Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp phát triển tổ chức dùng nước ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.49 KB, 7 trang )

KHOA HỌC

CÔNG NGHỆ

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRI ỂN
TỔ CHỨC DÙNG NƯỚC Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
PGS .TS . Trần Chí Trung, ThS . Trần Việt Dũng
Trung tâm PIM
Tóm tắt: Các tổ chức dùng nước ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng về loại hình,
hoạt động theo xu hướng xã hội hóa quản lý khai thác hệ thống thủy lợi nội đồng. Tuy nhiên,
hiệu quả quản lý hệ thống thủy lợi nội đồng của các tổ chức dùng nước còn thấp, thiếu bền vững.
Bài báo này đã phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của các tổ chức thủy nông cơ sở hiện
nay, từ đó đề xuất mô hình, cơ chế khuyến khích phát triển các tổ chức dùng nước quản lý hiệu
quả và bền vững hệ thống thủy lợi nội đồng ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Từ khóa: Tổ chức dùng nước, phí dịch vụ thủy lợi nội đồng.
Abstract: Water user organizations in Mekong Delta are diversified in terms of operation and
organizational forms adopting socialization trends in on-farm irrigation management. However,
the on-farm irrigation system management efficiency is low and the operation of water user
groups still have problems and are unsustainable. Based on the analysis of status of irrigation
management, this paper proposes models and machanism for promoting development of Water
User Organizations in the Mekong Delta.
Key words: Water user groups, on-farm irrigation fee
1. ĐẶT VẤN ĐỀ *
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)
gồm 13 tỉnh, thành phố có diện tích tự nhiên
2
39.747 km tương đương 12,25% so với diện
tích của cả nước, dân số 17.478,9 ngàn người
chiếm 19,48% dân số cả nước. Diện tích đất
nông nghiệp chiếm 64,2% (năm 2013) diện
tích tự nhiên của vùng và chiếm khoảng 25%


diện tích nông nghiệp cả nước. ĐBSCL luôn
đứng đầu về sản lượng lúa (55%) cũng như
giá trị sản xuất nông nghiệp trong cả nước.
M ột trong những yếu tố quan trọng để có
được những thành tựu này là hệ thống thủy
lợi đã được đầu tư mạnh mẽ trong thời gian
vừa qua, đặc biệt là những tuyến đê bao lớn,
đê bao tiểu vùng ngăn lũ. N goài ra, hệ thống
thủy lợi cũng được đầu tư nâng cấp, đảm bảo
việc điều tiết, tưới tiêu nước một cách chủ
Người phản biện: TS. Đặng Ngọc Hạnh
Ngày nhận bài: 28/10/2015
Ngày thông qua phản biện: 9/11/2015
Ngày duyệt đăng: 15/12/2015

động, kịp thời giúp tăng năng suất và s ản
lượng lúa trong vùng.
Hệ thống tổ chức quản lý khai thác công trình
thủy lợi tại các tỉnh vùng ĐBSCL có vai trò
quan trọng trong quản lý khai thác công trình
thủy lợi, góp phần duy trì và phát huy hiệu quả
hệ thống thủy lợi, phục vụ sản xuất nông
nghiệp và các ngành kinh tế khác. Thực tế cho
thấy, việc tham gia quản lý khai thác công
trình thủy lợi của các tổ chức dùng nước góp
phần quan trọng duy trì và nâng cao hiệu quả
các hệ thống thủy lợi, phục vụ sản xuất nông
nghiệp, tăng năng suất cây trồng, giảm chi phí
tưới tiêu, duy tu bảo dưỡng công trình được
đảm bảo hơn. Tuy nhiên, hiện nay hiệu quả

quản lý hệ thống thủy lợi nội đồng còn thấp,
hoạt động của các tổ chức dùng nước quản lý
công trình thủy lợi nội đồng còn nhiều vướng
mắc, bất cập, thiếu bền vững. Trên cơ sở kết
quả điều tra tại 7 tỉnh ở vùng Đồng bằng sông
Cửu Long [3], nghiên cứu này phân tích thực
trạng quản lý khai thác hệ thống thủy lợi nội

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015

1


KHOA HỌC

CÔNG NGHỆ

đồng, từ đó đề xuất mô hình và cơ chế khuyến
khích tổ chức dùng nước quản lý công trình
thủy lợi theo hướng xã hội hóa cho vùng Đồng
bằng sông Cửu Long.
2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ KHAI THÁC
HỆ THỐNG THỦY LỢI NỘI ĐỒNG
VÙNG ĐỒNG BẰNG S ÔNG CỬU LONG
2.1. Quản lý khai thác công trình thủy lợi
a) Khái quát về cơ sở hạ tầng thủy lợi
Vùng ĐBSCL hiện có trên 15.000 km kênh
trục và kênh cấp I, gần 27.000 km kênh cấp II,
khoảng 50.000 kênh cấp III và nội đồng, 80
cống rộng trên 5 m, trên 800 cống rộng 2-4 m

và hàng vạn cống bọng nhỏ, 1.151 trạm bơm
điện lớn và vừa cũng như hàng vạn máy bơm
nhỏ để chủ động tưới, tiêu nội đồng (70-80%
diện tích). Hệ thống công trình thuỷ lợi khá
phức tạp bao gồm các đê sông, đê biển, cống
ngăn mặn, giữ ngọt, kênh rạch chằng chịt. Hệ
thống thủy lợi nội đồng được giới hạn sau hệ
thống bờ bao các ô (đê bao kiểm soát lũ cả
năm hoặc bờ bao kiểm soát lũ tháng tám). Do
lịch sử về sở hữu ruộng đất để lại nên hệ thống
thuỷ lợi nội đồng còn rất manh mún và không
đồng đều. Ở vùng thượng nguồn, nhiều tỉnh đã
xây dựng được hệ thống đê bao, bờ bao khép
kín chủ động ngăn lũ, ngăn mặn đảm bảo tưới
tiêu chủ động, nhưng các tỉnh ở hạ nguồn và
vùng bán đảo Cà M au thì hầu như chỉ xây
dựng được các hệ thống hở, chưa chủ động
ngăn lũ, mặn nên còn gặp nhiều khó khăn
trong công tác tưới tiêu phục vụ cho cho sản
xuất. Đặc điểm về cơ sở hạ tầng thủy lợi vùng
Đồng bằng sông Cửu Long là yếu tố quan
trọng hình thành nên các tổ chức dùng nước đa
dạng ở vùng này.
b. Tình hình thực hiện phân cấp quản lý khai
thác công trình thủy lợi
Thực hiện chính sách phân cấp quản lý khai
thác công trình thủy lợi theo Thông tư 65 của
Bộ NN&PTNT (2009), nhiều địa phương đã
ban hành quy định phân cấp quản lý trên địa
2


bàn tỉnh. Ở vùng Tây Sông Hậu đến nay đã có
7 tỉnh ban hành quy định về phân cấp quản lý
khai thác công trình thủy lợi. Về cơ bản các
tỉnh thực hiện phân cấp quản lý công trình
theo quy mô như sau: Đối với hệ thống công
trình có quy mô phục vụ trên phạm vi liên
tỉnh, tỉnh và liên huyện (kênh ranh tỉnh, kênh
cấp I, cấp II liên huyện, cống l do các đơn vị
quản lý cấp tỉnh quản lý (Chi cục thủy lợi,
Công ty TNHH MTV KTCTTL, Trung tâm
quản lý khai thác công trình thủy lợi, Ban quản
lý thuỷ nông tỉnh) trực tiếp quản lý, vận hành,
khai thác. Đối với các công trình quy mô phục
vụ trong phạm vi huyện, liên xã (Kênh cấp II
nội huyện, kênh cấp III liên xã, công trình đầu
tư bằng ngân sách Nhà nước bàn giao cho
huyện) việc quản lý, khai thác được phân cấp
cho huyện quản lý. Đối với hệ thống công
trình trong phạm vi xã (kênh cấp III nội xã,
kênh nội đồng, công trình do Nhà nước hỗ trợ
hoặc dân đóng góp, đê bao kiểm soát lũ cả
năm hoặc kiểm soát lũ thành 8 các tiểu vùng)
giao cho UBND xã, Hợp tác xã hoặc Tổ hợp
tác quản lý.
M ặc dù quy định phân cấp quản lý đã được
các tỉnh ban hành, nhưng hầu hết chưa có danh
mục công trình được phân cấp do việc thống
kê các công trình thủy lợi nội đồng tại các địa
phương gặp nhiều khó khăn với số lượng công

trình nội đồng rất lớn và phát triển liên tục qua
các năm, trong khi đó sự phân chia ranh giới
quản lý chưa thực sự rõ ràng. Ngoài ra, tại
nhiều địa phương hiện nay chưa có cơ chế,
quy định thành lập tổ chức dùng nước nên
chưa thực hiện chuyển giao công trình cho các
tổ chức dùng nước quản lý.
c) Tình hình thực hiện chính sách miễn giảm
thủy lợi phí
Tình hình thực hiện chính sách miễn giảm
thủy lợi phí năm 2014 của một số tỉnh được
thể hiện ở Bảng 1. N guồn kinh phí cấp bù
được các địa phương sử dụng chủ yếu (khoảng
80-85%) cho công tác duy tu, bảo dưỡng công

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015


KHOA HỌC
trình và nạo vét các hệ thống kênh cấp I và cấp
II do đơn vị làm quản lý khai thác cấp tỉnh và
cấp huyện quản lý. Trong khi đó các tổ chức
dùng nước quản lý các công trình thủy lợi nội
đồng hiện nay không nhận được kinh phí cấp
bù thủy lợi phí, mà thực hiện vận hành, bảo
dưỡng công trình thủy lợi từ nguồn thu phí
thủy lợi nội đồng.
Bảng 1. Thủy lợi phí cấp bù năm 2014 của
một số tỉnh vùng ĐBS CL
Thủy lợi

Diện tích
phí cấp bù
(ha)
(106 đồng)

TT

Tỉnh

1

An Giang

164.634

280.519

2

Kiên Giang

156.783

354.482

3

Hậu Giang

92.000


140.457

4

Cần Thơ

59.178

103.129

5

Sóc Trăng

85.724

243.091

6

Bạc Liêu

52.052

241.302

7

Cà M au


103.648

396.585

CÔNG NGHỆ

được thể hiện chi tiết ở Bảng 2. Theo đó, loại
hình Tổ hợp tác là chủ yếu (chiếm 93%), trong
khi đó loại hình Hợp tác xã nông nghiệp là
không nhiều (chiếm khoảng 6%) và loại hình
Ban quản lý thủy nông là không đáng kể chỉ
chiếm có 1%. M ột số tỉnh có số lượng Tổ hợp
tác lớn như tỉnh Vĩnh Long, Kiên Giang là
những Tổ hợp tác nhỏ lẻ được hình thành theo
các tuyến đê bao và trạm bơm tưới tiêu quy
mô nhỏ. Các tỉnh khác có số lượng Tổ hợp tác
ít hơn do quản lý diện tích tưới tiêu khá lớn
của vùng đê bao như tỉnh An Giang hoặc đang
bắt đầu hình thành đê bao ở các tỉnh Sóc
Trăng, Hậu Giang.
Bảng 2. Các loại hình Tổ chức dùng nước
ở một số tỉnh vùng ĐBSCL

TT

2.2. Tổ chức quản lý hệ thống thủy lợi nội
đồng
a) Số lượng, loại hình tổ chức:
Các tổ chức dùng nước quản lý hệ thống thủy

lợi nội đồng trong vùng Đồng bằng sông Cửu
Long rất đa dạng, bao gồm các loại hình chủ
yếu là Hợp tác xã nông nghiệp, Tổ hợp tác,
Ban quản lý thủy nông. Ngoài ra còn có các
loại hình khác như tư nhân, ban quản lý trạm
bơm, câu lạc bộ sản xuất, tổ liên kết sản xuất.
Các tổ chức dùng nước quản lý công trình đầu
các tuyến kênh cấp III, đê bao tiểu vùng, hệ
thống kênh mương nội đồng và các cống bọng
nhỏ, thể hiện tính đa dạng theo điều kiện từng
vùng. Theo thống kê của Tổng cục thủy lợi
(2012), vùng Đồng bằng sông Cửu Long có
3.760 tổ chức dùng nước [4]. Theo báo cáo kết
quả đánh giá tiêu chí thủy lợi đến tháng 6/2015
của các tỉnh, các loại hình tổ chức dùng nước

1
2
3
4
5
6
7
8

Số lượng TCDN
Tổng Hợp Tổ
Tỉnh
Ban
số

tác hợp
Q LTN
tác

Long An
176
9
167
Vĩnh Long 1876
35 1843
Đồng Tháp 544 147 397
An Giang
212
37
175
Kiên Giang 3673 199 3474
Hậu Giang
10
6
3
1
Sóc T răng
196 165
21
10
Bạc Liêu
89
89

+ Loại hình Tổ hợp tác:

Các Tổ hợp tác vùng ĐBSCL gồm nhiều loại
hình như tổ tiêu úng, tổ đường nước. N goài
việc thiếu tổ chức quản lý khai thác công trình
thủy lợi bao gồm cả doanh nghiệp và các hợp
tác xã dịch vụ nông nghiệp thì hệ thống công
trình thủy lợi phức tạp bao gồm các đê sông,
đê biển, cống ngăn mặn, giữ ngọt, kênh rạch
chằng chịt cũng là nguyên nhân khiến loại
hình Tổ hợp tác ở vùng Đồng bằng sông Cửu
Long rất đa dạng. Các tổ hợp tác được thành
lập và hoạt động theo Nghị định 151 của
Chính phủ, được UBND xã xác nhận hợp đồng
hợp tác, nhưng cũng có tổ hợp tác lại do

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015

3


KHOA HỌC

CÔNG NGHỆ

UBND xã ra quyết định thành lập, việc này tùy
vào hình thức hoạt động của từng Tổ hợp tác.
Các Tổ hợp tác làm dịch vụ duy nhất là tưới
tiêu, phần lớn có quy chế hoạt động, tài khoản,
nhưng không có con dấu và thường không có
trụ sở làm việc. Nhiều Tổ hợp tác chủ yếu là
do một nhóm góp vốn đầu tư trạm bơm thành

lập và thu phí thủy lợi nội đồng của người
dùng nước để thực hiện dịch vụ tưới tiêu. Loại
hình Tổ hợp tác được hình thành theo các đê
bao tiểu vùng có quy mô lớn khoảng 1000 ha
như ở hệ thống Bắc Vàm Nao, tỉnh An Giang
và từ 50-150ha như ở hệ thống Ô M ôn - Xà
No, TP Cần Thơ, Kiên Giang, Hậu Giang.
Ở vùng ĐBSCL còn có các mô hình khác phổ
biến ở nhiều địa phương ở vùng hạ nguồn,
vùng bán đảo Cà M au như mô hình tư nhân,
mô hình tổ bơm nước. Loại hình tư nhân làm
dịch vụ tưới tiêu hoạt động theo hình thức tự
phát, do các cá nhân đầu tư máy bơm xăng
hoặc dầu, đầu tư đường nước và thực hiện
bơm tưới tiêu cho người dùng nước, sau đó thu
tiền thông qua hiệp thương với người dân. M ô
hình tổ bơm nước hoạt động theo hình thức tự
phát, quy mô nhỏ được hình thành do những
người hưởng lợi đóng góp kinh phí để đầu tư
xây dựng trạm bơm, các hộ dân đóng tiền để
trả công và chi phí nhiên liệu vận hành máy
bơm cho tổ bơm nước. Ngoài ra, trong vùng
ĐBSCL còn tồn tại một số loại hình thực hiện
tưới tiêu như: Câu lạc bộ dùng nước, tổ liên
kết sản xuất, ban quản lý trạm bơm. Các hình
thức này chủ yếu hoạt động theo hình thức tự
phát, không có quy chế hoạt động, mọi hoạt
động được giải quyết thông qua hiệp thương
với người dùng nước.
+ Loại hình Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp:


Hợp tác xã nông nghiệp có làm dịch vụ thủy
lợi tập trung nhiều ở các địa phương ở vùng
thượng nguồn cơ bản có hệ thống thủy lợi
được khép kín như tỉnh Tiền Giang, An Giang,
Kiên Giang và Đồng Tháp. Các HTX được
phát triển theo quy mô ấp, liên ấp, xã hoặc
theo quy mô liên xã của vùng đê bao như ở hệ
thống Bắc Vàm Nao, tỉnh An Giang. Các HTX
thực hiện dịch vụ về nông nghiệp gồm có bơm
tưới tiêu, nạo vét kênh mương, vận chuyển sản
phẩm, tín dụng nội bộ, cửa hàng vật tư nông
nghiệp, sản xuất lúa giống và kéo hàng, trong
đó dich vụ thủy lợi là chủ yếu. Các HTX quản
lý toàn bộ các công trình thuỷ lợi nhỏ như
kênh cấp 3 nội xã, kênh nội đồng, các cống
ngầm có quy mô nhỏ, các tuyến đê bao kiểm
soát lũ của các tiểu vùng, các đập tạm ở đầu
kênh và các trạm bơm điện do nguồn vốn xây
dựng của các HTX. Hiện nay các địa phương
trong vùng đã và đang thực hiện việc chuyển
đổi mô hình HTX kiểu cũ sang mô hình HTX
kiểu mới theo Luật HTX năm 2012, điển hình
là ở hệ thống Bắc Vàm Nao, tỉnh An Giang
100% các Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp đã
chuyển đổi theo mô hình HTX mới.
b) Hoạt động tài chính của các tổ chứ c
dùng nước:
Nguồn thu của các Hợp tác xã nông nghiệp và
Tổ hợp tác là từ dịch vụ thủy lợi và các dịch

vụ khác, tuy nhiên phần lớn là từ dịch vụ thủy
lợi (chiếm 80-100%), nguồn thu từ các hoạt
động kinh doanh, dịch vụ khác cao nhất là
khoảng 20%. Do hiện nay các Tổ chức dùng
nước vùng ĐBSCL không được hưởng nguồn
kinh phí cấp bù thủy lợi phí, nên nguồn thu
cho dịch vụ thủy lợi là từ phí thủy lợi nội
đồng. M ức thu phí thủy lợi nội đồng được xác
định từ hình thức hiệp thương giữa các tổ chức
quản lý và người dân. Kết quả điều tra tại một
số địa phương cho thấy mức phí thủy lợi nội
đồng là khá cao so với các vùng khác, từ 6001.500 nghìn đ/ha/vụ [3].

Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp (HTX) là tổ
chức kinh tế tự chủ, có tư cách pháp nhân, có
điều lệ, được mở tài khoản tại ngân hàng để
hoạt động theo Luật HTX. Hầu hết các HTX
có trụ sở để hoạt động và giao dịch. Loại hình
Bảng 3. Mức phí thủy lợi nội đồng ở một số tỉnh vùng ĐBS CL
4

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015


KHOA HỌC
TT
1
2
3
4

5
6

Tổ chức
Tổ hợp tác
Hợp tác Xã Xẻo Cui
Hợp tác Xã Thành Công
Hợp tác xã Phước Trung
Tổ hợp tác Phú Thành
Hợp tác Xã Phú An



Tỉnh

Trường thành
Hòa Thuận
Hòa Hưng
Trường Long Tây
Xã Phú Thành
Phú An

Sự khác nhau về mức thu phí thủy lợi nội đồng
là do hình thức tưới, tiêu, mô hình tổ chức
quản lý, quy mô phục vụ, hệ thống trạm bơm
được đầu tư khác nhau. Các HTX ở huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang tự đầu tư hệ thống trạm
bơm điện, nên thu phí dịch vụ từ 950-1.300
nghìn đ/ha/vụ bao gồm tất các chi phí như: Chi
phí quản lý, nạo vét, tiền điện, trích lập các

quỹ, lãi. Các Tổ hợp tác ở huyện Thới Lai, TP.
Cần Thơ đứng ra thuê tư nhân bơm dầu tưới
tiêu nên kinh phí bình quân phải trả cho tư
nhân bơm tưới tiêu từ 950-1.100 nghìn
đ/ha/vụ. N goài ra, hàng vụ các Tổ hợp tác thuê
tư nhân nạo vét hệ thống kênh mương nội
đồng, kinh phí trả cho tư nhân nạo vét kênh
mương cũng thu từ người dùng nước. Trong
khi đó, một số Tổ hợp tác ở tỉnh Kiên Giang
và Hậu Giang, do được Nhà nước hỗ trợ đầu
tư trạm bơm điện, nên các Tổ hợp tác chỉ thu
phí thủy lợi nội đồng để trả cho các hoạt động
quản lý, tiền điện, nạo vét với mức phí thấp
hơn từ 600-800 ngàn đ/ha/vụ.
3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC
DÙNG NƯỚC Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
3.1 Mô hình tổ chức dùng nước phù hợp
M ô hình Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp có
làm dịch vụ thủy nợi có khả năng đảm bảo
hoạt động hiệu quả, bền vững trong việc cung
cấp các dịch vụ sản xuất nông nghiệp bao gồm
cả dịch vụ tưới, tiêu. Hợp tác xã có nhiều ưu
điểm đem lại lợi ích cho người dân như mức
thu phí thủy lợi nội đồng thấp, dịch vụ tưới

Cần Thơ
Kiên Giang
Kiên Giang
Hậu Giang

An Giang
An Giang

CÔNG NGHỆ
Mức thu
(đồng/ha/vụ)
1.500.000
800.000
600.000
800.000
1.300.000
950.000

tiêu chủ động, xuống giống đúng thời vụ. Các
Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp cần chuyển
đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2012 đảm bảo
cho các HTX thực hiện dịch vụ sản xuất nông
nghiệp được hưởng các chính sách hỗ trợ ưu
đãi của nhà nước. Vì vậy cần duy trì, củng cố
và phát triển loại hình Hợp tác xã dịch vụ nông
nghiệp ở vùng thượng nguồn nơi có hệ thống
thủy lợi khép kín, chủ động tưới tiêu và mở
rộng ra ở các địa phương vùng hạ nguồn nơi
mà đang hình thành các vùng đê bao khép kín
để kiểm soát lũ (Bạc Liêu, Sóc Trăng).
M ô hình Tổ hợp tác cũng có khả năng đảm
bảo hoạt động hiệu quả, bền vững trong việc
thực hiện dịch vụ tưới, tiêu, đảm bảo nguồn
kinh phí để tự chủ tài chính. M ô hình Tổ hợp
tác phù hợp để quản lý hệ thống thủy lợi nội

đồng phức tạp như đê bao, bờ bao ngăn mặn,
giữ ngọt, kênh rạch chằng chịt ở các địa
phương vùng hạ nguồn. Các Tổ hợp tác cần
được kiện toàn, củng cố trên cơ sở gom các tổ
đường nước nhỏ lẻ hiện nay. Việc gom các tổ
đường nước nhỏ lẻ thành những Tổ hợp tác
quy mô liên ấp, xã, đồng thời thay bơm dầu
thành các trạm bơm điện sẽ giảm chi phí tưới
tiêu là yếu tố quan trọng cho các Tổ hợp tác
hoạt động hiệu quả, bền vững. Các Tổ hợp tác
quy mô lớn có đủ năng lực quản lý có thể phát
triển thành các HTX để phát huy những điểm
mạnh của mô hình HTX như tư cách pháp lý,
các chính sách hỗ trợ ưu đãi của nhà nước.
Ngoài ra, đối với các địa phương ở vùng hạ
nguồn, chưa có hệ thống thủy lợi khép kín,
chưa chủ động được tưới tiêu không thành lập

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015

5


KHOA HỌC

CÔNG NGHỆ

được các Hợp tác xã hay Tổ hợp tác thì có thể
thành lập các mô hình khác như: Ban quản lý
thủy nông, Ban quản lý trạm bơm để quản lý

các công trình thủy lợi.
3.2 Giải pháp về cơ chế chính sách
+ Cơ chế tham gia đầu tư, quản lý khai thác
trạm bơm điện
Thực tế cho thấy sử dụng bơm dầu chi phí
bơm cao, phụ thuộc giá cả thị trường, không
chủ động khi tưới tiêu, trong khi đó hệ thống
trạm bơm điện tiết kiệm khoảng 40% so với
bơm dầu, ít biến động giá, chủ động trong việc
tưới, tiêu. Chính phủ đã ban hành Quyết định
số 1446/QĐ-TTg năm 2009 về phê duyệt Đề
án trạm bơm điện quy mô vừa vả nhỏ vùng
Đồng bằng sông Cửu Long. Quyết định cũng
chỉ rõ cần phải củng cố, kiện toàn và thành lập
mới các Tổ hợp tác dùng nước theo Nghị định
151 đảm bảo đủ năng lực quản lý vận hành các
trạm bơm quy mô vừa và nhỏ trong phạm vi
xã. Hiện nay, các tỉnh trong vùng đã rà soát và
hoàn thiện đề án phát triển trạm bơm điện cho
tỉnh. Tỉnh An Giang đã thực hiện cơ chế đầu
tư trạm bơm điện có sự tham gia của Nhà
nước, tư nhân và nông dân. Trong khi Nhà
nước chỉ hỗ trợ khoảng 14% tổng vốn đầu tư
để xây dựng đê bao lớn thì nông dân bỏ 45,2%
để xây dựng đê bao tiểu vùng và có nghĩa vụ
thành toán 19,1% đường dây và bình hạ thế, tư
nhân bỏ 21,6% đầu tư trạm bơm và kênh nội
đồng [1]. Với hình thức đầu tư như vậy, tư
nhân đứng ra thành lập Tổ quản lý hệ thống
trạm bơm, cống bọng, kênh mương nội đồng

và thu phí thủy lợi nội đồng của người dùng
nước. Tỉnh Kiên Giang thực hiện cơ chế đầu
tư xây dựng trạm bơm điện là Nhà nước 30%
tổng vốn đầu tư và Tổ chức dùng nước, dân
70% tổng vốn đầu tư. Ở huyện Giồng Giềng,
cơ chế vốn đầu tư trạm bơm điện dựa vào
nguồn hỗ trợ đất lúa là Nhà nước đầu tư đường
dây và bình hạ thế (75-80% tổng vốn đầu tư),
dân đóng góp kinh phí mua máy bơm, mô tơ
(20-25% tổng vốn đầu tư) [3]. Thực hiện cơ
6

chế này, từ năm 2011-2014 huyện Giồng
Giềng đã xây dựng được 28 trạm bơm điện với
kinh phí 5,75 tỷ đồng. Điều này cho thấy
người dân sẵn sàng đóng góp kinh phí để đóng
góp mua máy bơm và mô tơ khi được nhà
nước hỗ trợ phần điện hạ thế. Sau khi được
đầu tư, các trạm bơm điện được giao lại cho
các Tổ chức dùng nước đang hoạt động tốt
quản lý. Trường hợp các Tổ chức dùng nước
hoạt động chưa tốt hoặc chưa thành lập tổ
chức thì được củng cố hoặc thành lập mới để
quản lý, vận hành khai thác trạm bơm điện. Ở
tỉnh Hậu Giang, do mới bắt đầu thực hiện theo
quy hoạch hệ thống trạm bơm điện nên tỉnh
dành một phần ngân sách để đầu tư xây dựng
trạm bơm điện. Theo đó tỉnh đầu tư 100% từ
đường điện, bình hạ thế và hệ thống trạm bơm,
sau đó bàn giao cho Tổ chức dùng nước quản

lý. Từ phân tích trên cho thấy khó khăn lớn
nhất trong việc phát triển trạm bơm điện là đầu
tư hệ thống lưới điện, do vậy cần phải có chính
sách hỗ trợ tập trung phát triển hệ thống lưới
điện. Việc đầu tư hệ thống trạm bơm sẽ áp
dụng cơ chế đầu tư công-tư (PPP) vì người dân
sẵn sàng đóng góp xây dựng công trình để
phục vụ sản xuất nông nghiệp cho chính họ.
+ Cơ chế khuyến khích thu gom các Tổ hợp tác
quy mô nhỏ thành các Tổ hợp tác quy mô lớn
Hiện nay ở vùng ĐBSCL còn tồn tại nhiều tổ
hợp tác quy mô nhỏ, nhất là các tổ đường nước
nhỏ lẻ. Các tổ đường nước được thành lập khi
một nhóm thành viên đứng ra xây dựng trạm
bơm hoặc thuê tư nhân bơm, nạo vét hệ thống
kênh mương nội đồng. Việc tổ chức như vậy
dẫn đến hiệu quả vận hành thấp, chi phí vận
hành bảo dưỡng cao. Do vậy, một số địa đã
thực hiện thành công trong việc gom các tổ
đường nước nhỏ lẻ thành những Tổ chức dùng
nước có quy mô hoạt động lớn hơn có quy mô
ấp, liên ấp đã làm giảm chi phí quản lý, vận
hành, bảo dưỡng công trình. UBND Kiên
Giang ban hành kế hoạch về củng cố, phát triển
và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đến năm

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015


KHOA HỌC

2015 và định hướng đến năm 2020. Thực hiện
kế hoạch này, huyện Giồng Giềng đã thành lập
Tổ nghiên cứu phát triển kinh tế tập thể với chủ
trương củng cố các HTXNN, gom các Tổ hợp
tác quy mô nhỏ thành HTXNN hoặc Tổ hợp tác
quy mô lớn. Từ năm 2011-2014 huyện Giồng
Giềng đã sát nhập và giảm được 442 Tổ hợp tác
còn 1.155 Tổ hợp tác. Theo kế hoạch năm 2015
giảm 155 Tổ hợp tác còn 1.000 tổ và đến năm
2020 sẽ giảm tiếp 400 tổ để chỉ còn 600 Tổ hợp
tác. Từ thực tế ở tỉnh Kiên Giang cho thấy cùng
với cơ chế khuyến khích đầu tư công tư trong
xây dựng trạm bơm điện thì cơ chế thu gom các
Tổ hợp tác quy mô nhỏ thành các Tổ hợp tác
quy mô lớn quản lý hiệu quả hệ thống thủy lợi
nội đồng đang là xu thế chung của các tỉnh
trong vùng.
4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Các tổ chức dùng nước ở vùng Đồng bằng sông
Cửu Long rất đa dạng về loại hình hoạt động
theo xu hướng xã hội hóa quản lý khai thác hệ
thống thủy lợi nội đồng, góp phần duy trì và phát
huy hiệu quả của hệ thống thủy lợi, phục vụ sản
xuất nông nghiệp và dân sinh. Tuy nhiên, hiện
nay hiệu quả quản lý hệ thống thủy lợi nội đồng
còn thấp, hoạt động của các tổ chức dùng nước
quản lý công trình thủy lợi nội đồng còn nhiều
vướng mắc, bất cập, thiếu bền vững.

CÔNG NGHỆ


dịch vụ thủy lợi có khả năng đảm bảo hoạt
động hiệu quả, bền vững trong việc cung cấp
các dịch vụ sản xuất nông nghiệp bao gồm cả
dịch vụ tưới, tiêu. Cần củng cố, chuyển đổi các
HTX theo Luật Hợp tác xã năm 2012 cho vùng
thượng nguồn và các địa phương có hệ thống
thủy lợi khép kín, có năng lực quản lý. M ô
hình Tổ hợp tác cũng có khả năng đảm bảo
hoạt động hiệu quả, bền vững để quản lý hệ
thống thủy lợi phức tạp như đê bao, bờ bao
ngăn mặn, giữ ngọt, kênh rạch chằng chịt ở
các địa phương, nhất là vùng hạ nguồn. Tuy
nhiên, các Tổ hợp tác cần được kiện toàn,
củng cố hoạt động có quy mô ấp, hay liên ấp,
xã trên cơ sở gom các tổ hợp tác quy mô nhỏ
hiện nay. Việc gom các Tổ hợp tác quy mô
nhỏ thành những tổ hợp tác quy mô lớn, đồng
thời thay bơm dầu thành các trạm bơm điện sẽ
giảm chi phí tưới tiêu làm cho các Tổ hợp tác
hoạt động hiệu quả, bền vững. Để khuyến
khích phát triển trạm bơm điện cần có chính
sách hỗ trợ phát triển hệ thống lưới điện. Thực
hiện cơ chế hỗ trợ đầu tư trạm bơm điện có sự
tham gia của Nhà nước, tư nhân và nông dân
và cơ chế khuyến khích gom các tổ hợp tác
quy mô nhỏ thành những tổ hợp tác quy mô
lớn là các giải pháp hiệu quả để thúc đẩy phát
triển các tổ chức dùng nước quản lý hệ thống
thủy lợi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.


M ô hình Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp làm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Đoàn Doãn Tuấn, 2013. Cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển bền
vững thủy lợi nội đồng đồng bằng sông Cửu long-Bài học kinh nghiệm từ tỉnh An Giang.

[2]

Sở NN&PTNT các tỉnh, 2015. Báo cáo kết quả đánh giá tiêu chí thủy lợi xây dựng nông
thôn mới tính đến tháng 6/2015 của các tỉnh vùng ĐBSCL

[3]

Trung tâm PIM , 2015. Báo cáo kết quả điều tra thực trạng quản lý hệ thống thủy lợi nội
đồng vùng Đồng bằng sông Cửu Long (Dự án WB6).

[4]

Tổng cục thủy lợi, 2012. Thực trạng tổ chức và hoạt động của các tổ chức hợp tác dùng nước.

TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ THỦY LỢI SỐ 30 - 2015

7



×