Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Về một số đề tài nổi bật trong văn xuôi tự sự Lưu Trọng Lư thời kì trước 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.12 KB, 6 trang )

Số 26 (51) - Tháng 03/2017

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Về một số đề tài nổi bật trong văn xi tự sự
Lưu Trọng Lư thời kì trước 1945
Prominent topics in narrative prose by Luu Trong Lu before 1945
ThS.NCS. Hồ Thị Thanh Thủy
Trường Đại học Đồng Nai
Ho Thi Thanh Thuy, M.A. Ph.D. student
The University of Dong Nai
Tóm tắt
Bài viết đi sâu làm rõ một số đề tài nổi bật trong văn xi tự sự của Lưu Trọng Lư với các nội dung chủ
yếu: đề tài con người trong mơi trường đơ thị, đề tài con người lỡ vận, đề tài kỷ niệm riêng. Từ đó bài
viết khẳng định Lưu Trọng Lư khơng chỉ là nhà thơ mới nổi tiếng mà còn là một cây bút văn xi có
những đóng góp đáng ghi nhận cho văn xi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
Từ khóa: đề tài, con người trong mơi trường đơ thị, con người lỡ vận, kỷ niệm riêng tư.
Abstract
This article explicates some prominent topics in narrative prose by Luu Trong Lu such as human in the
urban environment, misfortunate people, personal memories, etc. This explication helps to confirm that
Luu Trong Luu was not only a famous representative of the New Poertry movement but also a writer
who made considerable contribution to Vietnamese prose during the period 1930-1945.
Keywords: topic, people in urban enviroment, misfortunate people, personal memories.

1. Mở đầu
Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện
đại, Lưu Trọng Lư được đánh giá là một
trong những người tiên phong của phong
trào Thơ Mới. Trước cách mạng, bên cạnh
những thi phẩm nổi tiếng, ơng còn sáng tác
một khối lượng văn xi khá lớn với 27


truyện ngắn, 27 tiểu thuyết. Nếu như có
một “đề tài sầu mộng” trong thơ Lưu
Trọng Lư thì cũng có một sự lãng mạn
trong lựa chọn đề tài ở mảng văn xi của
ơng với việc tái hiện đề tài con người trong
mơi trường đơ thị, đề tài con người lỡ vận,
đề tài kỷ niệm riêng tư.

2. Nội dung
2.1. Con người trong mơi trường đơ thị
là một đề tài lớn của văn học lãng mạn chủ
nghĩa. Văn học lãng mạn thường hay dựng
lên sự tương phản giữa cuộc sống của con
người cá nhân ưa tự do, phóng khống với
mơi trường sống ở đơ thị vốn có đặc trưng
là ngột ngạt, đầy những toan tính phàm tục.
Đây chính là một điều ối oăm bởi khơng
có đơ thị thì con người cá nhân khơng có
cơ hội khẳng định mình, nhưng cùng với
điều đó, đơ thị ln đưa đến cho con người
cá nhân bao phiền não, dằn vặt, bức xúc.
Việc Lưu Trọng Lư có nhiều tác phẩm viết
47


VỀ M T SỐ ĐỀ TÀI NỔI BẬT TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ THỜI KÌ TRƯỚC 1945

về cuộc sống con người trong môi trường
đô thị cho thấy ông chịu ảnh hưởng rất sâu
của văn học lãng mạn Pháp. Nhưng ngoài

nguyên nhân thuộc về kiểu nhìn, kiểu quan
niệm về cuộc đời đó của chủ nghĩa lãng
mạn, còn có nguyên nhân thuộc về thực tế
xã hội Việt Nam, thực tế sáng tác văn
chương ở Việt Nam. Khi thời kì Mặt trận
Dân chủ chấm dứt, khi chủ đề con người giai cấp, con người - xã hội không có điều
kiện phát huy nữa, thì cái nhìn về con
người trong những quan hệ đời thường
được quan tâm nhiều hơn. Ở các tác phẩm
văn xuôi của Lưu Trọng Lư thời kì này, ta
thấy một thế giới nhân vật là những con
người của cuộc sống đời thường thật giản
dị, gần gũi, thân thuộc. Những con người
đó được đặt trong mối quan hệ với gia
đình, họ hàng, ở “cái hằng ngày” mà ta vẫn
thường gặp trong cuộc sống.
Với Lưu Trọng Lư, khả năng cảm
nhận và biểu hiện đời sống đương thời, đặc
biệt là đời sống của nhừng người cùng
sống trong một bầu không khí với ông
được tái hiện khá toàn diện. Thành phố
Huế và thành phố Hà Nội là hai trong
những địa danh được nhắc tới nhiều lần
trong sáng tác của Lưu Trọng Lư thời kì
này, đi kèm là cuộc sống của những con
người trong môi trường đó. Ở đây chúng ta
dễ dàng nhận thấy sự gắn kết của giới văn
nghệ sĩ những năm trước 1930, họ tụ họp
nhau bên cạnh một cái hỏa thực, để nói
chuyện phiếm, để pha trò, để dành cho

nhau những phút giây thư giản trong Bạn
tôi lấy vợ. Hay 15 truyện ngắn biểu lộ thói
ma mãnh của ông chủ bút và ông chủ
nhiệm trong một tờ nhật báo. Qua đó,
người đọc thấy hiện lên cái khả năng kém
cỏi của một bộ phận trí thức trong giới báo
chí thời bấy giờ, đồng thời phản ánh gu
thưởng thức báo chí của lớp độc giả thành

thị: “các độc giả rất hài lòng vì số báo ấy
cho họ có giấy gói hàng, nên họ cũng
chẳng buồn giở báo ra đọc văn” [4, 97].
Hay dáng nét cụ thể của giới học sinh Hà
thành những năm 1930 cũng được tái hiện.
Trong tiểu thuyết Cô Nhung, cô Nhung
mang dáng dấp của một cô gái mới. Nàng
thích xem “chớp bóng”, thả hồn mơ mộng
theo những cảnh diễn, ở đây, không còn
bóng dáng của những cô tú, cậu tú trong
lớp học của cụ đồ nho, mà là cảnh vui
nhộn, ngộ nghĩnh của những cô cậu học trò
trong lớp học. Buổi học cuối năm, cả lớp
Nhung được bữa thoải mái, các cô cậu học
trò tha hồ trao đổi thư tay. Rồi Nhung quen
Đông, đó là mối tình trong môi trường học
trò Hà Thành. Nhưng cha cô là một viên
quan trong triều đình Huế ngày tết về thăm
nhà và phát hiện cuốn nhật ký của Nhung,
ông thấy trong cuốn nhật ký có dấu hiệu
của kiểu gái tân thời liền bắt Nhung nghỉ

học và đưa nàng vào Huế ép gả cho một
quan tri huyện trẻ. Đông tìm cách gặp lại
Nhung nhưng nàng xin chàng quên mình đi
để được làm một kẻ tầm thường. Nhung và
Đông yêu nhau, mối tình trong sáng của
học trò Hà Thành. Bị cha ép duyên nhưng
cô không một lời phản kháng, lặng lẽ chịu
đựng cho dù trong lòng luôn nhớ tới người
yêu. Ngỡ rằng sự ảnh hưởng của cái mới
trong cô gái tân thời như Nhung là động
lực để đấu tranh cho một tình yêu tự do,
nhưng nàng đã lặng lẽ xa Đông để theo cha
vào Huế làm vợ một ông quan trẻ. Từ một
cô gái hiền lành, sống sôi nổi, có cá tính
khi trở thành những bà mệnh phụ Nhung
lại ngoan hiền hơn xưa.
Có khi là tình yêu diễn ra trong không
gian chật hẹp của khu phố cũ Hà thành,
trên chuyến tàu định mệnh từ Huế ra Hà
Nội, thi sĩ Liên - một người đã có vợ con
đã quen cô nữ sinh Cẩn, hai người yêu
48


HỒ THỊ THANH THỦY

mến, quấn quýt, trao đổi tình cảm bằng sự
gắn kết của hai khung cửa sổ nơi gác trọ ở
khu phố cổ Hà thành chật hẹp. Câu chuyện
tình kết thúc bi thảm với sự trở về Huế của

Cẩn để nhận lỗi với gia đình và tự kết liễu
cuộc đời vì cô đã trót yêu một người đã có
vợ con. Với Lưu Trọng Lư, ông đã diễn tả
tình yêu ở nhiều góc độ, nếu các nhà văn
Tự Lực văn đoàn đặt ra một vấn đề rất mới
mẻ trong tình yêu nam nữ, đó là vấn đề
đấu tranh cho luyến ái và hôn nhân tự do,
thì các nhân vật trong tác phẩm của Lưu
Trọng Lư lại chìm đắm trong bể ái tình
như Cẩn và Liên trong Em là gái bên song
cửa, Nhung và Đông ở tiểu thuyết Cô
Nhung và rốt cuộc họ lại có kết cục bi
thảm, thương tâm.
Ngoài ra, tác giả còn tái hiện con người
bị sức cuốn hút của cô gái tân thời, cùng với
ma lực của đồng tiền trong môi trường sống
thị thành, điều này đã khiến cho nhân vật
Lương rời bỏ Yến - cô bé xinh đẹp, ngây
thơ, đánh đàn tranh giỏi để lấy Vinh một cô
gái tân thời con nhà giàu. Dùng đồng tiền
bên nhà vợ Lương đã mở tòa báo, mở tiệm
khiêu vũ, để rồi rơi dần vào các thói ăn chơi
hành lạc của tầng lớp thượng đẳng trong xã
hội bấy giờ. Hai vợ chồng quay trở về sống
cuộc sống của những tay trọc phú ham lạc
thú, ít lí tưởng. Việc mở ra tòa báo hay tiệm
khiêu vũ của vợ chồng Vinh là một sự nổi
loạn nửa vời, nông nổi, tùy hứng của giới
trọc phú trong xã hội lúc bấy giờ mà nhà
văn muốn phản ánh.

Trong những tác phẩm viết về con
người trong môi trường đô thị, nhà văn
cũng không quên dành những trang viết
cho những thắng cảnh của Hà thành, bởi vì
các địa danh hiện lên gắn liền với những
cuộc đi chơi của các nam thanh nữ tú, họ là
những trí thức, những nữ sinh, những cô
gái mới có tư tưởng tiến bộ học trường

Pháp - Việt với những lần dạo bộ quanh
hồ Gươm, hay đi chơi chùa Láng, chùa
Thầy (Em là gái bên song cửa). Đời sống
của những nam thanh nữ tú kiểu mới, học
trường Pháp - Việt, đọc những tác phẩm
mới nhất của văn chương Pháp, hát những
bài hát của Tây, nói chuyện với nhau bằng
tiếng Pháp, gặp gỡ nhau tại những nhà
vườn rộng rãi, đến với tình yêu như những
kẻ hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc,
ngăn cấm (trong Huế một buổi chiều) đã
cho người đọc một góc nhìn về cuộc sống
của một bộ phận giới trẻ ở những năm đầu
thế kỷ XX.
Như vậy, ở các tác phẩm thời kì này,
ta được gặp một thế giới nhân vật là những
con người của cuộc sống đời thường giản
dị, gần gũi, thân thuộc nhưng cũng không
kém phần mới mẻ. Những con người đó
được đặt trong mối quan hệ với gia đình,
họ hàng, xã hội, trong “cái hằng ngày” mà

ta vẫn thường gặp. Từ đó độc giả thấy
được khả năng cảm nhận và tái hiện nhịp
sống thời đại của nhà văn rất rõ.
2.2. Bên cạnh đề tài những nhân vật
sống trong môi trường đô thị, Lưu Trọng
Lư khác với nhiều cây bút lãng mạn cùng
thời là ông rất chú ý tới những kẻ thất cơ lỡ
vận, sa chân vào cảnh đời trụy lạc.
Khai thác đề tài từ đối tượng xã hội
này là việc thường làm của các nhà văn
lãng mạn Pháp nói riêng và các nhà văn
sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn nói
chung. Ngay ở Việt Nam, nhiều nhà văn
thuộc Tự Lực văn đoàn như Nhất Linh,
Khái Hưng, Thạch Lam đã có những tác
phẩm nổi tiếng viết về những kẻ sa chân lỡ
bước. Nguyễn Tuân với Vang bóng một
thời cũng dựng lên sống động hình ảnh của
những kẻ sống lạc thời, bất đắc chí và
thường ôm những hoài niệm về dĩ vãng. Rõ
ràng, việc Lưu Trọng Lư quan tâm miêu tả
49


VỀ M T SỐ ĐỀ TÀI NỔI BẬT TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ THỜI KÌ TRƯỚC 1945

cuộc sống của những con người lỡ vận đã
cho thấy ông thực sự là một nhà lãng mạn
chủ nghĩa. Chính tâm thức lãng mạn chứ
không phải cái gì khác đã khiến ông tìm

đến đề tài mang tính đặc thù này.
Khác với những nhà văn cùng thời là
họ nhìn hiện tượng mại dâm chủ yếu ở
phương diện sự tha hóa xã hội, còn Lưu
Trọng Lư lại chú trọng vào hoàn cảnh đẩy
đưa, vào phương diện cá nhân cụ thể của
những phụ nữ sa cơ lỡ bước. Không ngẫu
nhiên ông chọn mấy trường hợp những “cô
lái đò sông Hương” - những gái bán hoa như họ vốn là con quan gặp nạn như Lan
trong Gió cây trút lá. Thậm chí vốn là công
chúa của vương triều (Nàng công chúa
Huế). Ông không chỉ nhìn thấy số kiếp
“sống làm vợ khắp người ta” của nhân vật,
mà còn nhận ra, đôi khi một cách nghịch
lý, nét nghệ sĩ tài hoa cùng tâm hồn thanh
khiết, khát vọng tự do của họ; đây là thứ tự
do cá nhân, tự do nhân cách, nó tương phản
với tình cảnh trụy lạc mà nhân vật lâm vào,
nó cho thấy Lưu Trọng Lư nhấn vào nét bi
kịch trong tâm hồn nhân vật hơn là vào
trạng thái trụy lạc thảm hại.
Nàng công chúa Huế lồng ghép hai
câu chuyện. Câu chuyện về gia đình mình
do chính Liên Hing kể. Và câu chuyện
Liêng Hing gặp cô kĩ nữ trên sông Hương nàng công chúa Huế. Liên Hing cưới công
chúa làm vợ. Hai người lại sống những
ngày ăn chơi quá độ ở Huế. Khi vào đất Sài
thành, thời gian đầu, hai người trắng tay,
họ sống cuộc sống cơ hàn: “Tôi về đến
nhà, tôi thấy công chúa đang ngồi vá tấm

áo rách của tôi” [5, 664]. Nhờ buôn bán
quế, hai vợ chồng lại giàu có. Sự giàu có,
thừa thãi về vật chất khiến cho nàng công
chúa Huế nhiễm thói cờ bạc. Bao nhiêu của
cải cũng dần ra đi. Không chịu được, Liêng
Hing đã xúc phạm nàng, xúc phạm tới cha

nàng - vị vua đang ẩn náu ở một hòn đảo
xa xôi. Công chúa ra đi. Bước đường cùng
nàng lại dấn thân vào cuộc đời giang hồ
trụy lạc lần thứ hai.
Lan trong Gió cây trút lá vốn là con
một ông quan huyện, sa cơ lỡ bước cô dấn
thân làm gái giang hồ trên sông Hương.
Được Hải, một người làm nghề y chữa
bệnh cho Lan, hai người đã sống chung với
nhau như vợ chồng. Nghe lời tâm sự của
Hải với quan phủ doãn (Cha của Hải), Lan
lặng lẽ ra đi sau khi viết một bức thư để lại
cho Hải. Cô chết vì bệnh thổ huyết. Một cô
gái giang hồ tài hoa, tâm hồn thanh khiết,
là một gái mới thích đọc tiểu thuyết, say
mê truyện Rômêô và Juliet như Lan vì lỡ
vận mà phải dấn thân làm gái giang hồ.
Ngòi bút Lưu Trọng Lư không coi thường,
rẻ rúng những mảnh đời như Lan, ngược
lại ông đồng cảm, xót thương và nhìn thấy
trong tâm hồn những cô gái lâm vào hoàn
cảnh trụy lạc những nét trong trẻo, tài hoa
đáng thương hơn đáng giận, đáng lên án.

2.3. Ngoài khả năng tái hiện khái quát
đề tài cuộc sống của con người trong xã hội
lúc bấy giờ; ở mảng văn xuôi tự sự của
Lưu Trọng Lư còn có những kí ức về tuổi
thơ, về bản thân, về gia đình tác giả thường
xuyên được sử dụng.
Kỷ niệm riêng tư không phải là đề tài
riêng của văn học lãng mạn hay những tác
phẩm viết theo khuynh hướng lãng mạn
chủ nghĩa. Nhưng phải nhận rằng ở loại
hình sáng tác này, đề tài kỷ niệm riêng tư
được đặc biệt ưa thích và có những điểm
nhấn đặc thù. Ở mảng văn xuôi tự sự của
Lưu Trọng Lư, những kí ức về tuổi thơ, về
bản thân, về gia đình tác giả thường xuyên
được sử dụng.
Bến cũ là câu chuyện tình trắc trở bởi
bản thân người trong cuộc không thể vượt
qua rào cản của tôn giáo, để có kết cục đau
50


HỒ THỊ THANH THỦY

Trong Chiếc cáng xanh là câu chuyện
hư cấu nhưng dựa sát vào kí ức tuổi thơ
nhà văn. Có khi, ông đã tách ra khỏi đời
sống xung quanh để tự bộc lộ. Kỉ niệm
chuyến về quê ngoại, những kỉ niệm về mẹ
- người mẹ tảo tần, một đời vì chồng, vì

con. Những yếu tố tự truyện - tức những
dữ liệu về bản thân, về tuổi thơ, về gia đình
tác giả, thường xuyên được sử dụng. Ở đây
như có sự nuối tiếc một thời đã xa, một
thời vang bóng; đó là sự hồi tưởng cuộc
sống êm đềm của quê hương, trong vòng
tay yêu thương của người mẹ suốt một đời
tần tảo.
3. Kết luận
Vốn là một nhà thơ lãng mạn, sang
lĩnh vực văn xuôi, Lưu Trọng Lư tiếp tục
hướng ngòi bút về sự lãng mạn trong việc
lựa chọn đề tài. Tác giả tập trung tái hiện
con người trong môi trường đô thị để cảm
nhận và biểu hiện đời sống đương thời, đặc
biệt là đời sống của những người cùng
sống chung bầu không khí với ông được tái
hiện khá toàn diện. Việc Lưu Trọng Lư
quan tâm miêu tả cuộc sống của những con
người lỡ vận đã cho thấy ông thực sự là
một nhà lãng mạn chủ nghĩa, chính tâm
thức lãng mạn chứ không phải cái gì khác
đã khiến ông tìm đến đề tài mang tính đặc
thù này. Kỷ niệm riêng tư không phải là đề
tài riêng của văn học lãng mạn hay những
tác phẩm viết theo khuynh hướng lãng mạn
chủ nghĩa. Nhưng phải nhận rằng ở loại
hình sáng tác này, đề tài kỷ niệm riêng tư
được đặc biệt ưa thích và có những điểm
nhấn đặc thù; do vậy, ở mảng văn xuôi tự

sự của Lưu Trọng Lư, những kí ức về tuổi
thơ, về bản thân, về gia đình tác giả thường
xuyên được sử dụng. Có thể khẳng định
Lưu Trọng Lư không chỉ là nhà Thơ mới
nổi tiếng mà còn là một cây bút văn xuôi
với những đóng góp đáng ghi nhận cho văn

buồn và chính bản thân họ, Thiệu và
Quỳnh - trở thành người thất bại. Ở tiểu
thuyết Bến cũ ta bắt gặp những kí ức của
tuổi thơ tác giả, những kí ức về gia đình, về
cha, mẹ được nhà văn sử dụng như chất
liệu cho tác phẩm hư cấu. Đó là câu chuyện
về gia đình: cha từ quan về vườn; mẹ trước
mất, để lại bầy con thơ; lần theo dòng kí ức
là những hồi tưởng xúc động về người mẹ
của nhân vật tôi. Những kí ức về gia đình
như vậy đã được tác giả đưa vào trong tác
phẩm. Những lần chèo thuyền, giong buồm
về quê ngoại lầy thóc lúa, Thiệu (nhân vật
tôi) được cha cho xuống buồm ghé bến
Thanh Lăng - bến của những người dân
theo đạo Thiên chúa, nhờ đó mà Thiệu đã
gặp Quỳnh - con gái ông Huấn đạọ. Năm
nào cũng ghé thăm, giữa hai người đã có
tình cảm gắn kết từ tuổi thơ.Từ kỉ niệm
tuổi thơ đó, tác giả đã viết nên một câu
chuyện tình bất thành.
Những kí ức của gia đình, dòng tộc
một lần nữa được Lưu Trọng Lư sử dụng

trong tiểu thuyết Dòng họ. Đây: “được coi
như một cuốn tiểu luận kiêm hồi ức về gia
đình và quê hương tác giả” [5, 1081]. Là
cuốn tiểu luận nhưng không chỉ có những
triết lí, những lập luận mà thấm đượm
những lời mượt mà, đầy chất thơ. Thời thơ
ấu của tác giả được tái hiện khá đầy đủ
trong tác phẩm này. Và tác giả tự nhận
mình là người chép sử: “Người chép sử - vì
tôi cũng có quyền xem mình như một nhà
chép sử” [5, 1107]. Bắt đầu từ khi ông biết
nhận thức, và biết buồn, biết đau nỗi đau
của người lớn. Từ lúc tác giả đi học chữ
Hán cho đến lúc được chuyển tới học ở
trường Tây. Rồi những hồi ức về cha, mẹ,
ông ngoại, Mệ ngoại, các anh em, những
tình bạn thời tuổi thơ, về quê hương… đều
được Lưu Trọng Lư đư vào trong tác phẩm
như đối tượng của trần thuật.
51


VỀ M T SỐ ĐỀ TÀI NỔI BẬT TRONG VĂN XUÔI TỰ SỰ LƯU TRỌNG LƯ THỜI KÌ TRƯỚC 1945

xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.

ngắn, tiểu thuyết, tập 1 (Lại Nguyên Ân Hoàng Minh sưu tầm, biên soạn), Nxb Lao
động - Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông
Tây, Hà Nội.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn
học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

5. Lưu Trọng Lư (2011), Tác phẩm - truyện
ngắn, tiểu thuyết, tập 2 (Lại Nguyên Ân Hoàng Minh sưu tầm, biên soạn), Nxb Lao
động - Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông
Tây, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (2011), “Văn xuôi tự sự Lưu
Trọng Lư”, Lưu Trọng Lư, tác phẩm - truyện
ngắn, tiểu thuyết, tập 1, Nxb Lao động - Trung
tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
3. Hà Minh Đức (1971), Nhà văn và tác phẩm,
Nxb Văn học, Hà Nội.

6. Trương Tửu (2007), Tuyển tập nghiên cứu
phê bình, Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa
- Ngôn ngữ Đông Tây.

4. Lưu Trọng Lư (2011), Tác phẩm - truyện

Ngày nhận bài: 17/02/2017

Biên tập xong: 15/3/2017

52

Duyệt đăng: 20/3/2017




×