đặng Ngọc, Phạm… đều có tổ đình tại Đà
Nẵng thờ phụng bậc thủy tổ khai sinh ra
dòng họ trên mảnh đất này. Hiện nay, đa số
con cháu của các dòng họ đều cư trú trên
mảnh đất tiền nhân đã chọn. Tuy nhiên,

Theo lời kể của cụ Ông Ích Trưng,
Trưởng ban đại diện hội đồng gia tộc họ
Ông thì họ Ông có nguồn gốc Chăm. Năm
1069, nhà Lý đánh Chămpa và bắt người
họ Ông mang ra ngoài Bắc. Vua Lý thấy
người này có nghề dạy voi nên phong cho
chức Quản tượng và cho sinh sống ở núi
Voi, Hà Bắc, đổi họ thành Lý Trai, đây
được xem là thủy tổ của dòng họ Ông ở
ngoài Bắc.
Người này lấy vợ và sinh được 8

người con, trong đó có một người đi sang
Lào, về sau đi vào vùng Phan Rang Tháp
Chàm và sinh con đẻ cái. Trong số đó, một
người con là Ung (Ông) Văn Lào đã trở lại
làng Phong Lệ cùng với các họ Phan,
Phùng khai khẩn lập nên làng Phong Lệ.
Ngài Ung (Ông) Văn Lào được xem là
thủy tổ của dòng họ Ông làng Phong Lệ.
Các ngài Ung (Ông) Văn Lào, Phan Công
Nhâm và Phùng Văn Mươi được triều đình
sắc phong là Tam Vị tiền hiền của làng
Phong Lệ.
Trải qua thời gian dài, người họ Ông
làng Phong Lệ đã sinh sống hòa hợp, kết
hôn với các dòng họ khác trong làng và
dần dần Việt hóa, nhiều người họ Ông khi
được hỏi luôn cho mình là người Kinh mà
đã quên đi gốc gác Chăm.
Trong suốt quá trình định cư, các vị
thủy tổ của các dòng họ ở quận Đà Nẵng
đã gặp không ít khó khăn, nhưng với bản
lĩnh của những người đi đầu, họ đã vượt
qua tất cả và tạo lập nền tảng vững chắc
cho con cháu đời sau. Từ những bước chân
đầu tiên của tiền nhân, đến nay, hầu hết các
dòng họ tại Đà Nẵng đã có sự phát triển
mạnh mẽ về mọi mặt.
Hiện nay, các dòng họ ở Đà Nẵng đã
phát triển với nhiều đời, nhiều chi phái tính
7



LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DÒNG HỌ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

qua thời gian, chiến tranh cùng bao biến
thiên của lịch sử, hiện nay, nhiều con cháu
đã làm việc, công tác tại nhiều địa phương
ở trong lẫn ngoài nước.
Mặc dù cư trú ở bất cứ nơi đâu, trong
nước hay nước ngoài, những người con vẫn
không nguôi nhớ về cội nguồn dòng họ của
mình. Văn hóa dòng họ với tất cả những
giá trị cao quý, thân thương nhất là sợi dây
vô hình ràng buộc họ với quê hương, như
chính lời dạy mà tộc họ nào cũng trang
trọng đặt ở ngôi từ đường “Mộc hữu bản,
thủy hữu nguyên” (Sông có cội, nước có
nguồn).
3.2. Nguồn gốc của các dòng họ
Về nguồn gốc của các dòng họ, có thể
nói, những lớp cư dân “Bắc địa tùng
vương” cuối thế kỷ XV đến Đà Nẵng bao
gồm nhiều dòng họ khác nhau trên đất Bắc.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuyên thì:
“Xét về thành phần, có thể thấy một số họ
là quan lại, tướng tá, binh sĩ đã từng tham
gia “bình Chiêm phạt Lỗ”, được lệnh ở lại
và đưa vợ con vào lập nghiệp; nhưng đông
hơn cả vẫn là dân nghèo quê đất Bắc. Một
bộ phận khác là người Chăm ở lại làm ăn

thuận hòa với những lưu dân Việt mới đến.
Ngoài ra, còn phải kể đến những người bị
tù tội phải lưu đày”9.
Trong Luận án Phó Tiến sĩ khoa học
lịch sử Công cuộc khai khẩn và phát triển
làng xã ở Bắc Quảng Nam từ giữa thế kỷ
XV đến giữa thế kỷ XVIII, tác giả Huỳnh
Công Bá cho rằng: “…những lưu dân đến
Bắc Quảng Nam thời Lê Thánh Tông chủ
yếu thuộc các địa phương Nghệ An, Thanh
Hóa, Hải Dương, Cao Bằng…, chính Nghệ
An có người di cư đến Quảng Nam dưới
thời Lê Thánh Tông nhiều nhất”10.
Qua nghiên cứu thực địa tại Đà Nẵng,

thấy rằng, nguồn gốc của các dòng họ tại
đây chủ yếu xuất phát từ miền Bắc. Tộc
Nguyễn Hữu làng Hòa An (quận Cẩm Lệ)
trong gia phả có ghi nguồn gốc từ làng Hòa
An, huyện Chơn Phước, phủ Đức Quang,
tỉnh Nghệ An. Trong gia phả tộc Nguyễn
Hữu có ghi lại: “Các cụ cao thỉ tổ chúng ta
đã từng đạp bao gian lao, vượt suối trèo
đèo, dầm mưa dải nắng đến đây khai phá
rừng rậm, san gò nổng thành bình địa phì
nhiêu, chiêu dân lập ấp sáng lập nên làng
Hòa An”11
Một số khác có nguồn gốc đồng bằng
Bắc Bộ như tộc Đàm làng Mỹ Khê (quận
Sơn Trà) có nguồn gốc làng Me, Hương

Mạc, Từ Sơn, Bắc Ninh. Ngoài ra, tộc
Nguyễn làng Hải Châu (quận Hải Châu)
xuất phát từ thôn Hiếu Hiền, xã Hải Châu,
huyện Tĩnh Gia, tỉnhThanh Hóa; tộc Văn
làng Trung Nghĩa (quận Liên Chiểu) có
nguồn gốc từ làng Gốm, huyện Hải Hưng,
tỉnh Hải Dương; tộc Hồ làng Thanh Khê
(quận Thanh Khê) có nguồn gốc xã Phước
Châu, huyện Nghi Xuân, phủ Đức Quang,
tỉnh Hà Tĩnh....
Tại từ đường tộc Nguyễn Hữu làng
Hòa An, quận Cẩm Lệ còn ghi lại 02 câu
đối chữ Hán về nguồn gốc của dòng
họ mình:
“Hệ xuất trần lưu kỷ bá tải, cơ đồ tại Bắc
Điển lâm hòa thổ thập dư truyền,
doanh nghiệp du Nam”
Bên cạnh những dòng họ có nguồn gốc
từ vùng đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ
thì trên địa bàn Đà Nẵng, cũng có một số
dòng họ xuất phát từ phía Nam hoặc từ các
địa phương khác trong tỉnh. Điển hình như
dòng họ Thái làng Nghi An (quận Cẩm Lệ)
có nguồn gốc từ xã Thanh Lộc, tổng Phong
Hạ, huyện Phù Ly, tỉnh Bình Định. Dòng
8


LÊ VĂN TẤN – TĂNG CHÁNH TÍN


của việc giữ gìn, phát triển nòi giống, chăm
lo sản xuất, ổn định cuộc sống. Công lao
“gieo hạt” từ buổi đầu khó khăn, gian khổ
ấy của các vị luôn được con cháu đời sau
ngưỡng vọng, tôn thờ.
4. Thay lời kết
Không ai có thể phủ nhận tầm quan
trọng của dòng họ trong bất cứ thời đại nào
của lịch sử. Trong bối cảnh hiện nay, vấn
đề dòng họ và văn hóa dòng họ lại càng
phải được xem trọng, tôn vinh. Việc
nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát
triển của dòng họ tại Đà Nẵng cần phải
được nhìn nhận một cách nghiêm túc, khoa
học. Cần có sự vào cuộc của các nhà
nghiên cứu bên cạnh các dòng họ để góp
phần xây dựng bức tranh tổng thể về các
dòng họ tại Đà Nẵng, làm rõ nhiều vấn đề
lịch sử, văn hóa của địa phương. Từ đó, có
những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy
giá trị của dòng họ, văn hóa dòng họ tại Đà
Nẵng. Đó là trách nhiệm, là món nợ của
hậu thế trước các bậc tiền nhân.

họ Lê làng Liêm Lạc (quận Cẩm Lệ) thì có
nguồn gốc từ Chợ Được, huyện Thăng
Bình, tỉnh Quảng Nam.
3.3. Xuất thân và thành phần xã hội
của thủy tổ các dòng họ
Xuất thân và thành phần xã hội của

những vị thủy tổ của các tộc họ tại Đà
Nẵng khác nhau do lý do, mục đích của họ
khi đến vùng đất này khác nhau. Họ có thể
là những người nông dân dân nghèo,
hưởng ứng công cuộc mở rộng lãnh thổ về
Nam của triều đình, theo lời kêu gọi mà
gồng gánh gia đình vào vùng đất mới mong
có cơ hội đổi đời. Họ cũng có thể là những
quan lại, tướng lĩnh theo lệnh vua ban vào
vùng đất mới để chiêu dân lập ấp.
Thực tế tại Đà Nẵng, thủy tổ của các
dòng họ có xuất thân rất khác nhau. Thủy
tổ tộc Phan Hữu ở làng Cẩm Bắc (quận
Cẩm Lệ) là ngài Phan Hữu Quơn xuất thân
từ một võ quan thời nhà Lê. Thủy tổ tộc
Đàm làng Mỹ Khê (quận Sơn Trà) là ngài
Đàm Văn Độn, thủy tổ tộc Nguyễn Hữu
làng Hòa An (quận Cẩm Lệ) là ngài
Nguyễn Hữu Hồ xuất thân từ những nông
dân theo đoàn lưu dân từ phía bắc vào khai
phá lập làng.
Bên cạnh những dòng họ gốc Việt, từ
phía Bắc vào; tại Đà Nẵng, chúng ta sẽ
không khó khi bắt gặp những dòng họ vốn
tự nhận mình có gốc Chăm như họ Ông
làng Phong Lệ (quận Cẩm Lệ), họ Trà làng
Hòa Phú (quận Liên Chiểu)… Trong quá
trình phát triển, những dòng họ này đã có
sự giao lưu và gắn bó chặt chẽ với các
dòng họ người Việt qua nhiều thế hệ.

Mặc dù xuất thân từ những thành phần
khác nhau, ra đi từ những làng quê khác
nhau nhưng các vị thủy tổ của các dòng họ
ở Đà Nẵng đều ý thức được tầm quan trọng

Chú thích:
1
Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển giản yếu, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2009, tr.603.
2
Phillippe Papin và Olivier Tessier (chủ biên),
Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn
bỏ ngỏ, Nxb TT KHXH&NVQG, Hà Nội,
2002, tr.343.
3
Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hóa
& tộc người, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội,
2003, tr.253.
4
Đỗ Trọng Am, Văn hóa dòng họ Việt Nam, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2011, tr.30.
5
Nguyễn Đình Chú, Dòng họ và vai trò của văn
hóa dòng họ trong đời sống văn hóa dân tộc.
Trong sách Văn hóa gia đình, dòng họ và gia
phả Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh, 2015, tr.14.
6
Léopold Cadière, Văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng
Việt Nam, Nxb Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh,

2006 tr.241, 242.

9


LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DÒNG HỌ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
7

Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb Văn
học, Hà Nội, 2001, tr.93.
8
Hồ Trung Tú, Lịch sử hình thành các dòng họ
Quảng Nam, trên trang xuquang.com,
26.08.2006.
9
Nguyễn Xuyên, Thân tộc với vùng đất Quảng
Nam, trên trang hothan.org, 15.06.2010.
10
Huỳnh Công Bá, Công cuộc khai khẩn và
phát triển làng xã ở Bắc Quảng Nam từ giữa
thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVIII, Luận án Phó
Tiến sĩ khoa học lịch sử, Đại học Sư phạm Hà
Nội, 1996, tr.63.
11
Gia phả tộc Nguyễn Hữu, làng Hòa An,
phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà
Nẵng, 1998, tr.2.

Ngày nhận bài: 17/3/2017


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Văn An (1997), Ô Châu cận lục, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Phan Đại Doãn (2004), Mấy vấn đề về văn
hóa làng xã Việt Nam trong lịch sử, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Võ Văn Hòe (2010), Tập tục xứ Quảng theo
một vòng đời, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
4. Dương Trung Quốc (2001), Lịch sử thành phố
Đà Nẵng, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
5. Hồ Trung Tú (2015), Có 500 năm như thế Bản sắc Quảng Nam và Đàng Trong từ góc
nhìn phân kỳ lịch sử, Nxb Đà Nẵng.

Biên tập xong: 15/4/2017

10

Duyệt đăng: 20/4/2017



×