Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Báo cáo thực tập học viện Hành chính quốc gia. Báo cáo thực tập tại thanh tra Bộ Nội vụ. Hoàn thiện tổ chức Thanh tra Bộ Nội vụ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.06 KB, 34 trang )


LỜI CẢM ƠN
Thực tập là quá trình tham gia học hỏi, so sánh, nghiên cứu và ứng dụng những
kiến thức đã học vào thực tế công việc ở các cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
Báo cáo thực tập vừa là cơ hội để sinh viên trình bày những nghiên cứu về vấn
đề mình quan tâm trong quá trình thực tập, đồng thời cũng là một tài liệu quan trọng
giúp giảng viên Học viện kiểm tra đánh giá quá trình học tập và kết quả học tập của
mỗi sinh viên.
Để hoàn thành báo cáo thực tập này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi trân trọng
gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
- Tập thể giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia nói chung, Khoa Nhà nước
pháp luật và Lý luận cơ sở nói riêng đã tận tình giảng dạy, không chỉ truyền thụ cho tôi
những kiến thức nền tảng mà còn là đạo đức hành chính và tinh thần của một công
chức tương lai.
- ThS.Nguyễn Thị Thục (Trưởng đoàn), ThS.Nguyễn Tiến Dũng (Phó trưởng
đoàn), ThS.Lương Văn Liệu - giảng viên hướng dẫn đoàn thực tập số 10 đã tận tình
chỉ bảo tôi trước và trong quá trình thực tập, xây dựng báo cáo.
- Các cô chú, anh chị đang công tác tại Thanh tra Bộ Nội vụ, đặc biệt là đ/c
Nguyễn Mạnh Khương – Chánh Thanh tra Bộ, đ/c Trần Ngọc Huy – Phó Chánh Thanh
tra Bộ và đ/c Hoàng Quốc Tráng - Trưởng phòng Tổng hợp - Công chức hướng dẫn, đã
quan tâm, giúp đỡ, tin tưởng tạo điều kiện cho tôi tiếp xúc với công việc của quý cơ
quan, cung cấp chi tiết mọi tài liệu chuyên môn và hướng dẫn tận tình để tôi hoàn
thành báo cáo này.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, nỗ lực để hoàn chỉnh báo cáo, tuy nhiên do lần
đầu tiếp xúc với công tác vẫn còn nhiều bỡ ngỡ với những hạn chế về nhận thức cũng
như kinh nghiệm của bản thân nên báo cáo không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong
nhận được sự nhận xét, đánh giá, góp ý của quý thầy cô để báo cáo được hoàn thiện
hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

2



2


3

3


A. BÁO CÁO TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH THỰC TẬP
Thời gian

Nội dung công việc
Trình Chánh Thanh tra Bộ giấy giới thiệu Thực tập
Trình Trưởng phòng Tổng hợp kế hoạch Thực tập

Ngày 04/5/2020

Gặp mặt và làm quen các thành viên của Phòng Tổng hợp
và Thanh tra Bộ
Nghiên cứu, tham khảo nội quy, quy định, quy chế, quy
trình ISO làm việc của Thanh tra Bộ và Bộ Nội vụ

Ngày 05/5/2020

Ngày 06-08/5/2020

Ngày 11-22/5/2020

Ngày 25/5/2020


Ngày 26/5/2020 –
03/6/2020
Ngày 06-18/6/2020
Ngày 22-25/06/2020

Ngày 26/06/2020

4

Tham gia đóng góp ý kiến xây dựng dự thảo Nghị định về
kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền
hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Xây dựng quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm, điều động, biệt
phái, miễn nhiệm, từ chức đối với CBCC tại cơ quan đơn vị
trực thuộc Bộ Nội vụ
Góp ý sửa đổi Nghị định số 90/2012/ND-CP ngày
05/11/2012 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động thanh
tra ngành Nội vụ
Tổng hợp Báo cáo thực hiện Nghị quyết 280-NQ/BCSĐ
của Ban Cán sự đảng Bộ Nội vụ của các đơn vị: Văn phòng
Bộ, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Học viện Hành
chính Quốc gia.
Xây dựng quy trình tuyển dụng CBCC bằng hình thức thi
tuyển (phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra của Thanh tra
Bộ đối với các bộ ngành, địa phương trên cả nước)
Tổng hợp số liệu các Kết luận Thanh tra từ năm 2010 tới
nay
Thực hiện các nhiệm vụ khác tại Phòng Tổng hợp do
Trưởng phòng (Công chức hướng dẫn) và Lãnh đạo Thanh

tra Bộ giao
Nhận phiếu đánh giá quá trình Thực tập.
Cảm ơn và chia tay lãnh đạo, phòng ban của Thanh tra Bộ.

4


B. CƠ QUAN THỰC TẬP: THANH TRA BỘ NỘI VỤ (Chi tiết tại phần II.2)
C. HOÀN THIỆN TỔ CHỨC THANH TRA BỘ NỘI VỤ
I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để phục vụ việc hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của cơ quan Thanh tra Bộ Nội vụ nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính là việc làm cần thiết hiện nay vì các lý do cơ bản sau đây:
- Luật Cán bộ, công chức 2008 đã đặt ra yêu cầu: Thanh tra Bộ Nội vụ, Thanh
tra Sở Nội vụ thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành trong phạm vi hoạt động
thanh tra công vụ (bao gồm thanh tra việc thực hiện tuyển dụng, bổ nhiệm, đào tạo, bồi
dưỡng, điều động, luân chuyển, biệt phái, miễn nhiệm, đánh giá, thôi việc, nghỉ hưu,
khen thưởng, xử lý kỷ luật công chức, đạo đức, văn hóa giao tiếp trong thi hành công
vụ của công chức và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động công vụ);
- Văn kiện Đại hội XI về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 đã
nêu rõ: "Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch và
những định hướng phát triển, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra; đồng thời đề
cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng
ngành. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương".
- Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 3 (2011 - 2020)
đã nhấn mạnh: “Thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra, thanh tra công vụ trong
các cơ quan hành chính các cấp. Đây là khâu còn rất yếu trong công tác quản lý thời
gian qua”. Cải cách hành chính gắn liền với phân cấp, tuy nhiên theo Nghị quyết số
08/2004/NQ-CP về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và

chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì việc thực hiện phân cấp hiện
nay vẫn chưa bảo đảm sự quản lý thống nhất của nhà nước, chưa chú trọng việc thanh
tra, kiểm tra đối với những việc đã phân cấp cho địa phương.
- Cải cách hành chính, phân cấp gắn bó chặt chẽ với việc thành lập các Bộ theo
hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Nghị định số 34/2017/NĐ-CP ngày 03 tháng 4
năm 2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
5

5


của Bộ Nội vụ đã xác định Bộ Nội vụ cũng là một Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
Tuy nhiên, phân cấp và thành lập Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực vẫn phải đảm bảo
quán triệt quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất, bảo đảm quản lý thống nhất
của Chính phủ về thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, thanh tra, kiểm tra; đồng
thời phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền cấp tỉnh trong việc
thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Điều đó đã đặt ra những yêu cầu và đòi hỏi cơ quan Thanh tra Bộ nội vụ phải được
tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu thanh tra việc thực hiện các quy
định pháp luật trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ hiện nay.
Xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn trên, đồng thời được sự phân công giới
thiệu của Học viện; sự giúp đỡ của Thanh tra Bộ Nội vụ; tôi chọn đề tài “Hoàn thiện
tổ chức Thanh tra Bộ Nội vụ” làm báo cáo thực tập lần này.
2. Tình hình nghiên cứu
Tình hình nghiêu cứu ở ngoài nước: Nghiên cứu so sánh tổ chức và hoạt động
của hệ thống thanh tra nội vụ của nước ta với các nước khác trên thế giới là vấn đề có
tính đặc thù và chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều. Vì vậy, ở nước ta hầu như chưa
có tài liệu nghiên cứu chính thức về vấn đề này. Trong quá trình thực hiện báo cáo,
người viết sẽ cố gắng tiếp cận tìm hiểu các thông tin có liên quan đến vấn đề này.
Tình hình nghiên cứu ở trong nước: Phần lớn các công trình nghiên cứu có liên

quan ở nước ta mới chỉ tập trung nghiên cứu vào các quy định cụ thể của pháp luật
thanh tra; chưa có công trình nghiên cứu về hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của hệ
thống thanh tra nội vụ đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng tổ chức của cơ quan Thanh tra Bộ nội vụ hiện nay, phân
tích những mặt tích cực cũng như những hạn chế, bất cập để đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện tổ chức của cơ quan Thanh tra Bộ Nội vụ đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính.
Bài viết sẽ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện tổ
chức cơ quan Thanh tra Bộ Nội vụ thông qua việc phân tích những yếu tố chi phối, ảnh
6

6


hưởng đến tổ chức của cơ quan Thanh tra Bộ Nội vụ thời gian qua, trên cơ sở đó đề xuất
các giải pháp hoàn thiện cơ quan Thanh tra Bộ Nội vụ.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tổ chức của cơ quan Thanh tra Bộ
Nội vụ hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, đề tài sử dụng kết hợp
nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương pháp trừu tượng, phương pháp phân tích,
phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch, phương pháp thống kê, phương pháp so
sánh..., trong đó phương pháp thống kê được sử dụng để làm rõ vấn đề thực trạng tổ
chức của cơ quan thanh tra Bộ Nội vụ hiện nay, phương pháp so sánh để làm rõ sự cần
thiết phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả thanh tra nội vụ đáp ứng yêu cầu thanh tra
công vụ.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu về tổ chức của Thanh tra Bộ Nội vụ, tổng quát

từ lý luận đến thực tiễn, từ qui định của pháp luật đến việc áp dụng pháp luật trong tổ
chức của Thanh tra nói chung và của tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Nội vụ
nói riêng.
Đề tài sẽ cung cấp luận cứ khoa học giúp các nhà quản lý tiến hành hoàn thiện
về tổ chức của Thanh tra Bộ Nội vụ.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo bao gồm
ba chương:
Chương I: Cơ sở khoa học về hoàn thiện tổ chức Thanh tra Bộ
Chương II: Thực trạng tổ chức của Thanh tra Bộ Nội vụ
Chương III: Giải pháp hoàn thiện tổ chức Thanh tra Bộ nội vụ

7

7


II.

NỘI DUNG

CHƯƠNG I. CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ HOÀN THIỆN TỔ CHỨC THANH TRA BỘ

1. Những vấn đề chung về hoàn thiện tổ chức của Thanh tra Bộ
1.1. Thanh tra
Theo giáo trình Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Trường Đại học
Luật Hà Nội, khái niệm thanh tra được hiểu: “Thanh tra là một hoạt động chuyên
trách do bộ máy thanh tra đảm nhiệm có nội dung là kiểm tra, xem xét, đánh giá, kết
luận chính thức về việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lí hành chính nhà nước nhằm phòng ngừa, xử lý

các vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
các tổ chức, cá nhân góp phần nâng cao hiệu lực quản lí hành chính nhà nước”.
Dưới góc độ pháp lý, ở Việt Nam trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, Điều 1
quy định: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là
phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện
quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”.
Tuy nhiên, Luật Thanh tra năm 2004 và Luật Thanh tra năm 2010 thì khái niệm
thanh tra không được đưa ra. Luật Thanh tra năm 2010 đi vào trực tiếp xác định khái
niệm thanh tra nhà nước. Theo đó: “Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh
giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành” (Khoản 1 Điều 3).
Như vậy, điểm chung của các quan niệm trên về thanh tra đều xác định ở khía
cạnh là một hoạt động. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng: bản thân thuật ngữ “thanh
tra” có thể hiểu ở hai khía cạnh: ở khía cạnh là một danh từ - có nghĩa là tổ chức thanh
tra; ở khía cạnh động từ - đó là hoạt động thanh tra. Thiết nghĩ đây là quan điểm khá
hợp lý.
Theo quan điểm của tác giả, để làm sáng tỏ khái niệm về thanh tra cần tiếp cận
thuật ngữ này ở cả 2 khía cạnh: tổ chức và hoạt động.

8

8


1.2. Tổ chức Thanh tra
Trong Đại từ điển Tiếng Việt (1998), tổ chức được định nghĩa là: “sắp xếp, bố
trí thành các bộ phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng
chung”

Trong Giáo trình Tổ chức nhân sự hành chính nhà nước: “Tổ chức là một hệ
thống tập hợp của hai hay nhiều người, có sự phối hợp một cách có ý thức, có phạm vi
(lĩnh vực và chức năng hoạt động) tương đối rõ ràng; hoạt động nhằm đạt một hoặc
nhiều mục tiêu chung”.
Như vậy, theo cách hiểu thông thường thì “tổ chức” là một tập hợp gồm từ hai
người trở lên kết hợp với nhau theo một cách thức nhất định nhằm thực hiện một hay
nhiều mục tiêu chung.
Bên cạnh đó, có thể hiểu "tổ chức" là việc tập hợp nhiều người lại với nhau, xây
dựng cơ cấu bộ máy làm việc, định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng
người, từng bộ phận trong tổ chức, đưa ra khỏi tổ chức những người không phù hợp, bổ
sung thêm người mới hay còn thiếu, đề ra chương trình, kế hoạch và cách thức hành
động của các thành viên, để tổ chức hoạt động được nhịp nhàng, ăn khớp với nhau và
đạt hiệu quả.
Với cách tư duy, tiếp cận như vậy có thể hiểu: Tổ chức là một thiết chế bao
gồm các bộ phận, chức vụ được thành lập theo những nguyên tắc nhất định để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức đó.
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm thanh tra dưới góc độ là một tổ
chức như sau: Tổ chức thanh tra là một thiết chế của nhà nước, bao gồm các bộ phận,
chức vụ được thành lập theo những nguyên tắc nhất định để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra.
1.3. Tổ chức Thanh tra Bộ
Nghiên cứu về tổ chức nói chung cũng như tổ chức của Thanh tra Bộ nói chung,
có thể xem xét các yếu tố cấu thành như sau:

9

9


a. Vị trí pháp lý, chức năng

Theo Điều 17 Luật Thanh tra 2010, Thanh tra Bộ là tổ chức trực thuộc Bộ.
Cũng theo Điều 40 Luật Tổ chức Chính phủ 2015, Cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan
ngang bộ gồm: “Vụ, Văn phòng, Thanh tra, Cục, Tổng cục, đơn vị sự nghiệp công
lập”. Như vậy, về vị trí pháp lý, trong tổ chức thuộc, Thanh tra Bộ là đơn vị cấu thành
bắt buộc và ngang hàng với Vụ, Văn phòng, Tổng cục, Cục.
Theo Khoản 1 Điều 17 Luật Thanh tra 2010: “Thanh tra Bộ là cơ quan của bộ,
giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân thuộc phạm vi quản lý của bộ; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan,
tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của bộ; giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”.
b. Nhiệm vụ, quyền hạn
Điều 18, Luật Thanh tra năm 2010 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh
tra Bộ như sau:
“1. Trong quản lý nhà nước về thanh tra thuộc phạm quản lý nhà nước của bộ,
Thanh tra Bộ có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Xây dựng kế hoạch thanh tra trình Bộ
trưởng phê duyệt; Tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Thanh
tra bộ; Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch thanh tra thuộc
trách nhiệm của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc
bộ; Hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Thanh tra sở; Hướng dẫn, kiểm tra cơ
quan, đơn vị thuộc bộ thực hiện quy định của pháp luật về thanh tra; Yêu cầu Thủ
trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ báo
cáo về công tác thanh tra; Tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của bộ; Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến
nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Bộ trưởng, Thanh tra bộ.
2. Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra bộ có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ
chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ; Thanh tra đối với doanh nghiệp
10


10


nhà nước do Bộ trưởng quyết định thành lập; Thanh tra việc chấp hành pháp luật
chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực
của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực do
bộ phụ trách; Thanh tra vụ việc khác do Bộ trưởng giao; Kiểm tra tính chính xác, hợp
pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan
được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc bộ, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh đối với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ khi
cần thiết.
3. Thanh tra Bộ giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo; Thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp
luật về khiếu nại, tố cáo.
4. Giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng;
Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng.”
c. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu của tổ chức chính là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu hiện qua việc
sắp xếp các bộ phận cấu thành theo một trật tự nhất định và xác lập mối quan hệ qua
lại giữa chúng với nhau. Việc xác định cơ cấu của tổ chức của mỗi cơ quan chính là
việc thiết lập các bộ phận và liên kết chúng lại với nhau thành một hệ thống
Theo Khoản 2 Điều 17 Luật Thanh tra 2010:
“Thanh tra bộ có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh tra viên.
Chánh Thanh tra bộ do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi
thống nhất với Tổng Thanh tra Chính phủ.
Phó Chánh Thanh tra bộ giúp Chánh Thanh tra bộ thực hiện nhiệm vụ theo sự
phân công của Chánh Thanh tra bộ”.
d. Mối quan hệ phối hợp:

Theo Khoản 3 Điều 17 Luật Thanh tra 2010: “Thanh tra bộ chịu sự chỉ đạo,
điều hành của Bộ trưởng và chịu sự chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp
vụ của Thanh tra Chính phủ”.
11

11


1.4. Hoàn thiện tổ chức thanh tra Bộ
Có thể hiểu, hoàn thiện tổ chức thanh tra Bộ là hoạt động của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền hoàn thiện lại tổ chức thanh tra của mình trên các mặt vị trí pháp lý,
chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ phối hợp nhằm thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao.

12

12


2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức của Thanh tra Bộ
2.1. Hệ thống quy định pháp lý về tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước nói
chung và tổ chức và hoạt động ngành thanh tra nói riêng
Tổ chức và hoạt động cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ các quy định của văn
bản pháp luật.
Thanh tra bộ là cơ quan của Bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra
hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Bộ; tiến hành
thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà
nước theo ngành, lĩnh vực của Bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham
nhũng theo quy định của pháp luật; đồng thời Thanh tra bộ nằm trong hệ thống cơ

quan Thanh tra Nhà nước;
Vì vậy, tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ chịu sự điều chỉnh của các văn
bản pháp luật về thanh tra cũng như văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của Bộ.
Mọi sự thay đổi về tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ đều xuất phát từ sự thay đổi
của hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra cũng như sự thay đổi về tổ chức và hoạt
động của Bộ
2.2. Ảnh hưởng của phương thức làm việc
Là cơ quan được tổ chức theo chế độ thủ trưởng và công việc trong từng lĩnh
vực cụ thể gắn với từng công chức nhưng trong những năm qua, phương thức làm việc
của hệ thống các cơ quan thanh tra chuyên ngành vẫn chưa có sự thống nhất về
phương pháp, cách thức làm việc, mối quan hệ và nguyên tắc làm việc, cách thức xử lý
công việc giữa lãnh đạo cơ quan với lãnh đạo Bộ, lãnh đạo Sở và với các bộ phận
chuyên môn của Thanh tra Bộ cũng như với từng công chức Thanh tra Bộ. Cách thức
làm việc đó dẫn đến tình trạng mỗi công việc cụ thể chưa được giao cho một công
chức, một Phòng chức năng của Thanh tra Bộ đảm nhận và chịu trách nhiệm chính khi
xảy ra sai phạm trong lĩnh vực được giao, được phân công. Hậu quả là vì lo cho trách
nhiệm chung nên lãnh đạo Thanh tra Bộ và lãnh đạo các Phòng luôn rơi vào tình trạng
phải xử lý các công việc cụ thể, không còn nhiều thời gian tập trung thực hiện vai trò

13

13


quản lý cơ quan, xây dựng ngành; đồng thời tạo ra tâm lý thụ động, chờ đợi ý kiến chỉ
đạo của công chức Thanh tra Bộ.
Vì vậy, việc tổ chức lại cơ cấu của Thanh tra Bộ phải gắn liền với phương pháp,
cách thức, mối quan hệ và nguyên tắc làm việc, cách thức xử lý công việc giữa lãnh đạo
Thanh tra Bộ với các Phòng chức năng của Thanh tra Bộ nhằm nhằm tạo ra sự thống
nhất, đảm bảo hiệu quả làm việc và hiệu quả quản lý của chính Thanh tra Bộ.

2.3. Ảnh hưởng của yếu tố biên chế
Cải cách hành chính và phân cấp quản lý gắn bó chặt chẽ với việc thành lập các
Bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Trong khi đó, hoạt động của Thanh tra
Bộ là việc tiến hành kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các quy định của pháp luật về
những lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ nên khối lượng công việc phải đảm
nhận là rất lớn. Nếu không có đủ đội ngũ biên chế công chức để thực hiện các nhiệm
vụ trên, Thanh tra Bộ rất khó để hoàn thành các nhiệm vụ hàng năm trước lãnh đạo Bộ
trên các mặt hoạt động cơ bản. Tình trạng nói trên yêu cầu cấp thiết tới việc hoàn thiện
cơ cấu lại tổ chức của Thanh tra Bộ. Nếu không sớm được nghiên cứu giải quyết sẽ
ảnh hưởng rất lớn đến việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị của ngành.
2.4 Ảnh hưởng của yếu tố chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Con người là chủ thể của quá trình sản xuất, là yếu tố quan trọng để đảm bảo
mức độ hoàn thành công việc. Vì vậy, tổ chức và hoạt động của Thanh tra bộ chịu sự
tác động trực tiếp bởi yếu tố chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra.
2.5. Yêu cầu của cải cách nền hành chính nhà nước
Đổi mới tổ chức của Thanh tra Bộ phải bám sát tinh thần Nghị quyết 30c/NQCP của Chính phủ ngày 08/11/2011 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành
chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 theo hướng tinh gọn, hiệu quả, toàn diện, hợp
lý, trong đó ưu tiên nâng cao hiệu quả là nội dung xuyên suốt trong định hướng đổi
mới tổ chức, hoạt động thanh tra.

14

14


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC CỦA THANH TRA BỘ NỘI VỤ
1. Quá trình hình thành và phát triển
Thanh tra Bộ Nội vụ được thành lập kể từ năm 2003 (theo Quyết định số
61/2003/QĐ-BNV ngày 29/9/2003 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ) và được kiện toàn lại
vào năm 2008 (Quyết định số 1748/QĐ-BNV ngày 31/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Nội

vụ), năm 2013 (Quyết định số 1679/QĐ-BNV ngày 22/11/2013 của Bộ trưởng Bộ Nội
vụ) và năm 2017 (Quyết định số 2578/QĐ-BNV ngày 21/9/2017 của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ).
2. Tổ chức của Thanh tra Bộ Nội vụ
2.1. Vị trí, chức năng
Thanh tra Bộ Nội vụ (Thanh tra Bộ) là tổ chức trực thuộc Bộ Nội vụ, thực hiện
chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, phòng chống tham nhũng và phòng chống tội
phạm; tiến hành thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi
quản lý của Bộ Nội vụ; tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá
nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc
thực hiện kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra của Bộ Nội vụ và Thanh tra
Bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, phòng chống tham nhũng và phòng
chống tội phạm theo quy định của pháp luật.
Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng Bộ Nội vụ và chịu sự
chỉ đạo về công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.
Thanh tra Bộ có con dấu riêng.
2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn
Thanh tra Bộ thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật tại
Điều 18 Luật Thanh tra; Điều 7, Khoản 2 và Khoản 4 Điều 56 Nghị định 86/2011/NĐCP ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thanh tra; Điều 4 Nghị định số 90/2012/NĐ-CP ngày 05 tháng
11 năm 2012 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động thanh tra ngành Nội vụ; nhiệm
vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật và các nhiệm vụ do Bộ trưởng phân
15

15


công. Quy định cụ thể tại Quyết định số 2578/QĐ-BNV ngày 21 tháng 9 năm 2017
của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.

2.3. Cơ cấu tổ chức
CHÁNH THANH TRA BỘ NỘI VỤ
NGUYỄN MẠNH KHƯƠNG

PHÓ CHÁNH THANH TRA

PHÓ CHÁNH THANH
PHÓTRA
CHÁNH THANH TRA

CHU THỊ HỒNG TÂM

NGUYỄN XUÂN ĐẠT
TRẦN NGỌC HUY

PHÒNG THANH TRA NỘI
PHÒNG
VỤ TỔNG HỢP

PHÒNG THANH TRA NỘI

KHỐI ĐỊA PHƯƠNG

VỤ KHỐI BỘ, NGÀNH
TRUNG ƯƠNG

2.4. Cơ cấu nhân sự
ST

Bộ phận


T

Tổng số

Lãnh đạo

TTV,CV và NV

1

Lãnh đạo

04

04

2

Phòng Thanh tra nội vụ khối Bộ, ngành

06

02

04

06

02


04

06

02

04

22

10

12

Trung ương
3

Phòng Thanh tra nội vụ khối địa
phương

4

Phòng Tổng hợp
Tổng số

2.5. Chất lượng đội ngũ công chức
TT
I


Chương trình đào tạo, bồi dưỡng
Đào tạo

16

16

Số lượng


1

Đại học

01

2

Sau đại học

08

3

Cao cấp Lý luận chính trị

05

II.


Bồi dưỡng

1

Chuyên viên

07

2

Chuyên viên chính

10

3

Chuyên viên cao cấp

06

4

Thanh tra viên

18

5

Thanh tra viên chính


15

6

Thanh tra viên cao cấp

07

7

Quản lý lãnh đạo cấp phòng

03

8

Quản lý lãnh đạo cấp Vụ

05

9

Kiến thức quốc phòng an ninh 2

05

2.6. Mối quan hệ phối hợp
a. Mối quan hệ bên trong
Mối quan hệ bên trong bao gồm hai đối tượng: Quan hệ giữa tổ chức thanh tra
với thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp (Bộ trưởng) và mối quan hệ giữa Thanh tra

Bộ với cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành thuộc Bộ (Ban
Tôn giáo chính phủ; Ban Thi đua Khen thưởng Trung ương.
Ngoài ra, theo Nghị định 34/2017/NĐ-CP thì trong cơ cấu tổ chức của Bộ Nội
vụ còn có một số tổ chức có tính độc lập tương đối và có quy mô, số lượng cán bộ,
công chức, viên chức khá lớn. Đó là Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, Học viện Hành
chính Quốc gia. Trong cơ cấu tổ chức của các cơ quan này đều có bộ phận làm công
tác thanh tra nhưng cách thức tổ chức và mô hình cũng rất khác nhau, ví dụ: Ban Thi
đua - Khen thưởng Trung ương, Ban Tôn giáo Chính phủ thành lập bộ phận tham mưu
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (Vụ Pháp chế - Thanh tra). Còn tổ chức
thanh tra của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội và Học viện Hành chính Quốc gia lại có
17

17


tính chất của thanh tra chuyên ngành đặc thù (thanh tra giáo dục) và do không phải tổ
chức thanh tra trong các cơ quan quản lý nhà nước cho nên quyền năng của thanh tra
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội và Học viện Hành chính Quốc gia lại không giống như
của Thanh tra Bộ, Ban Thi đua - Khen thưởng Trung ương, Ban Tôn giáo của Chính
phủ. Trong mỗi tổ chức này, hoạt động thanh tra lại có những đặc thù riêng.
Mặt khác, do tổ chức thanh tra nói chung và tổ chức Thanh tra bộ nói riêng tổ
chức theo nguyên tắc song trùng trực thuộc nên có thể xem xét mối quan hệ bên trong
theo ngành.
b. Mối quan hệ bên ngoài
Quan hệ với cơ quan bảo vệ pháp luật như: cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các hành vi vi phạm có dấu hiệu tội
phạm căn cứ vào hồ sơ mà Thanh tra bộ chuyển sang (Ví dụ: BCĐ 138, BCĐ CCHC,
…)
Quan hệ với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức xã hội khác là quan hệ cộng tác,
phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật cũng như kiểm

tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, các quyết định quản lý,
thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao.
3. Nhận xét, đánh giá
3.1. Về ưu điểm
Việc sắp xếp, tổ chức bộ máy và nhân sự các phòng của Thanh tra Bộ hiện nay
nhìn chung phù hợp với quy định của pháp luật. Với mô hình cơ cấu tổ chức này, tổ
chức bộ máy của Thanh tra bộ đã đảm bảo tính tinh, gọn; bao quát hết các mặt chức
năng, nhiệm vụ, lĩnh vực các mặt công tác của Thanh tra Bộ nói chung cũng như chức
năng, nhiệm vụ của từng phòng chuyên môn nói riêng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức
Thanh tra đã từng bước được nâng cao chú trọng, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
được giao
Thanh tra Bộ luôn bám sát sự chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ trong việc
thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Ngay từ đầu năm đã xây dựng kế hoạch chi tiết thực
18

18


hiện chương trình, kế hoạch công tác thanh tra. Đã triển khai các cuộc thanh tra, kiểm
tra theo kế hoạch được phê duyệt, ngoài ra đã chủ động tiến hành được một số cuộc
thanh tra đột xuất khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật.
Đã từng bước tăng cường sự phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra giữa
Thanh tra bộ và các đơn vị trực thuộc Bộ; giữa Thanh tra Bộ với Thanh tra các Sở Nội
vụ.
3.2. Về hạn chế
a. Về cơ cấu tổ chức
Quyết định số 2578/QĐ-BNV ngày 21/9/2017 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy
định rõ Thanh tra Bộ được tổ chức thành 03 phòng. Tuy nhiên số lượng 03 phòng này
được xác định và thành lập từ năm 2003. Từ khi Luật thanh tra 2010, Luật khiếu nại,

Luật tố cáo, Luật tiếp công dân, Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng
dẫn các Luật này được ban hành thì chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Bộ được thay
đổi. Thay đổi rõ nhất là việc chuyển chức năng thanh tra chuyên ngành văn thư lưu
trữ từ Thanh tra Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước về Thanh tra Bộ thực hiện. Tuy
nhiên, với việc quy định "cứng" là 03 phòng như hiện nay, Thanh tra Bộ không thể tổ
chức thành một phòng chuyên về thực hiện thanh tra trong công tác văn thư, lưu trữ
nhà nước. Trên thực tế, từ năm 2010 đến nay, Thanh tra Bộ không tiến hành cuộc
thanh tra độc lập nào về lĩnh vực văn thư, lưu trữ nhà nước mà lĩnh vực công tác này
được lồng ghép trong các cuộc thanh tra trong lĩnh vực về cán bộ, công chức, viên
chức và tiền lương. Thực tế này làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác thanh tra,
kiểm tra về văn thư, lưu trữ. Như vậy, với cơ cấu tổ chức như hiện nay của Thanh tra
Bộ Nội vụ là chưa phù hợp với việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành nội
vụ, đặc biệt là trước những đòi hỏi về tính chuyên sâu trong hoạt động thanh tra
chuyên ngành.
Do cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ được tổ chức 03 phòng, trong đó 02 phòng
được xây dựng dựa trên tiêu chí phân chia theo đối tượng quản lý (bộ, ngành - địa
phương) nên Phòng Tổng hợp thuộc Thanh tra Bộ phải thực hiện nhiệm vụ như một cơ
quan Thanh tra thu nhỏ (vừa thực hiện chức năng văn phòng, vừa thực hiện chức năng
thanh tra, vừa thực hiện chức năng pháp chế,…) với khối lượng công việc rất lớn, đòi
19

19


hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, công chức thông thạo nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trên
thực tế, chất lượng cũng như số lượng công chức của phòng đôi khi chưa đáp ứng
được các đòi hỏi của công việc.
Hiện tại, công tác tiếp công dân tại Trụ sở Bộ Nội vụ vẫn do Thanh tra Bộ thực
hiện. Tuy nhiên, hiện nay, Thanh tra Bộ không có một phòng chuyên trách để tham mưu,
thực hiện công tác tiếp công dân. Việc tiếp công dân được thực hiện thông qua việc phân

công lần lượt công chức của cả ba phòng thuộc Thanh tra Bộ thực hiện. Thực tế này lảm
ảnh hưởng đến tính chuyên nghiệp, tập trung, chuyên sâu đối với công chức làm công
tác tiếp dân; đồng thời lảm ảnh hưởng đến tiến độ, thời gian, chất lượng giải quyết công
việc. Nhiều trường hợp, cả ba phòng thuộc Thanh tra Bộ đều tiến hành thanh tra, kiểm
tra, do đó việc phân công, bố trí công chức ở lại cơ quan để thực hiện việc tiếp dân rất
khó khăn.
b. Về cơ cấu nhân sự
Hiện nay, biên chế của Thanh tra Bộ còn ít (hiện có 22 biên chế), phụ thuộc vào
biên chế chung của toàn Bộ nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc hoàn thành khối
lượng công việc phải đảm nhiệm (bình quân 01 công chức/3 tỉnh/12 lĩnh vực).
Trong khi đó, Thanh tra Bộ còn phải cử cán bộ tham gia, phối hợp các đoàn
công tác liên ngành do Thủ tướng, các Bộ, ngành khác chủ trì nên thiếu nhân lực để
triển khai thực hiện các nhiệm vụ theo kế hoạch và đột xuất. Thậm chí, ngoài các
nhiệm vụ được giao theo kế hoạch, Thanh tra Bộ còn được giao nhiều nhiệm vụ khác
không thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ, làm ảnh hưởng đến
chất lượng, tiến độ giải quyết công việc.
c. Về chất lượng đội ngũ công chức
Một là, đội ngũ công chức Thanh tra chưa đủ năng lực để thực hiện chức trách,
nhiệm vụ được giao. Thể hiện ở: chất lượng của đội ngũ công chức vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của công tác thanh tra chuyên ngành tổ chức nhà nước trong cơ chế quản
lý mới; đội ngũ công chức thanh tra thiếu tính ổn định và chuyên nghiệp; số lượng, cơ
cấu đội ngũ công chức vừa chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài, vừa hẫng
hụt giữa các thế hệ công chức thanh tra trong cơ quan. Phần lớn đội ngũ công chức
lãnh đạo Thanh tra Bộ hiện nay chưa được tham gia các khóa đào tạo chuyên sâu, các
20

20


cuộc hội thảo, trao đổi kinh nghiệm để phát triển năng lực xây dựng ngành, do đó năng

lực phát hiện, tiếp nhận, xử lý thông tin còn nhiều hạn chế.
Hai là, thiếu biện pháp đánh giá, khen thưởng, kỷ luật phù hợp. Cụ thể là Thanh
tra Bộ chưa áp dụng phương pháp phân tích, mô tả công việc trong quản lý và sử dụng
cán bộ, công chức. Vì vậy, chức trách, nhiệm vụ của công chức thanh tra ngành nội vụ
khó xác định khi xảy ra sai phạm trong lĩnh vực, công việc được giao, được phân
công. Cơ chế khen thưởng, kỷ luật chưa gắn liền với chất lượng và hiệu quả công việc
được giao cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến kết quả hoạt động của thanh
tra ngành nội vụ chưa thực sự đạt được như mong muốn.
Ba là, chất lượng đội ngũ cán bộ thanh tra tuy từng bước đã được nâng cao
nhưng chưa đồng đều, nhất là phương pháp, kỹ năng, nghiệp vụ thanh tra còn hạn chế.
Ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm của một số cán bộ thanh tra chưa cao nên
đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác.
d. Mối quan hệ phối hợp
Sự phối hợp của các đơn vị có liên quan trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra
kiểm tra chưa thật sự chặt chẽ. Công tác xây dựng kế hoạch còn chậm so với tiến độ
yêu cầu.
Vai trò tham mưu của các Phòng chuyên môn trong việc phối hợp thực hiện
nhiệm vụ giữa Thanh tra bộ và các đơn vị trực thuộc Bộ trong công tác thanh tra, kiểm
tra nhất là với các đơn vị được giao chức năng thanh tra chuyên ngành chưa có hiệu
quả, chưa thể hiện được vai trò chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện trong
công tác thanh tra của Thanh tra bộ. Do đó, chưa tạo được sự thống nhất trong chỉ đạo
nghiệp vụ giữa Thanh tra bộ và các đơn vị trực thuộc Bộ được giao chức năng thanh
tra chuyên ngành; chưa tạo được hệ thống kết nối thông tin giữa Thanh tra bộ với
Thanh tra chuyên ngành, Thanh tra Sở Nội vụ.
Công tác phối kết hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Bộ với Thanh tra
Bộ trong giải quyết công việc đôi khi còn chậm, chưa chặt chẽ, thống nhất (như trong
việc lấy ý kiến tham gia của đối tượng được thanh tra đối với dự thảo kết luận thanh
tra, lấy ý kiến Vụ chuyên môn về các nội dung thanh tra; tổng hợp, báo cáo về công
tác phòng, chống tham nhũng, phòng, chống tội phạm, nhiệm vụ đột xuất,…)
21


21


Một số tổ chức thanh tra ngành nội vụ được thành lập theo quy định của các
văn bản pháp luật về ngành, lĩnh vực, nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp luật thanh tra.
Cách thức tổ chức của thanh tra ngành nội vụ không thống nhất, có tổ chức độc lập với
Thanh tra Bộ (Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, Học viện Hành chính Quốc gia). Điều
đó khiến cho việc tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Nội vụ bị phân tán, cắt khúc,
khó tập trung thống nhất để cùng hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cả ngành nội vụ
được.

22

22


CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC THANH TRA BỘ NỘI VỤ

1. Giải pháp nâng cao nhận thức
Để hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, trước hết Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo Bộ
cần nhận thức đúng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Bộ. Trong
mối quan hệ giữa các phương diện hoạt động của cơ quan thanh tra, so với các chức
năng khác như: quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng;
chức năng thanh tra cần phải được tập trung chú trọng đẩy mạnh trong thời gian tới
hơn cả. Bởi lẽ, trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ giữa các cá
nhân, tổ chức trong xã hội phát triển đa dạng và phức tạp vì vậy các bộ, ngành cần tập
trung đẩy mạnh hoạt động thanh tra; xác định thanh tra là một trong những phương
thức quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước của Bộ.

2. Quy định thống nhất về tổ chức, phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của Thanh tra Bộ
Việc quy định thống nhất về tổ chức, phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của thanh tra Bộ, thanh tra các Sở nhằm khắc phục sự phân tán, chia cắt, chồng
chéo trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức thanh tra; xây dựng mô hình tổ chức
thanh tra hợp lý, có tính ổn định, hoạt động có hiệu lực hiệu quả. Theo đó, tổ chức của
các cơ quan này nên điều chỉnh như sau:
Bộ Nội vụ cần thiết có bộ phận đảm nhiệm chức năng thanh tra về công chức,
công vụ được gọi là Thanh tra Bộ và hoạt động của cơ quan này được quy định chặt
chẽ trong một văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn và tổ chức hoạt động của chúng. Thanh tra Bộ là cơ quan của Bộ Nội vụ, giúp Bộ
trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công
dân, phòng, chống tham nhũng và phòng chống tội phạm.
Các hoạt động chính của Thanh tra Bộ là tiến hành thanh tra hành chính đối với
cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của Bộ; tiến hành thanh tra chuyên
ngành đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân; phòng, chống
tham nhũng và phòng chống tội phạm theo quy định của pháp luật.
23

23


Thanh tra Bộ có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra, Thanh tra viên và
công chức làm công tác thanh tra.
Thanh tra Bộ chịu sự chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng và chịu sự chỉ đạo về
công tác, hướng dẫn về tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.
Thanh tra Bộ có các phòng chuyên môn để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Thanh tra Bộ.
3. Hoàn thiện về cơ cấu tổ chức

Giải pháp để khắc phục những hạn chế trong việc tổ chức Thanh tra Bộ gồm 03
phòng chuyên môn như hiện nay đó là thành lập thêm một phòng chuyên môn. Phòng
chuyên môn này chức năng, nhiệm vụ chính là tham mưu, thực hiện các cuộc thanh tra
về công tác văn thư, lưu trữ nhà nước; giải quyết đơn thư, khiếu nại và tiếp công dân.
Với giải pháp này, cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ sẽ gồm có 04 phòng như sau:
- Phòng Thanh tra Nội vụ khối bộ, ngành Trung ương: Chức năng, nhiệm vụ
chính của Phòng là tham mưu, thực hiện công tác thanh tra các lĩnh vực thuộc thẩm
quyển quản lý của Bộ Nội vụ (trừ văn thư, lưu trữ) tại các bộ, ngành Trung ương.
- Phòng Thanh tra Nội vụ khối địa phương: Chức năng, nhiệm vụ chính của
Phòng là tham mưu, thực hiện công tác thanh tra các lĩnh vực thuộc thẩm quyển quản
lý của Bộ Nội vụ (trừ văn thư, lưu trữ) tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
- Phòng Thanh tra văn thư, lưu trữ và giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công
dân: Chức năng, nhiệm vụ chính là tham mưu, thực hiện công tác thanh tra về văn thư,
lưu trữ; chuyên trách thực hiện việc tiếp công dân, giải quyết khiêu nại, tố cáo hiện
đang do cả 03 phòng hiện nay của Thanh tra Bộ thực hiện.
- Phòng Tổng hợp: Chức năng, nhiệm vụ chính là trực tiếp tham mưu cho lãnh
đạo Thanh tra Bộ về công tác hành chính, văn thư; tiến hành thanh tra hành chính,
phòng, chống tham nhũng và kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra.
4. Hoàn thiện về biên chế (vị trí việc làm)
Để Thanh tra Bộ có thể hoàn thành nhiệm vụ chính trị do lãnh đạo Bộ Nội vụ
giao và đảm bảo thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định, trên cơ sở
phương pháp xác định vị trí việc làm đã được phê duyệt của Đề án “Xác định vị trí
24

24


việc làm và cơ cấu công chức, viên chức theo ngạch của Bộ Nội vụ“ và khối lượng
công việc thực hiện sau khi kiện toàn cơ cấu tổ chức, xác định số lượng công chức ứng
với mỗi vị trí việc làm cần được bố trí như sau:

Chức vụ,
TT

vị trí việc

Chức trách, nhiệm vụ

làm
I.

1

Số
lượng

Lãnh đạo
Chánh
Thanh tra

Chỉ đạo, điều hành hoạt động của Thanh tra Bộ và những
công việc khác theo sự phân công của Lãnh đạo Bộ. Phụ 01
trách và chỉ đạo Phòng Tổng hợp.
- Giúp Chánh Thanh tra Bộ điều hành một số lĩnh vực
công tác (trong một thời gian nhất định) và chịu trách
nhiệm trước Chánh Thanh tra về những lĩnh vực được

2

Phó Chánh phân công.
Thanh tra


- Phụ trách và chỉ đạo công việc của phòng Thanh tra Nội

01

vụ khối bộ, ngành Trung ương.
- Thực hiện những công việc khác theo sự phân công của
Chánh Thanh tra Bộ.
- Giúp Chánh Thanh tra Bộ điều hành một số lĩnh vực
công tác (trong một thời gian nhất định) và chịu trách
nhiệm trước Chánh Thanh tra về những lĩnh vực được
3

Phó Chánh phân công.
Thanh tra

- Phụ trách và chỉ đạo công việc của phòng Thanh tra Nội

01

vụ khối địa phương.
- Thực hiện những công việc khác theo sự phân công của
Chánh Thanh tra Bộ.
4

Phó Chánh - Giúp Chánh Thanh tra Bộ điều hành một số lĩnh vực 01
Thanh tra

công tác (trong một thời gian nhất định) và chịu trách
nhiệm trước Chánh Thanh tra về những lĩnh vực được


25

25


×