Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu luận tư tưởng dân chủ tư sản của Phan Châu Trinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.56 KB, 35 trang )

Mở đầu:
Trong phong traò yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, Phan Châu
Trinh đã nổi lên như một trong những vị lãnh tụ,một ngôi sao có tinh thần
cách mạng sáng chói nhất trong sự nghiệp cách mạng cứu nước của dân tộc
Việt Nam.
Xét trong bối cảnh đất nước lúc bấy giờ, khi các phong trào đấu tranh
dưới ngọn cờ phong kiến ( phong trào Cần Vương 1883 – 1896)đã hoàn
toàn bị dập tắt và thực dân Pháp đã tiến hành xong cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất để thực hiện mục tiêu vơ vét,bóc lột của kẻ đi xâm lược,các
phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam cũng không hề suy đổi. Tuy
nhiên, trong phong trào yêu nước lúc này cũng đã có những thay đổi với một
khuynh hướng mới. Sau sự thất bại của phong trào Cần Vương, những người
yêu nước Việt Nam ý thức được rằng con đường đấu tranh phong kiến đã
không còn phù hợp nữa, không còn ai nghĩ đến cảnh “quốc phá gia phong”
và họ đều nhận thức được rằng cần có sự cải cách, duy tân đất nước. Chính
bối cảnh trong nước và nhận thức của con người như vậy, nó đã đặt ra một
yêu cầu bức thiết trong xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX, đó là phải có một
cuộc cải cách ,đổi mới về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội và đời sống thì
mới mong giành lại được độc lập cho dân tộc. Và, đồng thời, nó cũng đặt ra
một yêu cầu khách quan là phải kết hợp duy tân và đấu tranh giải phóng đất
nước. Yêu cầu này đã sớm được những trí thức nhạy cảm và có học thức
như Phan Thanh Giản,Phan Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ
Trạch,Trương Vĩnh Kí,… nhận thức được. Điều đó tạo ra một luồng tư
tưởng mới,một luồng gió mới trong phong trào yêu nước Việt Nam. Tuy
nhiên, khi tầng lớp sĩ phu trong nước nhiệt liệt hưởng ứng và thống nhất
được với nhau nhu cầu cần kết hợp giữa đấu tranh cứu nước với duy tân đất
1
nước thì giữa những người lãnh đạo, đề xuất ra lại bất đồng với nhau trong
việc phải tiến hành duy tân trước hay cứu nước trước.
Một số sĩ phu cho rằng cần phải khôi phục quốc gia dân tộc trước, độc
lập dân tộc chính là điều kiện tiên quyết để mở đường cho việc duy tân


thắng lợi. Đối với họ, nhiệm vụ cấp thiết,trước mắt của nhân dân ta lúc ấy là
phải đánh đổ ách thống trị của ngoại bang.
Một số lại cho rằng mục tiêu trước mắt của nhân dân Việt Nam lúc
này là vận động duy tân chứ chưa phải là đánh đuổi thực dân Pháp.
Và Phan Châu Trinh cùng quãng đời hoạt động cách mạng của ông
chính là đại diện tiêu biểu cho luồng ý kiến thứ 2,duy tân trước, lấy duy tân
là cở để đánh đuổi thực dân Pháp. Trong suốt quãng đời hoạt động cách
mạng của mình, Phan Châu Trinh luôn luôn kiên định với con đường duy tân
của mình. Kể từ khi ông từ trần ( từ 1926 đến nay), hơn 80 năm đã trôi
qua,đã có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về vị lãnh tụ yêu nước này.
Tích cực có,hạn chế có, và ngày nay, trong giới sử học đã dần đi đến thống
nhất về quan điểm khi đánh giá về ông.
Trên quan điểm khách quan và trên lập trường khoa học của chủ nghĩa
Mác – Lê nin, ngày nay, chúng ta cần có cái nhìn khách quan khi đánh giá
vai trò của Phan Châu Trinh trong phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỉ
XX. Đó là:
Chương 1: Con người và sự nghiệp:
1.1.Con người:
Phan Châu Trinh ( còn được gọi Phan Chu Trinh; hiệu là Tây Hồ, Hy
Mã , tự là Tử Cán). Ông là nhà thơ, nhà văn, và là chí sĩ thời cận đại trong
lịch sử Việt Nam.
2
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872, người làng Tây Lộc,
huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh),
tỉnh Quảng Nam.
Cha ông là Phan Văn Bình, làm chức Quản cơ sơn phòng, sau tham
gia phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm Chuyển vận sứ đồn A Bá (Tiên
Phước) phụ trách việc quân lương. Mẹ ông là Lê Thị Trung , con gái nhà
vọng tộc, thông thạo chữ Hán, ở làng Phú Lâm, huyện Tiên Phước.
Thân mẫu ông mất sớm vào năm ông lên 6 tuổi. Quê nhà bị quân Pháp

đốt cháy trong cuộc trấn áp phong trào Cần vương, nên ông phải theo cha,
được cha dạy chữ và dạy võ. Sau khi cha mất, ông trở về quê sống với anh là
Phan Văn Cừ và tiếp tục đi học. Ông nổi tiếng học giỏi, năm 27 tuổi, được
tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc
Kháng.
-Gia đình:
Vợ: Bà Lê Thị Tỵ (1877-1914), người làng An Sơn, Tiên Phước. Ông
bà cưới nhau năm 1896 và có với nhau 3 người con:
• , Lê Khâm (tức Phan Tứ), Lê Thị Sương, Lê Thị Chi và Lê Thị
Con trai: Phan Châu Dật (1897-1921)
• Con gái: Phan Thị Châu Liên (Sinh năm 1901), tục gọi là cô
Đậu, về sau gả cho Đốc học Lê Ấm (1897-1976).
• Cháu ngoại: Lê Thị Khoách, Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh),
Lê Thị LộcTrang
3
• Con gái: Phan Thị Châu Lan (1904-1944), tục gọi là cô Mè, về
sau gả cho Họa đồ Nguyễn Đồng Hợi.
• Cháu ngoại: Nguyễn Thị Châu Sa (tức Nguyễn Thị Bình),
Nguyễn Đông Hà, Nguyễn Đông Hải, Nguyễn Thị Châu Loan, Nguyễn
Đông Hồ và Nguyễn Đông Hào.
2.Sự nghiệp:
Khoa Canh Tý (1900), Phan Châu Trinh đỗ cử nhân thứ ba ở trường
Thừa Thiên. Năm sau (1901), triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng, đồng
khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Khoảng thời
gian này, người anh cả mất nên ông về để tang, ở nhà dạy học đến năm Quý
Mão (1903) thì được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ.
4
Vào Nam, ra Bắc, sang Nhật
Là người có học vấn, lại tiếp xúc với nhiều người có tư tưởng canh tân
và đọc được các tân thư, năm 1905, ông từ quan, rồi cùng với hai bạn học là

Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng (cả hai đều mới đỗ tiến sĩ năm 1904)
làm một cuộc Nam du, với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn
đồng chí hướng.
Đến Bình Định, gặp kỳ khảo hạch thường niên của tỉnh, ba ông lẩn
vào các khóa sinh. Vào trường thi, Phan Châu Trinh làm một bài thơ, còn
hai bạn thì làm chung một bài phú. Cả ba đều ký tên giả là Đào Mộng Giác.
Nội dung bài không theo đầu đề, mà chỉ kêu gọi sĩ tử đang đắm đuối trong
5
khoa trường và danh lợi, hãy tỉnh dậy lo giải phóng giống nòi khỏi cảnh lao
lung.
Các tỉnh quan Nam triều hoảng sợ, đem bài trình cho viên Công sứ
Pháp, đồng thời ra lệnh truy tìm tác giả, nhưng ba ông đã rời khỏi Bình
Định, tiếp tục đi vào các tỉnh phía Nam Trung Kỳ. Trên đường đi, ba ông lần
lượt kết giao với Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi và hai con
trai của danh sĩ Nguyễn Thông là Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh.
Sau cuộc Nam du, Phan Châu Trinh ra Nghệ-Tĩnh, Thanh Hóa, Hà
Nội để gặp gỡ và hội ý với các sĩ phu tiến bộ, rồi lên căn cứ Đề Thám quan
sát tình hình, nhưng thấy khó có thể tồn tại lâu dài.
Năm 1906, ông bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội
Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính
trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân
của xứ sở này.
Phát động phong trào Duy Tân
Mùa hè năm 1906, Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi
một bức chữ Hán (quen gọi là Đầu Pháp chính phủ thư) cho Toàn quyền
Jean Beau vạch trần chế độ phong kiến thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền
Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai
trị để giúp nhân dân Việt từng bước tiến lên văn minh.
Sau đó, với phương châm “tự lực khai hóa” và tư tưởng dân quyền,
Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh

Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của
6
phong trào lúc bấy giờ là: Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh. Phương
thức hoạt động của phong trào là bất bạo động, công khai hoạt động nhằm
khai hóa dân tộc, cải cách trên mọi lãnh vực, khuyến khích giáo dục bỏ lối
học từ chương, phát động phong trào học Quốc ngữ, mở mang công thương
nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, kêu gọi cắt tóc ngắn, cắt
ngắn móng tay,
Thời gian này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca, kêu gọi mọi người duy
tân theo hướng dân chủ tư sản như vừa lược kể.
Hưởng ứng, ở Quảng Nam và các tỉnh lân cận, nhiều trường học, thư
xã, thương hội, hội nghề nghiệp lần lượt được lập ra.
Tháng 7 năm 1907, Phan Châu Trinh nhận lời mời ra Hà Nội tham gia
diễn giảng mỗi tháng 2 kỳ ở Đông Kinh nghĩa thục
7
Bị giam lần thứ nhất
Tháng 3 năm 1908, phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ nổ ra, và bị
nhà cầm quyền Pháp sai quân đi đàn áp dữ dội. Phan Châu Trinh cùng nhiều
thành viên trong phong trào Duy Tân bị nhà cầm quyền buộc tội là đã khởi
xướng nên đều bị bắt.
Phan Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội, giải về Huế. Tòa Khâm sứ Huế và
Nam triều đều muốn khép ông vào tội chết. Nhưng nhờ sự can thiệp của
những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Hội Nhân quyền tại
Hà Nội, họ buộc lòng phải kết ông án “trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ
xá bất nguyên” (nghĩa là tội chém nhưng chỉ giam lại, đày xa ba ngàn dặm,
gặp ân xá cũng không cho về), rồi đày đi Côn Lôn ngày 4 tháng 4 năm 1908.
Nhờ dư luận trong nước và nhờ có sự vận động của Hội Nhân quyền
ngay trên đất Pháp, đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của
Toàn quyền Đông Dương ra Côn Lôn thẩm vấn riêng Phan Châu Trinh.
Tháng 8 năm đó, ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại

bản án cho ông được ân xá, nhưng buộc xuống Mỹ Tho chịu quản thúc. Ở
đây, ông làm nhiều bài thơ về các nhân vật tên tuổi của Nam Kỳ.
Bởi không hoạt động gì được, ông viết thư cho Toàn quyền Đông
Dương đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Lôn, nhất định không chịu cảnh
bị giam lỏng ở Mỹ Tho nữa. Vì vậy, nhân có nghị định ngày 31 tháng 10
năm 1908 của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại
Pháp, năm 1911, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông
Dương sang Pháp, có cả Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật.
8
Sang Pháp, bị giam lần thứ hai
Sang Pháp, việc đầu tiên của ông là đưa cho Hội Nhân quyền Pháp
bản điều trần về vụ trấn áp những người dân chống sưu thuế tại Trung Kỳ
năm 1908 (thường gọi là Trung Kỳ dân biến thủy mạt ký).
Sau đó, ông còn lên tiếng tố cáo tình trạng các tù nhân ở Côn Lôn bị
đối xử tồi tệ, và nhờ Liên minh cầm quyền, Đảng Xã hội Pháp can thiệp
nhằm giảm án cho các đồng chí của mình. Ông cũng đã tiếp xúc nhiều lần
với những nhân vật cao cấp ở Bộ Thuộc địa, với Albert Saurraut (sắp sang
nhậm chức Toàn quyền Đông Dương) để đưa ra những dự án cải tổ nền
chính trị ở Việt Nam nhưng không có kết quả, vì lúc này thế lực của thực
dân hãy còn đang mạnh. Trong khoản thời gian này, ông viết Pháp-Việt liên
hiệp hậu chi Tân Việt Nam.
Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Áo – Hung tuyên chiến với Serbia, mở
màn cho Thế chiến thứ nhất. Sau đó, ngày 3 tháng 8, Đức tuyên chiến với
Pháp. Nhân cơ hội này, nhà cầm quyền thủ đô Paris (Pháp) gọi Phan Châu
Trinh và Phan Văn Trường, một luật sư, nhà báo người Việt chống thực dân,
đi lính, nhưng hai ông phản đối do không phải là công dân Pháp. Mấy tháng
sau, chính quyền khép tội hai ông là gián điệp của Đức để bắt giam Phan
Văn Trường giam ở lao Cherchemidi và Phan Châu Trinh bị giam ngục
Santé Prison de la Santé kể từ tháng 9 năm 1914.
Do việc Phan Châu Trinh bị bắt giam nên trợ cấp giảng dạy của ông bị

cắt, con ông mất học bổng, phải vừa học vừa làm. Cũng trong năm này, vợ
ông là bà Lê Thị Tỵ qua đời ở quê nhà ngày 12 tháng 5 năm 1914.
9
Tháng 7 năm 1915, vì không đủ bằng chứng buộc tội, chính quyền
Pháp phải trả tự do cho hai ông sau nhiều tháng giam giữ. Sau khi ra tù,
Phan Châu Trinh đã soạn tuyển tập thơ Santé thi tập với hơn 200 bài thơ ông
sáng tác trong tù.
Ra tù, Phan Châu Trinh học nghề rửa ảnh rồi làm thuê cho các hiệu
chụp ảnh để kiếm sống. Trong hoàn cảnh chiến tranh, giá sinh hoạt đắt đỏ,
cảnh ngộ của hai cha con rất đỗi cơ cực. Chẳng lâu sau, Phan Châu Dật phải
bỏ học về nước vì bị lao ruột và qua đời tại Huế ngày 14 tháng 2 năm 1921,
được đem về an táng cạnh mộ mẹ tại Tây Lộc (Tiên Phước, Quảng Nam)
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, Phan Châu Trinh cùng với Phan Văn
Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn bản "Yêu sách của
nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là "Nguyễn Ái
Quốc", và đã gây được tiếng vang.
Năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo Marseille, ông
viết một bức thư dài buộc tội vua Khải Định 7 điều, quen gọi là Thất Điều
Trần hay Thư Thất Điều, khuyên vua về nước gấp, đừng làm nhục quốc thể.
Cũng trong năm này, ông viết bài Tỉnh Quốc hồn ca mới. Xuyên suốt tác
phẩm này vẫn là một đường lối cải cách dân chủ, vẫn là thực trạng tăm tối
của xã hội thực dân phong kiến và những thủ đoạn tàn bạo của chính sách
thuộc địa ở Việt Nam.
Thấy hoạt động ở Pháp không thu được kết quả gì, đã nhiều lần ông
yêu cầu chính phủ Pháp cho ông trở về quê hương, nhưng đều không được
chấp thuận. Mãi đến năm 1925, khi thấy sức khỏe ông đã suy yếu, nhà cầm
10
quyền Pháp mới cho phép ông về nước. Khoảng thời gian này, ông viết cuốn
Đông Dương chính trị luận.
Nhà Yêu Nước kiêm Tù Nhân Côn Ðảo Phan Châu Trinh. Ảnh chụp

năm 1911, ông Phan sang Pháp cùng với người con trai tên Phan Châu Dật.
Năm 1911, ông Phan 39 tuổi.
11
Về nước rồi qua đời
Ngày 29 tháng 5 năm 1925, Phan Châu Trinh cùng nhà cách mạng trẻ
Nguyễn An Ninh xuống tàu rời nước Pháp, đến ngày 26 tháng 6 cùng năm
thì về tới Sài Gòn. Sau đó, ông Ninh đưa ông về thẳng khách sạn Chiêu Nam
Lầu
[10]
của cha mình là ông Nguyễn An Khương. Ở đây mấy ngày, thì ông về
ở tại nhà riêng của ông Khương ở Mỹ Hòa
[11]
để tiện việc tiếp đón bạn bè
đến thăm và trao đổi công việc, đồng thời cũng để tiện cho ông Nguyễn An
Cư (chú của ông Ninh, một lương y nổi tiếng) chăm sóc sức khỏe.
Tuy bị bệnh nhưng Phan Châu Trinh cố gắng diễn thuyết thêm hai đề
tài là Ðạo đức và luân lý Đông Tây, Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa.
Hai bài này đã có tác động không nhỏ đến thế hệ trẻ tại Sài Gòn, trong đó có
Tạ Thu Thâu.
Đang lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh, thì hay tin ông
Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày
24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hôm đó, lúc 21 giờ 30, ông qua đời tại
khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường
Pellerin, Sài Gòn
[1]
.
(Chú thích: Nay là đường Pasteur.)
Một Ủy ban tổ chức lễ quốc táng chí sĩ Phan Châu Trinh gồm nhiều
thành viên là các nhân sĩ, trí thức đã được hình thành ngay trong đêm ông
qua đời gồm:

Chủ tịch:
12
• Bùi Quang Chiêu, Kỹ sư canh nông, Hội đồng quản hạt
Nam Kỳ.
Các ủy viên:
• Nguyễn Văn Thinh, Bác sĩ y khoa.
• Trần Văn Đôn , Bác sĩ y khoa, Hội đồng quản hạt Nam
Kỳ.
• Lê Quang Liêm , Đốc Phủ sứ.
• Nguyễn Phan Long, Chủ bút La Tribune Indochinoise,
Hội đồng quản hạt Nam Kỳ
• Trương Văn Bền , Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
• Nguyễn Tấn Được , Hội đồng quản hạt Nam Kỳ
• Võ Công Tồn , Hội đồng quản hạt Nam Kỳ
• Nguyễn Tấn Văn, Hội đồng thành phố Sài gòn.
• Trương Văn Công, Hội đồng thành phố Chợ Lớn.
• Nguyễn Kim Đính, Chủ nhiệm Đông Pháp thời báo.
• Trần Huy Liệu, Chủ bút Đông Pháp thời báo.
• Nguyễn Huỳnh Điểu, Hội viên Hội đồng Canh Nông Trà
Vinh.
• Nguyễn Dư Khánh, tự Khánh Ký, Nhiếp ảnh gia Sài
Gòn.
• Huỳnh Đình Điển, nhân sĩ Sài Gòn.
Hơn 6 vạn người dân đã đến Sài Gòn, không phân biệt chính trị, đảng
phái, tôn giáo tham dự, đã đưa linh cữu Phan Châu Trinh đến nghĩa trang
của hội Gò Công tương tế lúc 6 giờ sáng ngày 4 tháng 4 năm 1926.
13
“Ngày đi chôn, dân chúng sắp hàng dài đi dọc đường Pellerin, qua
Norodom, quẹo Paull Planchy đến Phú Nhuận rồi thẳng lên Tân Sơn Nhất.
Hàng chục ngàn người nghiêm trang, tay đeo băng tang xếp hàng đi, có

thanh niên của Đảng Jeune Annam giữ gìn trật tự suốt dọc đường. Một đám
tang lớn chưa từng có ở Sài Gòn, đám tang thể hiện sự giác ngộ của quần
chúng, đám tang là tấm lòng của đồng bào đối với nhà ái quốc suốt đời chỉ
nghĩ đến dân”.
Bất chấp sự ngăn cản của chính quyền thực dân, phong trào làm lễ
truy điệu Phan Châu Trinh được tổ chức rộng rãi ở khắp ba kỳ, trở thành
một sự kiện chính trị nổi bật lúc bấy giờ.
Khu mộ của ông hiện ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh và
được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, tên ông được dùng
để đặt tên cho nhiều đường phố và trường học trong khắp nước Việt Nam.
14
Hình ảnh về đám tang Phan Châu Trinh
Tác phẩm
• Ðầu Pháp chính phủ thư (1906)
• Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự (1907)
• Tây Hồ thi tập (tập hợp thơ làm trong nhiều năm)
• Tuồng Trưng Nữ Vương (soạn chung với Huỳnh Thúc
Kháng và Phan thúc Duyên năm 1910)
• Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký (1911)
• Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ, soạn trong tù tại
Pháp, 1915)
• Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua Khải Định, 1922)
• Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (hồm hơn 7.000 câu thơ lục bát,
soạn 1912-1913)
• Tỉnh quốc hồn ca I, II (phần I, làm khi ở Việt Nam
(1907), phần II, làm khi sang Pháp (1922). Đây là thơ hiệu triệu, thức
tỉnh đồng bào, tạo dân khí mạnh, đề cao dân quyền)
• Bức thư trả lời cho người học trò tên Ðông (1925)
• Đông Dương chính trị luận (1925)
Ngoài ra, ông còn có các bài diễn thuyết về Đạo đức và luân lý Đông

Tây, Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa, một số thơ (không nằm trong
Tây Hồ thi tập) và câu đối chữ Hán ông làm từ 1902-1912
Chương 2: Đánh giá vai trò của Phan Châu Trinh
trong phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX:
15
Nhận xét về vai trò của Phan Châu Trinh đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về
nhân vật lịch sử này. Chẳng hạn:
• Nhà sử học Phạm Văn Sơn:
“Chủ trương của Phan Châu Trinh là muốn thi hành một chính sách
cải lương cho dân tộc Việt Nam. Chính sách mày đòi hỏi ba điều căn bản, đó
là: "Khai thông dân trí, loại bỏ quan trường mục nát và tôn trọng dân
quyền" Nhưng nhờ vào ai để thi hành chủ trương trên đây? Ông nhờ Pháp
(ỷ Pháp cầu tiến bộ). Nhưng có bao giờ giai cấp bị trị lại nhờ được tầng lớp
thống trị cải thiện đời sống hay làm cách mạng cho mình?. Người Pháp từ
vạn dặm đến đây, đổ bao xương máu vì lợi ích riêng của họ. Sao ta lại có thể
đòi hỏi họ giúp ta giàu mạnh, khôn ngoan?Họ cần dân ta ngu hèn, quan lại
vong bổn mới có thể khai thác dân ta đến tận xương tủy chứ? Do đó, ta
thấy chủ trương của ông quả là không tưởng Về sau này, nhờ sống 15 năm
trên đất Pháp, ý thức cách mạng của ông đã tiến bộ nhiều qua bài diễn thuyết
về đề tài "Quân trị và dân trị" vào đêm 19 tháng 11 năm 1925 tại Sài Gòn.
Dù có những nhận định khác nhau về lập trường chính trị Phan Châu
Trinh, nhưng không ai không công nhận ông là một người có tư tưởng dân
chủ sớm hơn hết ở Việt Nam.
• GS. Huỳnh Lý:
Phan Châu Trinh là một con người hoạt động, một chí sĩ yêu nước
nồng nhiệt, dũng cảm, bất khuất, có đầu óc tổ chức và đầy sáng kiến, có
những chủ trương dứt khoát và mạnh bạo, như chủ trương cần phải lật đổ bộ
áy phong kiến chứ không thể dựa vào nó, cần phải nâng trình độ nhân dân
lên về mọi mặt: dân quyền, dân sinh, dân chủ, và muốn thế phải làm một
cuộc vận động “tự lực khai hóa” rộng lớn

16
Tuy nhiên, vào thời điểm lịch sử của ông, khi thế lực của chủ nghĩa
thực dân trên toàn cầu còn rất mạnh, việc ông yêu cầu hết chính phủ ở Đông
Dương đến chính khách tư sản ở Pháp, thực hiện cải cách chính trị trước sau
đều vấp phải trở lực…nên cuối cùng dẫn ông đến thất bại.
Về sáng tác thơ văn, Phan Châu Trinh đã góp phần vào việc thức tỉnh
nhân tâm, làm dấy lên phong trào yêu nước sôi nổi trong ba thập niên đầu
thế kỷ 20.
• Nhóm tác giả sách Đại cương cương lịch sử Việt Nam:
Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân
đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có
thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho
yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ 20.
Đặc biệt hơn nữa là con đường ông chọn là con đường dấn thân tranh
đấu nhưng ôn hòa, bất bạo động. Đây là điểm khác biệt chính giữa ông và
Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh xem vấn đề dân chủ còn cấp bách hơn độc
lập và tin rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ
để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Với tinh thần yêu nước nồng
nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian
khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ.
Qua những ý kiến nhận xét trên và xét đời hoạt động của Phan Chu
Trinh,ta thấy Phan Châu Trinh có những vai trò to lớn sau:
2.1.Phan Châu Trinh là người đã phát động và là lãnh tụ tối cao của
phong trào cải cách Duy Tân đầu thế kỉ XX ở Việt Nam :
Như chúng ta đã biết, Phong trào Duy Tân, Phong trào Duy Tân hay
Cuộc vận động Duy Tân (Gọi theo Đinh Xuân Lâm (sách đã dẫn, tr. 152).
đều là tên dùng để chỉ cuộc vận động cải cách duy tân ở miền Trung Việt
17
Nam, do Phan Châu Trinh (1872 - 1926) phát động năm 1906 cho đến năm
1908 thì kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn áp. Phong trào này đã có tác

dụng to lớn trong phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cuối năm 1904 Phan Chu Trinh bỏ việc làm ( từ quan ), rời Huế
không muốn vào lòn ra cúi. Chính phủ Nam triều có Vua và triều đình
nhưng chỉ đặt ra để thi hành những mệnh lệnh của chính phủ bảo hộ mà thôi,
chứ không có quyền hành gì cả, không làm quan có thì giờ giao du với các sĩ
phu yêu nước Phan Chu Trinh cùng hai người bạn thân là Hùynh Thúc
Kháng và Trần Quý Cáp, không làm quan để vinh thân phì gia chọn con
đường đấu tranh nhiều chông gai, dấn thân hoạt động trong Phong Trào Duy
Tân tại Quảng Nam.
Phong trào Duy Tân chủ trương bất bạo động, công khai hoạt động
nhằm khai hoá dân tộc, cải cách trên mọi lĩnh vực, khuyến khích giáo dục bỏ
lối học từ chương, truyền bá canh tân mở mang công thương nghiệp, chấn
hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, kêu goị cắt tóc ngắn, cắt móng tay, phát
động phong trào học chữ quốc ngữ.Cụ thể là:
Mặc dù rất đau xót trước cảnh thực dân Pháp ngược đãi người Việt
Nam, quan điểm của Phan Châu Trinh trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi
phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc (tức đánh đuổi Pháp), mà nhiệm
vụ cấp bách hàng đầu. Với các chủ trương chính “ khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh” :
• Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc
ngữ cùng kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.
• Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, mọi người giác ngộ
được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên chế.
18
• Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội
buôn, sản xuất hàng nội hóa
-Về trấn dân trí: mà cụ thể là trong giáo dục, Phong Trào Duy Tân
chống lại lối học từ chương " triều đình Huế vẫn duy trì lối học thi phú, từ
chương qua các loại sách như Tứ Thư : "Đại học, Trung dung, Luận ngữ,
Mạnh Tử " và Ngũ kinh cho đến năm 1913 bắt đầu cải cách, năm 1917 khóa

thi Hương cuối cùng chấm dứt chương trình học cổ điển !! ". Nếu chương
trình giáo dục không thay đổi khó có thể theo đời sống văn-minh, khoa-học,
kỷ-thuật Tây phương, người ta dùng kỷ nghệ nặng như đóng tàu, đúc
súng đem lại đời sống phồn thịnh và phát triển.
Để thực hiện chủ trương khai dân trí này, Phan Châu Trinh cùng 2
người bạn của mình là Hùynh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đã cùng nhau đi
vào miền Nam, tới Bình Định gặp quan tỉnh khảo học trò bài thơ "Chí Thành
Thông Thánh" và bài phú "Danh Sơn Lương Ngọc". Các Cụ cùng nhau thảo
tựa đề ; Phan Chu Trinh làm bài thơ " Chí Thành Thông Thánh " nói rõ về
thời sự để đánh thức học sinh và đồng bào đang ngủ quên:
(“Chí thành thông thánh: :
Việc đời ngoảnh lại thành không
Còn đâu giọt lụy non sông khóc người
Muôn dân luồn cúi tôi đòi
Văn chương bát cổ say hoài giấc mơ
Mặc ai chửi rủa tha hồ,
Xích xiềng này biết bao giờ tháo xong ?
Anh em còn chút máu nồng
Hãy đem văn ấy đọc cùng nhau nghe
( Á nam Trần Tuấn Khải dịch)
19
Các bài thơ, phú như tiếng sấm đánh xuống trường thi, tác dụng cảnh
tỉnh đám sĩ tử đang còn mê muội với văn chương thi phú, ham công danh
quên đất nước đang chìm trong vòng nô lệ. Cuộc vận động gây tiếng vang
trong giới trí thức và quần chúng. Chính quyền điạ phương truy lùng tác giả
các bài trên, nhưng các cụ đã đi xa vào tới Nha Trang, xem hạm đội Nga do
đô đốc Rojestvensky chỉ huy tạm thả neo chờ ngày cấp cưú Lữ Thuận (Lu
Shun). Ba người tới Phan Thiết gặp các ông Trương Gia Mô (1866-1930),
Hồ Tá Bang (1875-1943), Nguyễn Trọng Lôi ( ?—1911) cùng bàn chuyện
Duy Tân, thành lập công ty Liên Thành và mở trường Dục Anh

Không chỉ trấn dân trí về mặt giáo dục, Phan Châu Trinh còn khuyến
khích nhân dân bỏ lối sống cũ, thay đổi nếp sinh hoạt. Tại Quảng Nam các
thương hội dệt các thứ vải dày có thể may Âu phục. Cụ Phan đích thân làm
gương cắt may mặc bộ đồ tây bằng vải nội , hàng vải tơ lụa nội hóa được cải
tiến, làng Bảo An, Điện Bàn nổi tiếng dệt đẹp cần phát triển thủ công nghệ
để có thể cạnh tranh với tơ lụa nhập cảng,
-Hậu dân sinh: Để chăm lo đời sống nhân dân, Phan Châu Trinh và phong
trào duy Tân đã thực hiện nhiều chính sách khuyến khích phát triển kinh tế
theo lối mới.
Nông Hội phát triển lớn nhất tại Yến Nê, (Điện Bàn) rộng chừng 20 mẫu
nông hội nầy trồng khoai, sắn, bắp, cho trồng cây dương liễu theo hai bên bờ
sông còn lại một dấu tích cho đến ngày nay. Mỹ Sơn ( Duy Xuyên) rộng
khoảng 40 mẫu trồng hoa màu và cấy lúa, Bửu Sơn ( Đại Lộc) khai phá để
trồng lúa.
Về thương nghiệp cạnh tranh với thương gia Trung Hoa. Các thương hội có
tổ chức , phương pháp làm việc kết của tốt như thương hội Phong Thử
( Điện Bàn) do Phan Thúc Duyện trông coi, điạ điểm thuận lợi cho việc giao
thông bằng đường thủy ghe lớn có thể cập bến được, tấp nập người đến buôn
20
bán, Hội An thương cuộc do ông Bang Kỳ Lam phụ trách bán đủ loại sỉ và lẽ
vải, gạo, đường , quế, trên các món hang bày bán đều có định giá rỏ ràng
nhân viên lịch sự tiếp khách , Phú Lâm ( Tiên Phước) do Lê Cơ tổ chức
chương trình khuyến kích công thương nghiệp, là bước tiến đầu tiên tại
Quảng Nam từ từ ảnh hưởng đến thay đổi sinh hoạt Hà Nội và Sàigòn. Các
nhà nho tiến bộ tại Hà Nội đứng ra khuếch trương thương nghiệp là ông Đỗ
Chân Thiết mở hiệu Đồng Lợi Tế ở phố Mã Mây, mở tiệm thuốc Bắc Tụy
Phương ở phố Hàng Cỏ, Hoàng Tăng Bí mở hiệu Đông Thành Xương ở
Hàng Gai Tại sài gòn có Minh Tân Khách sạn của cụ Phủ Chiếu (3)
(3) Phong Trào Duy Tân, tác giả Nguyễn Văn Xuân
Phong Trào Duy Tân là cuộc cách mạng lớn trên mọi lĩnh vực đầu

Thế kỷ 20. Các trường dạy thêm chương trình chữ Quốc Ngữ lan rộng trên
khắp nẻo đường đất nước. Vua Thành Thái thường cải trang vi hành, nghe
và ảnh hưởng Phong Trào Duy Tân, cắt bỏ cục tóc trên đầu , các quan ngạc
nhiên lúc ngài ngự triều, nhà Vua tự làm gương đề xướng theo Duy Tân cải
cách sinh hoạt để thúc đẩy dân tiến. (4)
4/Thành Thái người điên thế kỷ tác giả Thái Vũ trang 236
-Ngoài ra, Phan châu Trinh còn tổ chức nhiều buổi diễn thuyết ở
nhiều nơi, nói về các đề tài liên quan đến vận động học mới, đả kích tư
tưởng, phong tục cổ hủ, đề cao dân chủ dân quyền. Rất nhiều nhà nho có uy
tín (các vị tiến sĩ, cử nhân, tú tài, các ông đốc học, giáo thụ, huấn đạo) tham
gia công việc này, gây một phong trào truyền bá tân học rất sôi nổi.
2.2.Phan Châu Trinh là người đã đề ra nhiều tư tưởng tiến bộ, góp phần
truyền bá và phát động một khuynh hướng mới – khuynh hướng Dân
chủ tư sản trong phong trào cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.
2.2.1.Phan Châu Trinh là người đi đầu trong chủ chương chống phong
kiến một cách triệt để:
21
Phan Chu Trinh là một nhà chính trị phản đối chế độ phong kiến rất
gắt gao. Trong thời cụ, cụ là người chống phong kiến triệt để nhất và cụ đã
hoạt động rất nhiều để đánh đổ chế độ phong kiến. Bức thư gửi Toàn quyền
Bộ, Thư thất điều trần, bài diễn thuyết về “ đạo đức, luân lý đông tây”, bài
diễn thuyết về “ chủ nghĩa quân trị và chủ nghĩa dân trị” là những văn kiện
chống phong kiến tới một trình độ khá cao. Đó là hệ thống tư tưởng chống
phong kiến ở Việt Nam đầy đủ nhất, cụ thể nhất hồi đầu thế kỷ XX.
-Phan Châu Trinh có tư tưởng chống đối quyết liệt với chế độ phong
kiến. Ông cho rằng chế độ phong kiến là rào cản Việt Nam tiến tới con
đường văn minh.
Trong khi làm thừa biện ở bộ Lễ, Phan Chu Trinh đã có dịp chứng
kiến sự thối nát, hẹn hạ của bọn vua quan nhà Nguyễn. Bản thân cụ lại bị
bọn quan lại Nam triều kết án tử hình, sau nhờ có sự can thiệp của Ernes

Babut đượ giảm xuống tù giam và phải đày đi Côn Đảo. Phan Chu Trinh đã
thấy vua quan nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, cụ lại chứng kiến việc
vua quan nhà Nguyễn làm tôi tớ trung thành cho thực dân Pháp, chúng vì
thực dân Pháp mà ra sức giết hại những người yêu nước và tiến bộ. Do đó,
cụ căm ghét, khinh bỉ bọn vua quan nhà Nguyễn đến cao độ. Bức thư của cụ
gửi cho toàn quyền Bô, bức thư cụ gửi cho Khải Định, bài diễn thuyết về “
đạo đức và luận lý đông tây”, bài diễn thuyết về “ chủ nghĩa quân trị và chủ
nghĩa dân trị” để nói lên rất đầy đủ thái độ của Phan Chu Trinh đối với bọn
vua quan nhà Nguyễn. Dưới con mắt Phan Chu Trinh, vua quan nhà Nguyễn
là nguồn gốc của vạn sự trong xã hội Việt Nam. Đó là những kẻ đã làm mất
nước Việt Nam, đó là những chướng ngại vật cho sự phát triển của xã hội
Việt Nam, đó là dống bùn nhơ của xã hội Việt Nam, đó là những cái ung
nhọt của cơ thể dân tộc Việt Nam. Điều kiện làm cho xã hội Việt Nam tiến
bộ là phải thủ tiêu chế độ vua quan.
22
Chế độ phong kiến là người làm cho nhân dân Việt Nam ngu hèn, đói
khổ suy ra chế độ phong kiến là một chướng bệnh nan y bất trị. Theo cụ,
muốn trị căn bệnh này không có cách gì khác là tư tưởng dân chủ tư sản ở
châu Âu. Dân chủ tư sản ở châu Âu là viên thuốc đắng để chữa bệnh đó.
Trong bức thư gửi toàn quyền Bônđume 1906, Phan Châu Trinh chủ yếu lên
án và vạch tội chế độ phong kiến. Ông cho rằng nguyên nhân của việc nhân
dân đói khổ là do tệ quan lại nhũng nhiễu, kể tội vua Khải Định và quan lại
nhà Nguyễn phong kiến ( Thất điều thư).
Ông có những lời hết sức cay nghiệt với Khải Định: là một điều sỉ
nhục đối với Việt Nam, chửi quan lại “ phường chó chết” và những lần kêu
gọi nhân dân lật đổ ngai vàng chuyên chế.
-Với thực dân Pháp:
Chưa bao giờ tố cáo trực diện và vạch trần tội ác của thực dân Pháp
mà chỉ coi thực dân Pháp là người gián tiếp làm nhân dân Việt Nam đói khổ
ngu hèn. Trong bức thư gửi Bônđume ba nguyên nhân ông đưa ra, trong đó

có hai nguyên nhân là thuộc về chế độ phong kiến còn một nguyên nhân: “
Sở dĩ nhân dân ta ngu hèn đói khổ là do không quản lý chặt chẽ quy luật
phong kiến, khinh rẻ nhân dân Việt Nam.”
Ông còn tỏ lòng cảm tạ người Pháp: Nhờ người Pháp mà mình được
sống thêm mấy chục năm nay.
 Ông bị chi phối bởi hai thái cực: một thái cực ông căm thù
trước đến trù dập ông, một ông mơ hồ thì lại nâng đỡ ông. Ông không coi
Pháp là kẻ thù vì:
+Muốn dựa vào Pháp nên không ý thức được đúng bản chất của Pháp,
phải dựa vào Pháp, yêu cầu Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự trị.
23
2.2.2. Phan Châu Trinh là người đầu tiên và kiên trì nhất trong các nhà
yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt vấn đề dân chủ lên làm nhiệm vụ hang
đầu của cách mạng Việt Nam.
Phan Chu Trinh là nhà chính trị khai sáng tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt
Nam. Chúng ta có thể chê trách cụ điều này, điều khác, nhưng chúng ta phải
công nhận rằng Phan Chu Trinh là nhà chính trị số một đã chiến đấu cho tư
tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam ( ở thời đại cụ Phan, tư tưởng dân chủ tư
sản còn có tác dụng tốt đối với xã hội).
Xét trong bối cảnh lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ, khi Việt Nam đang trong
cảnh xã hội phong kiến nửa thuộc địa, ông đã nhận ra được một trong hai
mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam. Nếu trước khi Pháp xâm lược, việt
Nam đang ở thời kì phong kiến , xã hội Việt Nam chỉ tồn tại một mâu thuẫn
duy nhất đó là mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến thì ngay từ
khi Pháp xâm lược Việt Nam cho đến khi thống trị, trong xã hội Việt Nam
còn nảy sinh thêm một mâu thuẫn mới, quan trọng đó là mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Đây là hai mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội thuộc địa, muốn hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân thì phải giải quyết hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trên. Tuy
nhiên, do nhận thức đương thời còn hạn chế, chưa ai trong xã hội phong kiến

nửa thuộc địa lúc bấy giờ có thể nhìn ra và gọi tên đầy đủ 2 nhiệm vụ trên.
Nếu như Phan Bội Châu - một chí sĩ cách mạng cùng thời Phan Châu Trinh
đã nhìn ra một mâu thuẫn cơ bản trong hai mâu thuẫn ấy ( mâu thuẫn dân
tộc) thì Phan Châu Trinh lại nhìn ra mâu thuẫn thứ hai đó là mâu thuẫn dân
chủ. Bởi vậy, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, ông luôn
nhằm mục tiêu giải quyết nhiệm vụ cách mạng trên.
Trong Tư tưởng lập hiến, ông đã đề ra một số chủ trương chính thể hiện tính
dân chủ sau:
-Ông cho rằng nước Việt Nam cần có Hiến pháp:
Trong tư tưởng cách mạng Phan Châu Trinh, ông thường đề cao hiến pháp,
coi đó là công cụ pháp lý để hạn chế quân quyền độc tôn và hà lạm của chế
độ quần chủ chuyên chế phương Đông. Ông nói: "lấy theo ý riêng một người
hay một triều đình mà trị một nước, thì cái nước ấy không khác gì một đoàn
chiên, được ấm no vui vẻ hay là phải đói lạnh khổ sở, là tuỳ theo lòng rộng
hay hẹp của người chăn chiên. Còn như theo cái chủ nghĩa dân trị, thì tự
24
quốc dân lập ra hiến pháp, luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo chung cho mọi
người "
Lấy mẫu mực là nền dân chủ ở nước Pháp lúc bấy giờ, ông phân tích quan
hệ giữa Tổng thống và Nghị viện đặt trên cơ sở Hiến pháp. Nguyễn Văn
Dương, Phan Châu Trinh tuyển tập, Nxb Đà Nẵng, 1995.
Chính Hiến pháp xây dựng và bảo vệ sự ổn định của chế độ dân chủ pháp
trị: "Khi Tổng thống đã được bầu cử rồi, thì phải thề trước hai viện ấy: "Cứ
giữ theo hiến pháp dân chủ, không phản bạn, không theo đảng này chống
đảng kia, cứ giữ công bình, nếu có làm bậy, thì dân nó truất ngay. Trước thì
có Macmahon, sau thì có Mil1erand bị cách chức cũng vì vi phạm hiến
pháp".
-Về chính trị:
Ông có ý định thiết lập ở Việt Nam một chế độ dân chủ tự trị. Tự trị nghĩa là
tách khỏi sự cai trị của thực dân Pháp. Trong Pháp - Việt liên hiệp hậu chi

tân Việt Nam, Phan Chu Trinh viết: 'Tôi đã chủ trương tự trị, tin cậy Pháp.
Đã muôn cậy Pháp ắt không lợi dung lòng dân oán Pháp (…). Tôi đã chủ
trương cậy Pháp thì thủ đoạn không thể do tự trị mà ra. Tự trị cũng chẳng là
việc dễ lắm đâu, việc hỏng ắt cũng chết…”


Phan Chu Trinh kịch liệt phản đối chế độ quân chủ mà ông gọi là "quân trị"
và đòi thực hiện chế độ cộng hoà tư sản mà ông gọi là "dân trị".
Ông giải thích "Quân trị chủ nghĩa tuy có pháp luật mặc lòng, nhưng cứ tự
tay ông vua lập ra, chứ còn dân thì chẳng biết gì hết. Vậy cho nên khi nào
gặp một ông vua thông minh, anh hùng, hiểu rõ cái sự quan hệ dân với nước
là thế nào mà trừng trị những cái lũ tham quan, lại nhũng để dân được yên
lặng làm ăn, thì dân giàu nước mạnh ”
6
. Ông cũng nói: "Nhân trị nghĩa là
cái phép luật thi hành rộng rãi hay là nghiêm ngặt là tuỳ theo cái lòng vui,
buồn, thương ghét của một ông vua mà thôi, còn pháp luật tuy có cũng như
không"
7
. Phan Chu Trinh cho rằng bên Châu Âu, người ta đã thực hành từ
lâu rồi chính thể "Quân dân cộng trị mà Tàu dịch là quân chủ lập hiến", tức
như chính thể "nước Anh, nước Bỉ, nước Nhật đang theo hiện nay"
8
.
So Sánh, ông khẳng định: " cái chủ nghĩa dân trị hơn cái chủ nghĩa quân trị
nhiều”
9
, bởi vì "theo cái chủ nghĩa dân trị, thì tự quốc dân lập ra hiến pháp,
luật lệ, đặt ra các cơ quan để lo việc chung mọi người. Lòng quốc dân muốn
thế nào thì được thế ấy "

10
. Năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp, Phan
25

×