Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tứ thơ lạ trong bài Xuất đô môn của Phan Châu Trinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (461.75 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 19 (44) - Tháng 8/2016

C
A strange poetic idea in Leaving the Capital by Phan Chau Trinh
guy n hong am
rường Đại học ư phạm Đại học Đ

ng

Nguyen Phong Nam, Assoc.Prof.,Ph.D.
The University of Da Nang – University of Education

Xuất đơ mơn l tác phẩm rất nổi tiếng của han Châu rinh ội dung b i thơ gắn liền với một sự kiện
quan trọng trong cuộc đời của ơng Qua thi phẩm n y lần đầu tiên người đọc bắt gặp một tứ thơ mới lạ
rất khác so với thi ca chữ Hán đương thời Đó l cảm hứng về dân tộc dân chủ v một quan niệm mới
mẻ hiện đại về đất nước dân tộc của han Châu rinh Chính điều n y đã góp phần l m nên nét độc
đáo mới lạ trong thơ ơng B i viết tập trung l m rõ một số vấn đề liên quan đến văn bản tác phẩm v
phân tích giá trị tư tưởng cùng giá trị nghệ thuật của b i thơ
: tứ thơ, Phan Châu Trinh, giá trị, nghệ thuật, tư tưởng.
Abstract
Leaving the Capital, a very famous poem by Phan Chau Trinh, is associated to an important incident of
his life. This poem has an unfamiliar poetic idea, conveying national democratic inspiration and modern
thinking about the country and the people. This poetic idea has not appeared in Vietnamese earlier
poems written in Sino characters, which makes his poem standing out. This article focuses on clarifying
a few issues related to the text of the poem, and explicating its artistic and ideological values.
Keywords: poetic idea, Phan Chau Trinh, stylistic value, ideological value.

1. rong số những b i thơ viết bằng
chữ Hán của han Châu rinh đã được


cơng bố Xuất đơ mơn l b i được truyền
tụng nhiều nhất B i thơ n y được giới
nghiên cứu quan tâm từ rất sớm bởi nhiều
lẽ hứ nhất nó gắn với một sự kiện quan
trọng trong tiểu sử han Châu Trinh - bị
kết án tử hình rồi phải chịu lưu đ y tận đảo
Cơn Lơn; thứ hai thi phẩm thể hiện rõ nhất
tính cách cứng cỏi bất khuất của han ây
Hồ trước cường quyền; v thứ ba lần đầu
tiên người đọc bắt gặp một tứ thơ mới lạ

rất khác so với thi ca chữ Hán đương thời
Bởi thế hơn một thế kỷ qua nhắc đến thơ
văn Cụ han l người ta liền nhớ đến Xuất
đơ mơn với câu thơ trứ danh: “ am nhi h
sự phạ Cơn Lơn” - lời “tun ngơn” tốt lộ
một cách đầy đủ dũng khí cũng như nỗi
niềm dân quốc của bậc chí sĩ
Trong Phan Châu Trinh tồn tập
( XB Đ
ng 2005) b i Xuất đơ mơn
[2 tr 152] được xếp v o phần thơ chữ Hán
thứ tự số 6 Dòng tiểu dẫn liền sau tiêu đề
có 4 chữ Trích Cơn Lơn thời; nội dung b i
3


thơ gồm 4 câu 28 chữ:
出都門
(謫 昆 崙 辰)


mới ra đảo B i thơ đã được Cụ Huỳnh
dùng để mở đầu cho cuốn Thi tù tùng
thoại. Nguyên tác của b i thơ được viết
bằng chữ Hán có bản dịch (thơ) ra chữ
quốc ngữ uy vậy đó không phải l di cảo
của han ây Hồ m l văn bản do Mính
Viên dựa trên hồi ức để biên soạn lại lúc
đã về sống ở đất liền Lý do l bởi khi tù
nhân được phóng thích thì mọi giấy tờ đều
bị cai ngục tịch thu hết Cũng vì thế m
tình trạng lầm lạc chữ nghĩa so với nguyên
văn l điều khó tránh.
2.1. V
ề phiê â
Trong Phan Châu Trinh toàn tập
( C
) văn bản b i Xuất đô môn có một
số chỗ bất hợp lý D nhận thấy nhất l
hiện tượng “vênh” ở khâu phiên âm chữ
Hán Cụ thể:
Ở câu thơ thứ 2 nguyên văn chữ Hán
ghi 慷 慨 悲 歌 舌 尚 存 được phiên
thành Khẳng khái bi ca thiệt thượng tồn.
Cách phiên âm n y khiến người đọc không
khỏi băn khoăn
Chữ Hán “khẳng” v “khảng” nghĩa
hoàn toàn khác nhau. Mặc dù mỗi chữ lại
có nhiều cách viết song không có dạng nào
gần nhau đến nỗi phải nhầm “tác” ra “tộ”

cả. uy vậy trong tiếng Việt từ khẳng khái
và khảng khái nghĩa lại như nhau; người
Việt gần như không phân biệt khi dùng hai
từ n y [3 tr 473 476] Chỉ có điều nếu đã
viết (慷 慨) như trong văn bản thì phải
phiên âm thành khảng khái.
Thực ra nếu chọn chữ Hán khả dĩ hợp
với văn cảnh thì cũng có thể dùng chữ
khẳng (掯). Thế nhưng chữ (掯) này lại
thường đi với chữ lặc (khẳng lặc - 掯勒),
mang nghĩa là đè nén, ngăn chặn, ép
buộc… Vả chăng xét bản Thi tù tùng thoại
(
) thì thấy Huỳnh húc Kháng dùng
chữ khảng. Vậy nên, thiết nghĩ câu 2 nên

纍纍鐵鎖出都門
慷慨悲歌舌尚存
國土沈淪民族瘁
男兒何事怕崑崙
Phiên âm:
Xuất đô môn
( rích Côn Lôn thời)
Luy luy thiết tỏa xuất đô môn
Khẳng khái bi ca thiệt thượng tồn
Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy
am nhi h sự phạ Côn Lôn?
Dịch nghĩa:
Ra khỏi cửa đô th nh
(Lúc đi đ y Côn Lôn)

Xiềng sắt vướng víu ra khỏi cửa đô
thành,
Buồn hát một cách khẳng khái lưỡi
vẫn còn
Đất nước chìm đắm dân tộc mòn mỏi
Con trai việc gì m sợ Côn Lôn?
Dịch thơ:
Xiềng gông c kệ biệt đô môn
Khẳng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn
Đất nước đắm chìm nòi giống mỏn
hân trai n o sợ cái Côn Lôn
(Huỳnh húc Kháng dịch 1951)
Mang xiềng nhẹ bước khỏi đô môn
Hăng hái hò reo lưỡi vẫn còn
Đất nước hãm chìm dân tộc héo
L m trai chi sá thứ Côn Lôn?
( han Khôi dịch)
.
B i thơ Xuất đô môn có số phận rất
đặc biệt heo lời của Mính Viên Huỳnh
húc Kháng thì đây l mấy vần khẩu
chiếm m
han Châu rinh ứng tác lúc
4


do của người chí sĩ trong việc bộc lộ nhiệt
huyết Câu thơ có thể “di n nghĩa” theo
nhiều hướng: Khảng khái ngâm nga (vì)
lưỡi vẫn còn; hoặc Lưỡi vẫn còn (nên/ có

thể) khảng khái ngâm nga…
Cũng câu thơ đó han Khôi dịch l
“Hăng hái hò reo lưỡi vẫn còn” Kể ra chữ
“hò reo” trong trường hợp n y có vẻ
“thoát” xa nguyên tác quá; rồi lại còn được
phụ trợ bởi từ “hăng hái” nữa thì đâu còn
“bi ca” như ý tác giả (?) hưng dù sao thì
nội dung chính của câu thơ trong cả hai
(bản dịch) cũng không quá khác biệt
Việc nhấn mạnh ý “lưỡi vẫn còn” ở cả
hai bản (Mính Viên han Khôi) chứng tỏ
vai trò nòng cốt của cụm từ n y trong câu.
Cho nên dù liên tưởng có thể hơi xa nhưng
cụm từ “lưỡi vẫn còn” cũng ít nhiều gợi
cho người đọc nhớ đến câu chuyện “cái
lưỡi” của rương ghi (thời Chiến Quốc)
hóm soạn giả sách Phan Châu Trinh
toàn tập khi dịch câu n y cũng lại dồn
trọng tâm v o hình tượng “cái lưỡi” Câu
thơ được tách th nh hai vế: khẳng khái bi
ca // thiệt thượng tồn ừ đó dịch th nh:
“Buồn hát một cách khẳng khái lưỡi vẫn
còn” Khi dịch “thiệt thượng tồn” th nh ra
lưỡi vẫn còn, thoạt trông nghĩa có vẻ
“sát” thế nhưng xét cả câu thì không ổn
Rõ r ng ở câu thơ thứ 2 n y người dịch
quá câu nệ v o chữ m lơi về nghĩa Vậy
nên “khẳng khái bi ca” m chuyển th nh
“buồn hát một cách khẳng khái” thì không
phù hợp Bởi bi ca (悲 歌) m hiểu l

“buồn hát ” thì không đúng Cấu trúc từ
loại v nhịp thơ trong trường hợp n y không
cho phép hiểu như vậy Theo chúng tôi,
mấu chốt vấn đề nằm ở cách hiểu bốn chữ
“khẳng khái ngâm nga”. Nên coi đây chỉ là
một lối di n đạt theo phương thức ẩn dụ, lối
nói hình tượng đặc trưng của thơ (cổ điển)

phiên thành ra Khảng khái bi ca thiệt
thượng tồn thì mới phù hợp.
2.2. Về cách dù g ừ ( hiế ỏa, già ỏa)
trong câu 1
ếu đối chiếu văn bản trong Phan
Châu Trinh toàn tập với bản của Mính
Viên Huỳnh húc Kháng trong Thi tù tùng
thoại thì ở câu 1 b i Xuất đô môn có chỗ
khác nhau về cách dùng từ ngữ:
- Luy luy thiết tỏa xuất đô môn 
Xiềng sắt vướng víu, ra khỏi cửa đô thành
( C
dịch nghĩa)
- Luy luy già tỏa xuất đô môn  Xiềng
gông cà kệ xuất đô môn (
dịch thơ)
Chỗ khác ở đây thuộc về nghĩa cảnh
huống (meaning situation) chứ không phải
nghĩa của từ Vốn dĩ từ “thiết tỏa” (鐵 鎖)
chỉ (một) thứ l cái xiềng (hoặc vòng,
xích…) bằng sắt; còn “gi tỏa” (枷 鎖) chỉ
(hai) thứ l cái “gi ” (tức cái gông đeo cổ)

và cái “tỏa” (cái xiềng xích chân, tay). Do
đó thiết tỏa m dịch xiềng sắt l quá đúng
cũng như già tỏa dịch ra xiềng gông thì
không còn gì để b n Vấn đề ở chỗ nên
chọn chữ n o dùng trong câu n y l đích
đáng hơn cả (!)
Theo chúng tôi trong cảnh huống cụ
thể n y thì chữ già tỏa có vẻ “đắt” hơn
gười tử tù han Châu rinh trong mắt
chính quyền thực dân phong kiến l “tội đồ
nguy hiểm” nên chi bị lính áp đi với cả
xiềng xích lẫn gông cùm l hợp lẽ hơn
2.3. Về dịch ghĩa
ừ trước đến nay khi đọc các bản dịch
bài Xuất đô môn điều khiến người đọc
phân vân hơn cả nằm ở câu thứ 2 (慷 慨
悲 歌 舌 尚 存), Khảng khái bi ca thiệt
thượng tồn. Câu này, Huỳnh Thúc Kháng
dịch l “Khảng khái ngâm nga lưỡi vẫn
còn” Khi dịch như vậy dường như Cụ
Huỳnh muốn nhấn mạnh đến ý thức (về) tự
5


hơn l phép tả thực V do đó khó có thể
hình dung “bi ca” như l một hành vi cụ thể,
có thật của chủ thể trữ tình trong b i thơ.
Dường như trong b i thơ n y han
Châu rinh đã mượn câu chữ của cổ nhân
để di n tả về cảnh huống trớ trêu của mình.

hơ cổ có câu: “Khẳng đương dĩ khái bi
kế dĩ ca” ý muốn nói đến những nghịch lý
trong đời sống; khi bị dồn nén, uất ức thì
chí khí c ng cao trong bi thương lại có thể
ngâm ngợi; hoặc: “Khái đương dĩ khảng /
Ưu tư nan vong” nghĩa l càng than thở
thì càng uất ức/ nỗi ưu tư khó tiêu tan cũng
l ý như thế.
Thực ra trong thơ chữ Hán, Phan Châu
rinh dùng ý n y cũng không phải một lần
duy nhất. Có thể bắt gặp “khẳng khái bi
ca” trong b i Tặng Nguyễn Quý Anh Nhụ
Khanh (Nguy n Quý Anh là con trai của
Nguy n Thông). rong b i đề tặng này,
Phan Tây Hồ cảm khái: “Chí kim khảng
khái bi ca ý/ Yên Triệu lưu phong cố vị
suy” (至 今 慷 慨 悲 哥 意/ 燕 趙 流 風
故 未 衰); gô Đức Kế dịch (thơ): Giọng
ca khảng khái nghe đâu đó/ Yên Triệu ngày
nay chẳng khác nào [2, tr.173]. Cách di n
đạt của Phan Tây Hồ trong trường hợp này
cũng tương tự như ở bài Xuất đô môn.
hư vậy, có thể thấy họ han đã mượn
câu chữ có s n tĩnh lược đi để tạo ra cụm
từ “khảng khái bi ca” v dùng như một
thành ngữ Vì l “th nh ngữ” cho nên
nghĩa cụ thể của các yếu tố trong đó không
còn giữ nguyên. Và từ đó suy ra “khảng
khái bi ca” không phải “buồn” “hát một
cách khảng khái” Cả bốn từ này góp lại

nhằm biểu đạt trạng thái cảm xúc trong
một cảnh huống đặc biệt của nh thơ
Về 3 chữ “thiệt thượng tồn” cũng có
thể hiểu theo một hướng khác so với các
bản dịch hiện đang được lưu h nh Khi

khẳng định “lưỡi vẫn còn” l nội dung cốt
lõi có vẻ như các dịch giả đã (bỏ qua)
không chú ý đến chữ thượng (尚). Trong
khi đây lại là một chữ có vai trò dẫn nghĩa
của cả ngữ đoạn. Xét nghĩa gốc của từ, chữ
này có thể biểu đạt mấy nét nghĩa chính
như sau: thượng là (1) còn; (2) ngõ hầu; (3)
chuộng; (4) chủ Đặt trong ngữ cảnh, nếu
dùng với nghĩa l còn lại, không mất (1) thì
sẽ trùng lặp với chữ “tồn” rường hợp này
xem ra không cần thiết phải dùng (điệp)
đến hai chữ cùng nghĩa
ếu dùng với
nghĩa ưa chuộng, sùng thượng (3) hoặc
chủ, vai chính (4) thì lại không rõ ý. Cho
nên chỉ với nghĩa l ngõ hầu, hình như (2)
thì thượng (尚) mới có ý và tỏ ra hợp lý
hơn cả Điều tác giả muốn thể hiện ở đây
theo chúng tôi không phải l “lưỡi” vẫn
đang ở đúng chỗ của nó (không mất); mà là
một điều gì đó (thuộc về/ của/ từ nơi
“lưỡi”) vẫn còn. Vậy điều gì khiến tác giả
cảm nhận thấy ngõ hầu còn lại (thượng
tồn)? Câu trả lời thực ra cũng đơn giản:

Đấy chính l dư âm của “khẩu tru bút phạt”
đối với kẻ thù vẫn “thượng tồn” chưa tan
chưa dứt hư thế, câu này có thể dịch: Tấc
lưỡi dường như vẫn chưa dứt lời ca bi
tráng, hoặc: “Khúc ca bi tráng cơ hồ còn
chất chứa nơi đầu lưỡi”
hực trạng văn bản b i Xuất đô môn
vốn dĩ rất phức tạp Mấy điều b n thêm (có
hơi dông d i) về chữ nghĩa n y chẳng qua
cũng l suy đoán đặng góp phần thấu hiểu
đầy đủ thỏa đáng hơn tác phẩm của han
Châu Trinh.
3. hư trên đã nói b i Xuất đô môn
được ra đời ở một thời điểm rất đặc biệt
trong cuộc đời han Châu rinh
ăm
1908 l năm hoạt động sôi nổi của ông với
những chuyến rong ruổi v o am ra Bắc vì
công cuộc duy tân hong tr o đang lên thì
6


tháng 4 năm 1908 ông bị nh cầm quyền
bắt giữ tại H ội vì lý do chủ mưu phong
tr o chống thuế của dân rung Kỳ rồi bị di
lý v o Huế để xét xử ại phiên tòa n y
trước Hội đồng cơ mật gồm đủ quan háp
v
am triều đáp lại cáo trạng của tòa
han Châu rinh đã tự mình đưa ra lời b o

chữa
heo ông dân chúng đấu tranh
chống xâu thuế l do bị chính quyền đẩy
v o thế cùng không còn đường sống
gười dân ho n to n vô tội vì họ đòi hỏi
chính đáng; bản thân ông lại c ng không có
tội han Châu rinh vạch rõ phiên tòa n y
l vô lý lời buộc tội l vu cáo Ông vạch
mặt những kẻ cầm quyền gian xảo “đã
không biết tội thì chớ lại đổ cho người
khác” (Phan Tây Hồ tiên sinh lược sử,
Huỳnh húc Kháng)
hiên tòa khép lại với một bản án hết
sức nặng nề d nh cho nh chí sĩ: trảm giam
hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên
(tội phải chết chém nhưng chước bớt để
giam đ y xa ba ng n dặm không được ân
xá) Án được tuyên v bị cáo phải lập tức
thi h nh không được quyền kháng án uy
vậy chính ông mới l người gi nh phần
chủ động phần thắng hững lời biện luận
sắc sảo chặt chẽ đanh thép nơi tòa đã
“hoán đổi” vị thế của ông từ bị cáo đã trở
th nh người phán quyết
hưng dù sao
ông vẫn đang phải đối diện với thực tế
ngục tù cấm cố Vị hó bảng nguyên l
hừa biện L Bộ am triều han Châu
rinh rời khỏi đô môn trong vai người tử tù
với gông mộc trên cổ xích sắt khóa tay v

một tương lai u ám hực tế trớ trêu ở chỗ
người trung nghĩa lại bị chính những kẻ có
tội với dân tộc đắc tội với đồng b o kết án
Hai câu: Luy luy thiết tỏa xuất đô môn/
Khảng khái bi ca thiệt thượng tồn dù toát
lên vẻ đĩnh đạc tự tin thế nhưng nỗi niềm
bi tráng bi phẫn bi ưu l điều khó giấu

ứ thơ lạ xuất hiện ở hai câu cuối:
Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy/ Nam nhi
hà sự phạ Côn Lôn. Cái lạ trước hết do
cách lập ý vừa như so sánh lại vừa như cật
vấn o sánh nỗi chung - riêng tự vấn bản
thân m cũng như hỏi nhắn đồng b o đồng
chí Câu thơ gợi ra nhiều suy tưởng: Đất
nước đang đắm chìm (trong cảnh nô lệ)
dân tộc mỏi mòn (vì bị áp bức bòn hút)
mới l họa lớn chứ tai ách một người
(chung thân tù ngục nơi Côn Lôn) thì có
thấm gì (!) Đưa cái thảm trạng dân tộc l m
“chuẩn” để đối lập coi khinh nỗi gian
truân của bản thân l một cách lập luận
tòng lai hiếm thấy Đó cũng chính l cảm
hứng “khảng khái bi ca” vậy
hơ chữ Hán của han Châu rinh
hầu như b i n o cũng đều xoay quanh
chuyện tổ quốc đều ẩn hiện khái niệm
“Đất ước” Ông dùng rất nhiều danh từ
có cùng một gốc nghĩa (cố quốc, giang
sơn, giang hà, sơn hà, quốc thổ, quốc

thế, ) chỉ để di n đạt một nỗi niềm Đó l
những hình tượng: Cố quốc di dư nguyên
đán hảo (Kinh thành nguyên đán); Biến
phỏng thiên nhiên cố quốc hồn (Bắc du
cảm thành); iang sơn vô lệ khấp anh
hùng (Chí thành thông thánh); Cẩm tú
giang sơn vọng nhãn hồ (Giáp Thìn kinh
thành cụ phong); Bi tai quốc thế nguy
huyên phát (Điếu Thủ khoa Huân); ơn h
liên thốn kim (Hoàn Vương miếu)… V ở
bài này (Xuất đô môn) l “quốc thổ” Dùng
chữ quốc thổ (國土) ở đây l có ý nhấn
mạnh đất đai cương vực của chung giống
nòi chứ không phải của riêng ho ng tộc
điều m ông đã nhiều lần nói rõ trong các
luận văn
Cái lạ còn bởi một quan niệm mới mẻ
hiện đại về đất nước dân tộc v những
di n biến trong tình cảm ái quốc ái quần
của han Châu rinh hơ ông tuy cũng
7


nói đến ưu quốc, thương sinh nhưng rõ
r ng đó không phải l hệ quả của lòng
“trung quân ái quốc”; cũng vẫn l ái dân
song không chỉ l chuyện bần h n cơm áo
Cốt lõi ở đây l dân tộc, dân chủ - điều khá
xa lạ với nhận thức của nh
ho truyền

thống Có thể thấy l mặc dù vẫn dùng
những hình tượng những cách di n đạt
quen thuộc cổ điển song về tư tưởng nhận
thức về cảm hứng ý tứ thơ thì đã khác rất
nhiều D thấy “ái quốc” trong quan niệm
của han Châu rinh chẳng mấy liên quan

Ngày nhận bài: 14/7/2016

đến ho ng tộc vương triều m lại gắn trực
tiếp với dân tộc nhân dân Chính tư tưởng
đó đã góp phần l m nên nét độc đáo mới
lạ trong thơ ông
ÀI IỆU

ẢO

gô Đức Kế (1927) Phan Tây Hồ di thảo,
xb Chân hương H ội
2. Ho ng hê (chủ biên 1998) Từ điển tiếng
Việt xb Đ
ng
3. Phan Châu Trinh toàn tập (tập 1 2005)
xb Đ
ng
4. Mính Viên (1951), Thi tù tùng thoại,
Nxb Nam Cường, Sài Gòn.
1.

Biên tập xong: 15/8/2016


8

Duyệt đăng: 20/8/2016



×