Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Nghiên cứu xác định cây trội làm cơ sở cho việc bảo tồn và phát triển nguồn gen cây Trám đen (Canarium tramdenum) tại huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (851.48 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG THỊ HƯƠNG

NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH CÂY TRỘI LÀM CƠ SỞ
CHO VIỆC BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN GEN
CÂY TRÁM ĐEN (Canarium tramdenum)
TẠI HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG
Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60 62 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN QUỐC HƯNG

Thái Nguyên - 2017


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác và chưa từng sử dụng để
bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu
và hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn chính xác
và đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017
TÁC GIẢ



Hoàng Thị Hương


ii

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân.Tôi xin bày
tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn này.
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên, Khoa Lâm nghiệp, Phòng Đào tạo của Nhà trường
cùng các thầy cô giáo, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt
quá trình học tập.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng cảm ơn
thầy giáo PGS.TS.Trần Quốc Hưng, người Thầy đã trực tiếp chỉ bảo, hướng
dẫn khoa học và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận
văn này.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo Huyện ủy,
UBND và các phòng ban huyện Hòa An; lãnh đạo UBND các xã Bình
Dương, Bình Long, Công Trừng, Dân Chủ, Hà Trì, Ngũ Lão, Nguyễn Huệ,
Quang Trung và các hộ nông dân trên địa bàn các xã đã giúp đỡ tôi về thông
tin, số liệu trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu luận văn.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn của tôi chắc hẳn không thể
tránh khỏi những sơ suất, thiếu sót, tôi rất mong nhận đuợc sự đóng góp, bổ
sung của các thầy cô giáo cùng toàn thể bạn đọc để nội dung luận văn được
hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017

TÁC GIẢ

Hoàng Thị Hương


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
MỤC LỤC...................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................... vi
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Ý nghĩa của đề tài ....................................................................................... 2
3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học ......................................................................... 2
3.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn sản xuất ............................................................ 2
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ........................................ 3

1.1. Cơ sở khoa học ........................................................................................ 3
1.1.1. Khái quát về cây Trám đen ................................................................... 3
1.1.2. Đặc điểm phân bố ................................................................................. 3
1.1.3. Đặc điểm hình thái................................................................................ 4
1.1.4. Đặc điểm sinh thái ................................................................................ 5
1.1.5.Giá trị kinh tế ........................................................................................ 5
1.1.6. Cơ sở khoa học về cây mẹ (cây trội) ..................................................... 6
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài...................................... 8
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ........................................................ 8

1.2.2. Nghiên cứu về cây Trám đen ở Việt Nam ........................................... 10
1.3. Tổng quan về khu vực nghiên cứu ......................................................... 17
1.3.1. Đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu ........................................ 17
1.3.2.Điều kiện kinh tế- xã hội của khu vực nghiên cứu ............................... 20
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..... 24

2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................... 24


iv

2.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ............................................................. 24
2.3. Nội dung nghiên cứu ............................................................................. 24
2.4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................... 24
2.4.1. Công tác chuẩn bị ............................................................................... 24
2.4.2. Công tác ngoại nghiệp ........................................................................ 24
2.4.2.1. Phương pháp kế thừa tài liệu ........................................................... 24
2.4.3. Công tác nội nghiệp ............................................................................ 29
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .............................. 30

3.1.Thực trạng gây trồng và phát triển cây Trám đen tại khu vực nghiên cứu ...... 30
3.1.1.Diện tích gây trồng và phân bố cây Trám đen tại khu vực nghiên cứu ....... 30
3.1.2. Kinh nghiệm gây trồng và phát triển cây Trám đen của người dân
tại khu vực nghiên cứu ....................................................................... 34
3.1.3. Kinh nghiệm thu hái, sơ chế bảo quản và thị trường tiêu thụ Trám
đen tại khu vực nghiên cứu ................................................................. 36
3.2. Đánh giá sinh trưởng và năng suất của cây Trám đen tại khu vực
nghiên cứu .......................................................................................... 38
3.2.1. Đánh giá tình hình sinh trưởng của cây Trám đen tại khu vực
nghiên cứu ......................................................................................... 38

3.2.2. Đánh giá năng suất và phẩm chất của cây Trám đen tại khu vực
nghiên cứu .......................................................................................... 40
3.2.3. Đánh giá ảnh hưởng của nhân tố đất tới sinh trưởng và phát triển
của cây Trám đen tại khu vực nghiên cứu........................................... 43
3.3. Lựa chọn cây trội Trám đen và đề xuất tiêu chí lựa chọn cây trội .......... 44
3.3.1. Lựa chọn cây trội Trám đen ................................................................ 44
3.3.2. Đề xuất bộ tiêu chuẩn lựa chọn cây trội làm cơ sở cho việc bảo tồn và
phát triển nguồn gen cây Trám đen tại huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng ...... 47
3.4. Đề xuất giải pháp bảo tồn và phát triển cây Trám đen tại huyện
Hòa An .............................................................................................. 48


v
Chương 4: KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ ..................................... 50

4.1. Kết luận ................................................................................................. 50
4.2. Tồn tại ................................................................................................... 51
4.3. Kiến nghị ............................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 52
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 60


vi

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Hiện trạng đất đai tại khu vực nghiên cứu ...................................... 30
Bảng 3.2: Tỷ lệ diện tích trồng trám đen tại các xã của huyện Hòa An ....... 31
Bảng 3.3: Kinh nghiệm chọn giống và gây trồng, chăm sóc Trám đen
khu vực nghiên cứu .................................................................... 35
Bảng 3.4: Kinh nghiệm thu hái, sơ chế và bảo quản, thị trường tiêu thụ

Trám đen tại khu vực nghiên cứu ............................................... 36
Bảng 3.5. Tình hình sinh trưởng trung bình của cây Trám đen tại khu
vực nghiên cứu ........................................................................... 39
Bảng 3.6: Kích thước trung bình quả, hạt, độ dày cùivà năng suất của
Trám đen tại khu vực nghiên cứu ............................................... 41
Bảng 3.7. Kết quả phân tích đất tại các phẫu diện nghiên cứu .................... 43
Bảng 3.8. Đặc điểm của các cây trội Trám đen tại khu vực nghiên cứu ...... 45
Bảng 3.9: Bộ tiêu chuẩn để lựa chọn cây trội làm cơ sở cho việc bảo tồn
và phát triển cây Trám đen tại huyện Hòa An ............................. 47


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cao Bằng là một tỉnh miền núi điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều hạn
chế, người nông dân chủ yếu sản xuất nông lâm nghiệp là chính, cuộc sống
còn gặp nhiều khó khăn. Huyện Hòa Anđược đánh giá là nơi có điều kiện tự
nhiên thuận lợi nhất so với các huyện khác trong toàn tỉnh Cao Bằng nhưng
diện tích đất đồi núi chiếm tới 2/3 diện tích huyện, thu nhập chủ yếu dựa vào
nông lâm nghiệp. Cùng với hệ thống cây bản địa đa tác dụng khác có ở địa
phương như: Dẻ Trùng Khánh, Dẻ gai đỏ, Sấu, Trám trắng, Trám chim, Trám
ba cạnh… thì cây Trám đen được gây trồng tại huyện Hòa An từ rất lâu đời.
Trám đen trồng bằng hạt khoảng từ 7-8 năm sau mới cho quả, tỷ lệ cây ra quả
chỉ chiếm khoảng 30- 40%. Trám đen được gây trồng khá nhiềuở các vườn hộ
gia đình hoặc những khu rừng gần nhà do đất tổ tiên để lại, so với các loài cây
cho quả trên thì cây Trám đen cho thu nhập cao nhất. Ở huyện Hòa An cây
Trám đen đã trở thành cây làm giàu của nhiều gia đình bởi Trám đen là cây dễ
trồng, không kén đất, là cây trồng đa tác dụng, trung bình mỗi cây cho thu
hoạch từ 50-80kgquả/cây/năm, cá biệt có những cây cho thu hoạch trên

150kg/cây/năm. Với giá bán từ 60.000-100.000đồng/kg trung bình một cây
Trám đen thu về từ 3.000.000 - 8.000.000 đồng/cây. Đặc biệt, cây Trám đen
rất dễ bán, chưa đến mùa thu hoạch quả trám đã được đặt mua trước tại gốc.
Mặt khác Trám đen là cây gỗ lâu năm nên ngoài giá trị kinh tế như trên còn
có giá trị phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái ở địa phương.
Với những giá trị to lớn đem lại cây Trám đen đã và đang được người
dân quan tâm, chú trọng trong công tác trồng rừng kinh tế tại huyện Hòa An,
được tỉnh Cao Bằng lựa chọn là một trong những cây mũi nhọn góp phần xóa
đói, giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho người dân địa phương nhằm phát triển
kinh tế nông lâm nghiệp bền vững. Tuy nhiên số lượng cây Trám đen cho
năng suất ổn định, chất lượng quả tốt hiện nay còn rất ít và ở một số gia đình


2

giữ lại, một số cây đã tỏ ra già cỗi và thoái hóa.Mặc dù vậy việc nghiên cứu
lựa chọn những cây Trám đen có năng suất, chất lượng tốt để lưu giữ và phát
triển nguồn gen đó thì chưa được quan tâm nhất là việc lựa chọn các tiêu chí
để đánh giá cây trội Trám đen chưa được nghiên cứu. Chính vì vậyviệc thực
hiện đề tài: “Nghiên cứu xác định cây trội làm cơ sở cho việc bảo tồn và
phát triển nguồn gen cây Trám đen (Canarium tramdenum) tại huyện
Hòa An, tỉnh Cao Bằng”là rất cần thiết nhằm bảo tồn, phát huy giá trị, năng
suất và một số đặc điểm ưu việt của cây Trám đen trên địa bàn huyện Hòa An,
tỉnh Cao Bằng, góp phần làm tăng hiệu quả của công tác trồng rừng kinh tế
của nước ta.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm xác định được cây Trám đen đủ tiêu chuẩn làm cây
trội cho việc bảo tồn và phát triển nguồn gen cây Trám đen tại huyện Hòa An.
Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát triển nguồn gen cây
Trám đen tại huyện Hòa An.

3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa về mặt khoa học
Đề tài đã xác định được một số cây trội Trám đen và các tiêu chí xác
định cây trội làmcơ sở cho việc nhân giống và phát triển cây Trám đen của
các đề tài nghiên cứu tiếp theo.
3.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn sản xuất
Thành công của đề tài có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo tồn và
phát triển nguồn gen cây Trám đen (Canarium tramdenum).Xác định được
cây Trám đen đủ tiêu chuẩn làm cây trội để nhân giống, cải thiện nguồn giống
cây rừng ăn quả cho người dân, đa dạng hóa giống cây bản địa phục vụ mục
đích trồng rừng kinh tế, góp phần tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người
dân huyện Hòa An nói riêng và tỉnh Cao Bằng nói chung.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học
1.1.1. Khái quát về cây Trám đen
Cây Trám đen còn có tên gọi khác là Bùi, mác bây (Tày, Nùng), mác
Cơm (miền Trung), Cà na (miền Nam). Trám đen thuộc chi Trám
(Canarium), họ Trám (Bureraceae). Tên khoa học là Canarium tramdenum.
Chi Trám (danh pháp khoa học: Canarium) là một chi các loài cây thân gỗ
trong họ Burseraceae, có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Phi và miền nam
châu Á, từ miền nam Nigeria về phía đông tới Madagascar, Mauritius, Ấn Độ,
miền Nam Trung Quốc và Philipin. Chúng là các loại cây thường xanh thân
gỗ lớn cao tới 40-50m, với các lá mọc đối hình chân chim. Một số loài có quả
ăn được, gọi là quả Trám C. indicum và C. ovatum thuộc về số các loài cây có
hạt quan trọng nhất ở miền Đông Indonesia và miền Tây Nam Thái Bình

Dương cũng như ở Philipin. Các loài khác, quan trọng nhất là C. luzonicum,
sản xuất ra nhựa gọi là dầu tram [7].
1.1.2. Đặc điểm phân bố
Cây Trám mọc tự nhiên trên thế giới phân bố chủ yếu ở Châu Á từ 18
- 270 vĩ độ Bắc ở các nước như: Việt Nam, Ấn Độ, Lào, Mianma, Malayxia,
Nhật Bản, Trung Quốc (Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Đài
Loan...).
Phân bố trong rừng nguyên sinh và thứ sinh ở hầu hết các tỉnh miền
Bắc, nhiều nhất ở Quảng Bình, Nghệ An, Vĩnh Phúc, Bắc Thái…. ở độ cao từ
500m trở xuống. Thường mọc rải rác trong rừng, hỗn giao với các loài: Lim
xanh, Xoan đào, Lim xẹt, Ngát, Cồng sữa, Bứa, Gội, Vên vên…nhưng cũng
có khi mọc thành loại hình Trám chiếm ưu thế rõ rệt, hoặc Trám + Vên vên
hay Trám + Lim xanh.


4

Cây ưa sáng mọc nhanh, ưa đất sét pha, tầng đất dày, độ ẩm trung bình,
mọc nhiều ở những nơi độ dốc thấp, cá biệt có thể sống được cả trên đất sỏi.
Khả năng tái sinh hạt mạnh dưới tán rừng có tàn che 0,3-0,4. Ra hoa tháng 45. Quả chín tháng 10 - 12 (Nguyễn Tiến Bân và cs, 2003) [2].
1.1.3. Đặc điểm hình thái
Cây gỗ lớn, cao 25-30m, đường kính tới 90cm. Thân thẳng, phân cành
cao. Vỏ màu nâu nhạt khi đẽo ra có mủ màu đen. Toàn thân có mùi thơm hắc.
Gỗ nhẹ, mềm, màu xám trắng.
Lá kép lông chim 1 lần lẻ, không có lá kèm. Lá chét hình thuôn trái
xoan, dài 6 - 12cm, rộng 3 - 6cm, phiến cứng, giòn, mặt trên bóng, mặt dưới
sẫm hơn, đầu và đuôi lá hơi lệch. Gân bên 8 - 10 đuôi. Cuống lá chét dài
0,5cm.
Hoa tự chùm hình viên thuỳ, thường dài hơn lá, hoàn toàn nhẵn. Hoa
màu trắng vàng nhạt, cuống lá bắc dạng vảy, cuống hoa dài 1,5 - 2cm.

Quả hạch hình trứng dài, dài 3,5 - 4,5cm, rộng 2 - 2,5cm, nhân 3 ô
không đều. Khi chín màu tím đen. Hình dáng lá cây con thay đổi nhiều, từ lá
xẻ thuỳ lên lá đơn, cuối cùng mới sinh lá kép như cây trưởng thành. (Nguyễn
Tiến Bân và cs, 2003) [2].

Hình 2.1: Cây Trám đen

Hình 2.2: Quả và lá Trám đen


5

1.1.4. Đặc điểm sinh thái
Cây Trám phù hợp với hầu hết các loại đất có nguồn gốc đá mẹ khác
nhau, thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến sét nhẹ, mùn còn khá, tầng đất dầy
trên 50cm, thoát nước và còn tính chất đất rừng. Độ pH thích hợp 4-5.Trong
tự nhiên Trám thường xuất hiện ở những nơi ven sông suối.
Cây Trám phù hợp với nhiệt độ trung bình năm 21 - 250, lượng mưa
bình quân năm 1500 - 2000mm.
Cây Trám là loài cây mọc nhanh, ưa sáng, mọc tốt khi xen kẽ với các
loài cây (Hu đay, Đom đóm...). Trong rừng tự nhiên thường chiếm ở tầng trên
nhưng trong giai đoạn 2 năm đầu cần phải che bóng, sau đó hoàn toàn ưa
sáng, là loài cây chịu nhiệt kém, thoát hơi nước mạnh.
Cây trồng 5 - 6 năm bắt đầu ra hoa, nếu trồng bằng cây ghép thì sau 3
năm có thể sẽ ra hoa. Cây ra hoa vào tháng 2- 3, quả chín vào tháng9-10
(Nguyễn Tiến Bân và cs, 2003) [2].
1.1.5.Giá trị kinh tế
Quả Trám đen đã được dùng làm thực phẩm rất lâu đời ở Việt Nam.
Quả Trám “ỏm” là món ăn quen thuộc trong các bữa cơm của các gia đình ở
miền Bắc trước kia. Từ quả Trám có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon

như: Trám kho cá, trám nhồi thịt... Quả Trám còn được dùng để làm ô mai
mặn, ngọt được nhiều người ưa thích. Nhân hạt Trám chứa nhiều dầu béo, có
vị bùi; có thể ăn sống, ép dầu hoặc làm nhân bánh. Sau 6 năm, nếu trồng trên
đất tốt sẽ cho thu hoạch. Cây thành thục có thể đạt 200-300kg quả/cây và cho
thu hoạch trong thời gian khoảng 50 năm. (Nguyễn Tiến Bân và cs, 2003) [2].
Quả Trám còn được dùng làm thuốc vì có tác dụng giải khát, sinh tân
dịch, thanh lọc, giải độc rượu. Lá có vị hơi đắng, hơi chát, tính mát, có tác
dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, chỉ thống.Vì vậy quả Trám dùng giải
độc rượu, cá nóc hoặc chữa hóc xương cá.Dùng quả Trám tươi giã nát, vắt lấy
nước uống hoặc sắc uống. Nếu dùng ngoài, dịch nước của quả chữa da nứt nẻ


6

do khô lạnh, lở ngứa, nhất là lở miệng không há mồm ra được, chữa sâu răng
bằng cách dùng quả và hạt Trám đốt, tán nhỏ và bôi vào chân răng. Rễ cây
Trám dùng chữa phong thấp, đau lưng, gối tê liệt cử động.Lá trị cảm mạo,
viêm đường hô hấp trên, viêm phổi, phù thũng, ghẻ lở. Ở Trung Quốc (tỉnh
Vân Nam) dùng rễ Trám trị đau dạ dày, bỏng lửa; lá dùng trị xuất huyết tử
cung, ban độc; quả trị nội thương xuất huyết, ho; vỏ rễ dùng trị nội thương
thổ huyết.
Nhựa Trám đen có thể dùng thắp sáng hoặc dùng trong công nghệ véc
ni sơn. Nhưng nhựa Trám đen thường ít và chóng khô đặc hơn Trám trắng,
nên ít khi khai thác nhựa từ cây Trám đen. Gỗ Trám đen nhẹ, mềm, màu xám
trắng, giác lõi không phân biệt, có thể dùng làm nhà, đóng đồ, làm gỗ dán
lạng, bút chì, diêm, bột giấy.
Trám là cây đa mục đích được chọn làm cây trồng trong các vườn nhà,
vườn rừng và các khu rừng phòng hộ đầu nguồn.Là cây trồng bóng mát, vườn
rừng, nông lâm kết hợp, làm giàu rừng và phục hồi rừng tự nhiên. Nếu Trám
trồng làm giàu rừng trong các loại hình phục hồi rừng hoặc trong các vườn

rừng với số lượng 50 cây/ha sau 8-10 năm có thể thu hoạch 20-25kg
quả/cây/năm và 10-15kg nhựa/cây/năm. Với thời giá hiện nay có thể cho tổng
thu nhập là 5-6,75 triệu đồng/ha/năm.
1.1.6. Cơ sở khoa học về cây mẹ (cây trội)
Cây trội dự tuyển (candidat plus tree) là cây có kiểu hình đáp ứng các
yêu cầu sơ bộ của nhà chọn giống, song những cây này còn chưa được đánh
giá và phân cấp hoặc khảo nghiệm [21].
Cây trội (plus tree) là cây dự tuyển đã được đánh giá, được khuyến
nghị để sản xuất giống và xây dựng rừng giống và vườn giống. Đây là những
cây có kiểu hình vượt trội về sinh trưởng, về hình dạng thân, chất lượng gỗ và
các đặc tính mong muốn khác, đồng thời có tính thích ứng tốt với hoàn cảnh,
không bị sâu bệnh. Những cây này chưa được khảo nghiệm để đánh giá về


7

mặt di truyền mặc dầu có nhiều khả năng là có kiểu gen (genotype) tốt và có hệ số
di truyền tương đối cao [21].
Tiêu chuẩn đánh giá cây mẹ (cây trội):[6]
Đối với cây mẹ (cây trội)lấy gỗ:
a) Cây chọn ở rừng trồng phải đồng tuổi, ở giai đoạn thành thục công
nghệ hoặc gần thành thục công nghệ, có sinh trưởng từ trung bình trở lên.
- Có độ vượt so với trị số bình quân của đám rừng (30 - 40 cây chung
quanh) ít nhất 1,2 Sx (độ lệch chuẩn) về đường kính và chiều cao, hoặc 25%
về đường kính và 10% về chiều cao.
- Đạt các chỉ tiêu chất lượng về phẩm chất thân cây (đoạn thân dưới
cành ít nhất dài bằng 1/3 chiều cao cả cây), thân thẳng và tròn đều, cành nhỏ,
góc phân cành lớn, tán lá tròn đều, v.v.)
- Không bị sâu bệnh hại.
b) Cây chọn ở rừng tự nhiên không nhất thiết phải có độ vượt về sinh

trưởng, nhưng phải đạt các chỉ tiêu chất lượng như cây giống ở rừng trồng.
c) Cây chọn từ cây trồng phân tán phải có độ vượt về sinh trưởng so với
ít nhất là 10 cây còn lại cùng tuổi và có các chỉ tiêu chất lượng như cây giống
ở rừng trồng.
2) Cây mẹ (cây trội) lấy các sản phẩm ngoài gỗ:
a) Cây chọn ở rừng trồng phải có năng suất các sản phẩm cuối cùng
(theomục tiêu kinh tế) vượt 15% so với năng suất trung bình của đám rừng có cây
giống (40- 50 cây chung quanh), sinh trưởng từ mức trung bình trở lên và không
bị sâu bệnh.
b) Cây chọn từ cây trồng phân tán phải có năng suất các sản phẩm cuối
cùng (theo mục tiêu kinh tế) cao nhất trong khu vực (thôn, xã hoặc liên xã),
ổn định trong ít nhất 3 năm, có sinh trưởng từ mức trung bình trở lên và
không bị sâu bệnh.


8

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới hiện nay cây ăn quả được trồng nhiều nhất là ở những
vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc ba châu lục: châu Á, châu
Phi và châu Mỹ Latinh. Tổ chức Nông lương thế giới các loại cây ăn quả, mà
trái cây được dùng làm thức ăn riêng biệt hoặc ăn kèm. So với cây lương thực
là nguồn cung cấp chính về năng lượng và chất bột cacbohydrat.Tùy theo
nguồn gốc, xuất xứ và vùng sinh thái mà có thể chia ra cây ăn quả nhiệt đới,
cây ăn quả cận nhiệt đới, cây ăn quả ôn đới,…Cây ăn quả là cây đang phát
triển sau Lúa gạo, Ngô, Sắn và Lúa mì. Trong khẩu phần thức ăn thì cây ăn
quả là nguồn dinh dưỡng quý cho con người về chất khoáng, đặc biệt nhiều
Vitamin, nhất là các vitamin A, vitamin C cần cho cơ thể con người. Tại
nhiều nước trên thế giới cây ăn quả cũng là cây hàng hóa xuất khẩu có giá trị

và là nguồn nguyên liệu để chế biến bánh kẹo, nước giải khát, mứt… Do hiểu
được vai trò của cây ăn quả một số nước trên thế giới đã nghiên cứu về hiệu
quả kinh tế của nhiều loại cây ăn quả và phát triển mở rộng. Trong đó có cây
Trám đen(Canarium tramdenum), Canarium làchi thực vật gồm 75 loài thuộc
họ Burseraceae có phân bố tự nhiên ở các nước nhiệt đới và Á nhiệt đới từ
Châu phi, Nam Á, Đông Nam Á đến Australia. Các loài cây trong chi
Canarium phân bố từ phía Nan Nigeria đến phía Đông Nadagasca, Martius,
Ấn Độ, Nam Trung Quốc, các nước Đông Dương, Indonesia và Philippin. Chi
này gồm những loài cây thân gỗ có thể cao đến 40-50cm, lá kép lông chim,
mọc cách ( 2009) [36].
Cây Trám còn có một số tên gọi khác như ở Anh, Pháp…gọi là Ôliu, ở
Thái Lan gọi là Sam chim và có tên thương mại là Ô liu Trung Quốc
( 2009) [37].
Theo (Hầu Khoan Chiếu, 1958) [10] thì ở Trung Quốc có Trám trắng
và Trám đen. Trám trắng có tên khoa học là Canarium album Raeusch. Trám


9

đen có tên khoa học là C. pimela Koenig.Trám đã được người dân trồng lấy quả từ
rất lâu đời.
Các tác giả Trung Quốc ở Hội thực vật chí (1976) [20] giới thiệu Trám
đen cho trồng rừng. Theo các tác giả thì Trám đen cao 10 - 25 m, đường kính
20 - 120 cm, có phân bố chủ yếu ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, một
phần của tỉnh Phúc Kiến và ở Đài Loan. Các nhà khoa học Trung Quốc cũng
đã có những nghiên cứu về phân bố, hình thái, đặc tính sinh học, giá trị sử
dụng, kỹ thuật trồng rừng và phòng trừ sâu bệnh (chủ yếu là Sâu Anoplophora
chinesis hại cây con). Họ đã tìm được cây nhiều quảcó thể đạt 200 kg quả, cá
biệt có thể đạt 400 kg quả.
Tuy vậy, theo công bố mới nhất thì ở Trung quốc có đến 7 loài trám,

trong đó Trám trắng (Canarium album) và Trám đen (C.pimela hoặc C.
tramdenum) là những loài cây chủ yếu có giá trị kinh tế. Trám trắng quả hình
trứng, có phân bốvà được trồng trên các sườn núi và thung lũng, ở độ cao 100
- 1300 m, tại các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hải
Nam, Tứ Xuyên, Đài Loan, Vân Nam và Việt Nam. Trám đen quả hình trứng
hẹp dài 3 - 4 cm, đường kính 1,7 - 2 cm, có phân bố ở độ cao 500 - 1300 m tại
Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam và các nước khác như Việt
Nam, Lào, Canpuchia (Flore of China, 2008)[33]. Trám trắng được nhiều
nhà khoa học trên thế giới đặt vấn đề nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20. Các nhà
khoa học người Pháp trong đó có Anfray (1901), Pignet (1902) và Heim (1904)
đã nghiên cứu khai thác và chế biến nhựa Trám để phục vụ cho công nghệ chế
biến xà phòng, dầu thơm, véc ni và xi đánh dày (Tập san kinh tế Đông dương 1994). Theo tài liệu này người ta đã chưng cất được 18 - 20 kg dầu, 57 đến 60
kg côlôphan trong 100 kg nhựa Trám. Các kết quả nghiên cứu này đã được ứng
dụng để khai thác nhựa Trám ở một số nước có trám phân bố tự nhiên. Nghiên
cứu tính chất gỗ của các loài cây nhiệt đới đã thấy các loài trám có tỷ trọng gỗ
thay đổi trong khoảng 0,50 - 0,56 (Reyes al, 1992) [34]. Các nghiên cứu tiếp


10

theo được tập trung vào việc khai thác các nguồn lợi từcây Trám trắng, cụ thể
là Trisonthi người Pháp đã nghiên cứu đặc điểm của một số loài cây có quả ăn
được của rừng nhiệt đới trong đó có loài Trám trắng, nghiên cứu giá trị kinh tế
của quả và nhựa Trám trắng của Griffith người Anh, nghiên cứu chế biến và
bảo quản quả Trám của Lin - Hetong người Trung Quốc, nghiên cứu thành
phần dược phẩm trong quả Trám trắng của Ito-M người Nhật Bản, (Tổng hợp
của Trerrs CD - Từ 1973 đến10/1999) [35].
1.2.2. Nghiên cứu về cây Trám đen ở Việt Nam
1.2.2.1. Đặc điểm phân loại, lâm học và giá trị của Trám đen
Chi Canarium ở nước ta gồm 8 loài, trong đó 2 loài được trồng ăn quả là

Trám trắng và Trám đen, loài có thể ăn quả ít giá trị hơn là Trám ba cạnh hay
Trám hồng (C.bengalensis Roxb) (Nguyễn Tiến Bân và cs, 2003) [2], bảy loài
trong số đó đã được mô tả chi tiết về phân loại (Vũ Văn Dũng et al, 2009) [12].
Trám đen (Canarium tramdemum Dai & Yakovlev, hoặc C. nigrum
(Lour) Engler), hoặc Canarium pimaela Leenh). Trám đen là cây gỗ lớn, song
kích thước nhỏ hơn Trám trắng, cây có chiều cao 25 - 30 m, đường kính trên
90 cm, thân tròn thẳng, tán rộng và xanh quanh năm (Lê Mộng Chân và cs.,
2000) [7]. Lá kép lông chim một lần lẻ, lá chét hình thuôn trái xoan, dài 6 - 12
cm, rộng 3 - 6 cm. Cụm hoa chùm, viên chùy. Hoa tạp tính hay đơn tính màu
vàng nhạt. Quả hạch hình trứng, dài 3,5 - 4,5 cm, đường kính quả 2,0 - 2,5 cm
(thực ra, mô tả về kích thước quả của các tác giả Trung Quốc như phần trên là
sát với thực tế hơn, vì Trám đen có quả hình trứng hẹp, trong khi Trám trắng
có quả hình trứng hơi bầu). Khi chín quả Trám đen có màu đen sẫm (vì thế có
tên là Trám đen), thịt quả mầu hồng.Hạt hóa gỗ rất cứng, có 3 ô, mỗi ô có 1
nhân màu trắng (Vũ Văn Dũng et al, 2009) [12].Trám đen có phân bố tự
nhiên từ Nam Trung Quốc đến Việt Nam. Ở Việt Nam cây mọc trong rừng
thứ sinh ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và miền Trung: Phú Thọ, Bắc Kạn, Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Quảng Bình,... (Nguyễn Tiến Bân, 2003) [2].


11

Tuy vậy, theo công bố mới đây thì Trám đen có phân bố chủ yếu cũng ở một
số tỉnh miền Bắc Việt Nam như Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Nghệ An,
Hà Tĩnh, Quảng Bình (Vũ Văn Dũng et al, 2009) [12].
Trám đen có thể trồng theo phương thức nông lâm kết hợp: 2 - 3 năm
đầu có thể xen cây nông nghiệp như Lạc, Lúa, Đỗ, Sắn... (Cục Lâm nghiệp,
2007) [11]. Đây là cây đa tác dụng, quả sau khi ngâm (om qua nước nóng) ăn
rất ngon. Quả tươi giã lấy nước uống giải độc do ăn phải cá nóc hoặc cá thối,
chữa hóc xương cá. Quả khô tán bột, rắc chữa nứt nẻ da, lở miệng và trị sâu

răng... (Võ Văn Chi, 1997) [9]. Vì thế quả Trám đen được tiêu thụ ở nhiều thị
trường trong nước chủ yếu là ở dạng thực phẩm ăn tươi. Nhu cầu thị trường
về quả Trám đen rất lớn, trong khi lượng quả bán ra chưa nhiều nên quả tươi
Trám đen có giá cao hơn Trám trắng, khoảng 10.000 - 12.000 đ/kg quả tươi,
trong khi giá quả tươi Trám trắng là 6.000-8.000 đ/kg (Triệu Văn Hùng,
2007) [19].
1.2.2.2. Các nghiên cứu về chọn giống lấy quả
Từ năm 1993 Bộ Lâm nghiệp đã ban hành Quy phạm xây dựng rừng
giống và vườn giống, trong đó mới đề cập đến các tiêu chuẩn chọn cây trội để
lấy gỗ (Bộ Lâm nghiêp, 1977) [3].
Sau này, trong Tiêu chuẩn công nhận giống (Bộ NN&PTNT, 1998,
2003) [4] đã đề cấp đến tiêu chuẩn chọn cây trội để lấy các sản phẩm ngoài gỗ
nói chung mà chưa nêu cụ thể. Đến tiêu chuẩn công nhận giống gần đây (Bộ
NN&PTNT, 2006) mới có quy định về tiêu chuẩn chọn cây trội để lấy sản
phẩm ngoài gỗ từ rừng trồng và từ trồng cây phân tán [6]. Nghiên cứu về
chọn giống Trám trắng lấy quả đã được Hoàng Thanh Lộc (2001 - 2005) [22]
tiến hành tại tỉnh Phú Thọ, đã chọn được 20 cây trội sai quả, trong đó có một
cây 30 năm tuổi nhiều quả nhất có thể đạt 300 kg quả. Các cây ghép từ các
cây trội này mới được trồng trong vườn tập hợp các dòng vô tính tại khu Văn
phòng của Công ty cổ phần giống lâm nghiệp vùng Bắc Bộ (ở Trạm Thản -


12

Phú Thọ) cho thấy trong 20 cây được chọn ban đầu sau 4 năm chỉ một số cây
có quả, trong đó chỉ 3 cây có nhiều quả nhất. Tuy vậy, chưa được khảo
nghiệm ở giai đoạn tiếp theo để xác định tính ổn định di truyền của chúng và
chưa có những nghiên cứu về chất lượng quả của những cây sai quả này. Viện
Cải thiện giống và Phát triển lâm sản hiện cũng đang tiến hành khảo nghiệm
tại Bắc Kạn cho một số dòng Trám trắng lấy từ Trạm Thản (đây là một phần

của dự án "Trồng thử nghiệm và xây dựng mô hình một số cây lâm nghiệp 15
cho năng suất cao tại tỉnh Bắc Kạn"). Kết quả nghiên cứu về hạt giống một số
vùng khác nhau trong đề tài "Nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng Trám trắng" của
Viện Khoa học Lâm nghiệp 1995 - 1999 cho thấy Trám trắng phân bố tại
vùng Hòa Bình có chất lượng hạt giống tốt nhất, ở giai đoạn vườn ươm cây
con sinh trưởng khỏe mạnh và vượt trội so với các vùng khác. (Phạm Đình
Tam, 2000, Báo cáo tổng kết đề tài) [29]. Trần Đức Mạnh (2007) [25] đã
nghiên cứu kỹ thuật trồng rừng Trám đen phục vụ mục tiêu lấy gỗ và lấy quả,
nhưng mới chỉ nghiên cứu chọn cây mẹ, kỹ thuật ghép cây và phương thức
trồng rừng mà chưa nghiên cứu chọn giống theo hướng chọn lọc cây trội một
cách đầy đủ và khảo nghiêm giống theo các quy định cần thiết, việc trồng
rừng lại theo phương thức trồng hỗn giao để lấy gỗ nên vẫn không mang lại
kết quả mong muốn về chọn giống lấy quả. Trám trắng và Trám đen đã được
nhân dân ta ở miền Bắc trồng từ trước những năm 1950. Từ những năm 60 có
nơi đã trồng hàng chục hecta như Lạc Thủy - Hòa Bình trồng thuần loại
khoảng 30 ha. Trồng từ năm 1980 - 1981 đến năm 1998 đường kính bình quân
đạt 18 - 19 cm, chiều cao bình quân đạt 17 - 18 m (Nguyễn Bá Chất, 1998) [8].
Từ thập niên 60 đến nay nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào các
giải pháp kỹ thuật lâm sinh, điển hình là nghiên cứu gây trồng Trám trắng tại
Cầu Hai và Hữu Lũng của Nguyễn Văn Lê, Lưu Phạm Hoành (1985) [24] đã
gây trồng 5-10 ha thuần loại hoặc theo băng. Giai đoạn đầu sinh trường nhanh
nhưng từ tuổi 7 trở lên lượng tăng trưởng hàng năm chậm dần, có nơi bị sâu


13

đục ngọn phá hoại thường xuyên (Nguyễn Bá Chất, 1998) [8]. Nghiên cứu
phòng trừ sâu đục ngọn Trám đã phát hiện được sâu Vòi Voi đục búp trám
thuộc họ Curculionidae, bộ Coleoptera và đã đưa ra hình thái, tập tính sinh
học và phương pháp phòng trừ như dùng bẫy đèn lúc 6-7 giờ, dùng vợt và rỏ

tre đi rung từng cây hứng sâu trưởng thành và bắt giết, dùng thuốc bột thấm
nước 666 loại 6% nồng độ từ 1/200-1/250 phun vào búp hoặc dùng thuốc sữa
DDT 5% nồng độ 1/150 phun ướt búp ngọn trám (Nguyễn Đình Hạnh,1965
[13]; Đặng Văn A, 1968 [1]). Từ năm 1995 đến 1999 nhóm cán bộ Phạm
Đình Tam, Trần Lâm Đồng và Nguyễn Sỹ Đương (năm 1998) [28] đã nghiên
cứu biện pháp kỹ thuật lâm sinh để trồng rừng Trám trắng phục vụ mục tiêu
cung cấp gỗ công nghiệp. Đề tài đã đề xuất được phương thức trồng và chọn
loài cây phù trợ phù hợp để xây dựng rừng Trám theo hướng cung cấp gỗ
công nghiệp. Sau đó cũng nhóm cán bộ này đã xây dựng “Quy phạm kỹ thuật
trồng rừng Trám trắng” (Bộ NN&PTNT, 2001) [5]. Nghiên cứu về trồng
Trám trắng hỗn loại với các loài cây lá rộng bản địa cho thấy so với trồng
thuần loại thì trồng hỗn loại Trám trắng có tỷ lệ sống cao hơn, tỷ lệ sâu đục
ngọn giảm, sinh trưởng tốt hơn nhưng so với các loài khác thì trám có sinh
trưởng kém hơn (Hoàng Văn Thắng, Nguyễn Bá Chất và cs, 2005) [31].So
sánh sinh trưởng của phương thức trồng hỗn giao giữa Trám trắng và Lát hoa
với trám thuần loại lại cho thấy tỷ lệ sống và sinh trưởng của phương thức
hỗn giao kém hơn trồng thuần loại. Trám trồng thuần loại đạt tỷ lệ sống 92 %
và trữ lượng là 5,58 m3/ha trong khi đó Trám với Lát đạt tỷ lệ sống 87% và
trữ lượng 4,25 m3/ha (Huỳnh Đức Nhân và cs, 2006) [26]. Nghiên cứu của
Phạm Đình Tam, Trần Đức Mạnh, Phạm Đình Sâm (2000 - 2005) [30] về
chọn lập địa, kỹ thuật trồng rừng Trám với mục đích lấy gỗ và lấy quả đã cho
thấy trồng Trám ở Hòa Bình tốt hơn ở Đại Lải và Vĩnh Phúc và đi đến nhận
định là Trám không nên trồng ở lập địa xấu, tầng đất mỏng, các chỉ tiêu hóa
tính dưới trung bình (Tiêu chuẩn ngành 04 TCN 24-2001) [5]. Tuy vậy, đáng


14

tiếc là các tác giả đã không nêu rõ các nghiên cứu về chọn giống lấy quả và
khảo nghiệm giống. Trước đây gỗ Trám trắng và Trám đen đều phân vào

nhóm 7 (Bộ Lâm nghiệp, 1977) [3]. Nghiên cứu của Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam (2002) cho thấy tỷ trọng gỗ của Trám trắng là 0,59, Trám
đen 0,73. Tuy vậy, số liệu này chưa ghi rõ độ ẩm của mẫu gỗ khi xác định tỷ
trọng và có thể hơi cao.
Lâm trường Hữu Lũng I - Lạng Sơn đã đi tiến hành nghiên cứu ghép
cây Cây Trám ở các thời vụ khá nhau, kết quả bước đầu cho thấy đối với Cây
Trám thì ghép vào vụ Xuân sẽ cho tỷ lệ sống cao và sức sinh trưởng tốt hơn.
Trong thời gian này tỉnh Lạng Sơn đang phát triển dự án trồng cây Trám ghép
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn bước đầu đã được người dân
chấp nhận. Ngoài ra các dự án trồng rừng của nước ngoài đang thực hiện tại
Việt Nam cũng chọn cây Trám làm đối tượng trồng chủ yếu, điển hình là dự
án trồng rừng của Đức hiện đang được thực hiện tại Thanh Hóa và Nghệ An.
Qua thí nghiệm ghép Trám của Phạm Đình Tam và cộng sự cho thấy
Phương pháp ghép nêm và ghép áp đều cho kết quả khả quan, tỷ lệ sống ở
thời vụ thuận lợi có thể đạt trên 70%, trong đó phương pháp ghép áp cho kết
quả tốt nhất; về thời vụ ghép chỉ nên ghép vào vụ xuân (tháng 3) và vụ thu
(tháng 10), ghép vào thời kỳ này tỷ lệ sống có thể đạt tới 65-70%.
Kết quả nghiên cứu của Trần Đức Mạnh (2007) [25] đã lựa chọn được
mười cây mẹ có năng suất quả vượt trội hơn cây trung bình từ 120%-200% ở
các xuất xứ khác nhau như Hòa Bình, Hà Tây, Ninh Bình, Thái Nguyên và
Bắc Giang. Kết quả nghiên cứu cho thấy Trám đen là cây rừng có thể nhân
giống bằng phương pháp ghép.Tỷ lệ thành công đạt trung bình 50%, phương
pháp ghép áp bên thân và phương pháp ghép nêm là hai phương pháp đạt kết
quả cao nhất. Thời vụ ghép tốt nhất là vụ xuân (tháng 3,4) và vụ Thu (tháng
9,10). Kết quả nghiên cứu cho thấy phương thức trồng rừng bằng cây con
gieo từ hạt và trồng toàn diện có cây phù trợ giai đoạn đầu tỏ ra phù hợp với


15


sinh trưởng quần thể của cây trám đen đáp ứng mục tiêu trồng rừng lấy
gỗ.Trong giai đoạn rừng 1-4 tuổi trám đen cần có cây che phủ hỗ trợ cho cây
sinh trưởng và phát triển.Cây che phủ hỗ trợ phù hợp là cây Cốt khí và cây
Keo. Phương thức trồng rừng dùng cây phù trợ cần có biện pháp kỹ thuật tác
động như tỉa cành hoặc tỉa thưa keo từ năm thứ 3 trở đi, điều chỉnh độ tàn che
của cây phù trợ đối với cây trám. Còn đối với phương thức trồng rừng bằng
cây ghép và trồng theo phương thức nông lâm kết hợp thì sẽ đáp ứng được
mục tiêu trồng rừng lấy quả. Kết quả nghiên cứu của tác giả đã thực xây dựng
được 8,5ha mô hình rừng trồng trám đen phục vụ mục tiêu lấy gỗ và lấy quả.
Các mô hình sau khi trồng năm đầu tiên đều đạt trên 90%, sau đó 3 năm tỷ lệ
tồn tại trong các mô hình thí nghiệm còn tương đối cao 82% và 86% ở Nghệ
An và 90% ở Hòa Bình. Điều này cho thấy môi trường ở đây phù hợp cho cây
trám ghép phát triển. Đường kính và chiều cao của 2 mô hình ở Tân Lạc Hòa Bình và Yên Thành-Nghệ An sinh trưởng tương đối đồng đều. Công
trình nghiên cứu còn đưa ra hướng dẫn kỹ thuật ghép cây trám đen với 2 kỹ
thuật ghép là ghép áp và ghép nêm.Sau khi ghép thành công, cây ghép được
nuôi trong vườn từ 6-9 tháng sau đó đem trồng.Đoạn cành ghép ≥ 25cm, đã
có nhiều lá, khi lá ở dạng bánh tẻ mới đem đi trồng.
Ngoài ra, cũng đã có nhiều các nghiên cứu tiến hành trồng thử nghiệm
cây Trám ghép lấy quả như: Dự án khoa học công nghệ “Trồng thử cây Trám
ghép lấy quả ở vùng đệm khu bảo tồn thiên nhiên Thanh Hoá” (Phạm Đình
Tam, Trần Đức Mạnh, Phạm Đình Sâm - TT ứng dụng KHKT lâm nghiệp)
[22]. Dự án do chính phủ Hà Lan tài trợ và được thực hiện trong thời gian 5
năm (2002 - 2007) tại 5 tỉnh: Quảng Ninh, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Trị. Dự án đã chọn đối tượng là cây Trám ghép và cây Ba kích làm cây
trồng xóa đói giảm nghèo cho người dân. Sau hơn hai năm triển khai dự án đã
thu được những kết quả ban đầu.
Trong những năm gần đây một số huyện của tỉnh Thái Nguyên như: Võ
Nhai, Phú Lương, Đại Từ... đã và đang tiến hành trồng cây Trám ghép. Hiện



16

cây đang sinh trưởng tốt và một số hộ, cây bắt đầu cho thu hoạch quả với
năng suất cao hơn Trám trồng hạt, bước đầu đáp ứng được yêu cầu trồng
rừng. Huyện Lục Nam đã trồng được trên 20 ha Trám ghép tại hai xã Trường
Sơn và Lục Sơn và đang được trồng mở rộng trên diện tích rừng kinh tế, dần
thay thế những cây trồng kém hiệu quả (Bản tin, nông thôn đổi mới).
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hoàn tại Hà Châu, huyện Phú Bình
(2005-2010) [14] đã có các đánh giá tiềm năng và năng suất cây Trám đen
phục vụ đề án xây dựngphát triển cây Trám đen đạt hiệu quả kinh tế cao tại xã
Hà Châu; đề án đã sử dụng phương pháp điều tra thực tế về diện tích, phân
bố cây Trám đen và kinh nghiệm bản địa trong cách nhân giống, phân biệt
cây cái và kỹ thuật sơ chế, bảo quản. Nội dung nghiên cứu tập trung theo
hướng nhân giống Trám bằng 2 cách gieo hạt và ghép và thử nghiệm sơ
chế một số sản phẩm hàng hóa từ Trám, tuy nhiên nghiên cứu giai đoạn đó
không thành công.
Đề tài “Chọn giống và phát triển giống Trám lấy quả tại Hòa Bình và
một số tỉnh miền núi phía Bắc” của Lý Thu Quỳnh, Hoàng Thanh Lộc
(2009- 2011) [27] đã tiến hành tuyển chọn cây trội về sản lượng quả trên 4
địa điểm ở các huyện Kim Bôi, Kỳ Sơn, Cao Phong và thành phố Hòa
Bình. Phương pháp nghiên cứu tuyển chọn giống Trám sai quả như sau:
Về phương pháp chọn cây trội:
Chọn lọc cây trội theo hướng lấy quả: theo “Tiêu chuẩn công nhận
giống cây trồng lâm nghiệp” (Tiêu chuẩn ngành 04TCN147-2006, ban
hành kèm theo Quyết định số 4108 QĐ/BNN-KHCN ngày 29 tháng 12).
Vào đúng mùa sắp thu hoạch quả của từng loài, tiến hành đi chọn cây
trội; các bước tiến hành chọn lọc cây trội như sau:
- Bước 1: Chọn cây trội dự tuyển: Khảo sát những địa điểm chọn cây
trội, cây trội dự tuyển là những cây đang sai quả, sức sống tốt, tán tròn đều,
không sâu bệnh, đo đếm các chỉ tiêu cho từng cây về sản lượng quả, D1,3,



17

Hvn, Hdc, D tán, sâu bệnh. Chọn cây trội dự tuyển Trám trắng và cây trội
dự tuyển Trám đen, đánh số sơ bộ vào thân cây.
- Bước 2: Chọn cây trội chính thức: Sau khi chọn được cây trội dự
tuyển cho mỗi loài, tiến hành ra soát lại cây trội dự tuyển, để chọn ra cây
trội chính thức cho mỗi loài, những cây trội dự tuyển đạt tiêu chuẩn là cây
trội chính thức là những cây có lượng quả vượt từ 15% trở lên so với cây
xung quanh, tán tròn đều, sức sống tốt, không sâu bệnh.
Kết quả đã lựa chọn được 13 cây Trám trắng và 7 cây trội Trám đen
làm vật liệu để nhân giống.
* Nhận xét:
Điểm qua các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới
lĩnh vực nghiên cứu cho thấy đến nay các nghiên cứu về cây Trám khá nhiều,
tập trung chủ yếu vềđặc điểm phân loại, lâm học và giá trị của Trám. Tuy
nhiên cho đến nay vấn đề lựa chọn cây trội Trám trắng và Trám đen vẫn chưa
được chú ý nhiều, số lượng công trình nghiên cứu còn rất ít,đặc biệt là việc
lựa chọn cây trội để làm cơ sở cho việc bảo tồn và phát triển nguồn gen cây
Trám đentại huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng chưa được nghiên cứu. Ở nơi đây,
cây Trám đen mới chỉ được trồng phổ biến theo kinh nghiệm dân gian trong
các hộ gia đình, nguồn giống chủ yếu là từ hạt của các cây sẵn có ở địa
phương. Vì vậy đề tài được đề xuất thực hiện.
1.3. Tổng quan về khu vực nghiên cứu
1.3.1. Đặc điểm tự nhiên của khu vực nghiên cứu
1.3.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Hòa An nằm ở trung tâm tỉnh Cao Bằng, bao quanh thành phố
Cao Bằng. Phía Đông và Đông bắc giáp huyệnTrà Lĩnh, Quảng uyên, phía
Tây giáp huyện Nguyên Bình và Thông Nông, phía Nam giáp huyện Thạch

An, phía Bắc giáp huyện Hà Quảng.
Hòa An là một huyện lớn của tỉnh, có tổng diện tích đất tự nhiên là
60.598,15ha. Có một huyện lỵ là thị trấn Nước Hai và 20 xã: Bạch Đằng, Bế
Triều, Bình Dương, Bình Long, Công Trừng, Đại Tiến, Dân Chủ, Đức Long,


18

Đức Xuân, Hà Trì, Hoàng Tung, Hồng Nam, Hồng Việt, Lê Chung, Nam
Tuấn, Ngũ Lão, Nguyễn Huệ, Quang Trung, Trưng Vương, Trương Lương.
1.3.1.2.Đất đai
Đất đai của huyện bao gồm một số loại đất chính sau: Đất Feralit đỏ
vàng phát triển trên đá phiến sét, đất Feralit đỏ vàng được hình thành từ các
loại đá mác ma axit và đá trầm tích vỡ vụn và đất bãi bồi ven sông. Thành
phần cơ giới đất nhiều sét, độ dày tầng đất trung bình từ 40-80 cm, đất chua,
hàm lượng mùn trung bình. Nhìn chung đất đai tại khu vực khá phù hợp với
nhiều loại cây trồng.
1.3.1.3.Địa hình
Địa hình huyện Hòa An bao gồm nhiều dãy núi đá vôi cao dốc, xen lẫn
các dải đồi đất thấp tạo các thung lũng là những cánh đồng lớn, bằng phẳng.
Các thung lũng này đang được sử dụng để trồng lúa và cây lương thực nông
sản khác. Địa hình được chia làm 2 dạng:
Địa hình thung lũng bao gồmnhững cánh đồng lớn, bằng phẳng: Cánh
đồng trung tâm huyện trải dài trên 20 km. Dọc theo sông Bằng và các nhánh
sông, suối là những cánh đồng bằng phẳng. Nhiều cánh đồng được phù sa từ
các thượng nguồn đổ về bồi đắp đất đai màu mỡ, quanh năm gieo trồng 2 vụ
lúa, đó là cánh đồng Tổng Lài, Tổng Nuống, (xã Nam Tuấn), Vỏ Héc, Vỏ
Má (xã Đại Tiến), Nà Pẳng, Cốc Lùng (xã Đức Long), Pác Cam, Ảng Giàng
(xã Bình Long), Sam Luồng (xã Trương Lương), Nà Mè (xã Hồng Việt),
Bản Vạn, Bản Sẩy, Vò Đáo, Đà Lạn, An Phú (xã Bế Triều), Nà Lữ (xã

Hoàng Tung),...
Ngoài ra, ven khe suối còn có những vùng ruộng bậc thang gồm các xã
phía Nam của huyện như Ngũ Lão, Nguyễn Huệ, Trưng Vương, Hồng Nam,
Bạch Đằng...
Phần diện tích còn lại là đồi núi.Đồi núi chiếm 2/3 diện tích huyện, bao
gồm núi đá và núi đất. Độ cao trung bình là 300m so với mặt biển, thấp dần từ


×