Đề bài: Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
BÀI LÀM:
Bài Mẫu Số 1:
Nguyễn Đình Chiểu một con người được mệnh danh là ngôi sao sáng trên bầu trời dân
tộc. Ông không chỉ là một người thầy giáo mẫu mực, một người thầy lang y đức mà còn
là một nhà thơ, nhà văn tài năng. Ông luôn dùng văn chương để chiến đấu vì chính nghĩa.
Ta có thể thấy rõ sự chính nghĩa ấy thông qua tác phẩm nổi tiếng và vang mãi sau này của
ông " Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc". Ông đã dựng lên bức tượng đài bất tử về nông dân
nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác phẩm là tiếng khóc bi tráng trong thời kỳ lịch sử bi thương của
dân tộc.
Mở đầu tác phẩm nhà văn đã kết hợp một câu cảm thán với nghệ thuật đối lập:
"Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy
mà mất tiếng vang như mõ."
Phần đầu lung khởi của bài tế đã luận chung về lẽ sống chết. Nguyễn Đình Chiểu đã sử
dụng biện pháp nghệ thuật đối: "Súng giặc đất rền" với " lòng dân trời tỏ". Nghệ thuật
ấy đã mở ra một hoàn cảnh tình thế bão táp của lịch sử. Đó là một sự đụng độ quyết liệt
giữa thế lực xâm lăng tàn bạo với ý chí, nghị lực, kiên cường bảo vệ Tổ quốc của dân tộc
ta. Tiếp đó tác giả lại sử dụng nghệ thuật đối về thời gian: "mười năm công vỡ ruộng" và
"một trận nghĩa đánh Tây", chính "mười" và "một" ấy đã khẳng định ý chí cao quý, những
hy sinh oanh liệt của chiến sĩ Cần Giuộc.
Với những người nghĩa sĩ, nông dân mộc mạc ấy đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho đất
nước kể từ lúc chưa có chiến tranh hay điểm diễn ra chiến tranh xảy ra . Qua phần thích
thực, tác giả đã ca ngợi công đức phẩm hạnh của người nông dân anh hùng dân tộc.
"Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó....."
Nguồn gốc xuất thân của những nghĩa sĩ ấy là những người nông dân cui cút làm ăn, chịu
thương chịu khó, sống cuộc sống của mình với đồng ruộng xóm làng với công việc quen
thuộc: cuốc, cày, bừa, cấy... đâu biết đến "cung ngựa, trường nhung", đâu biết tập khiên
súng gì. Nghe thấy "phong hạc", họ ngóng trông triều đình đưa ra kế sách để chống lại
quân giặc, thế mà triều đình nhu nhược, không lo toan được việc nước, làm lòng dân càng
thêm căm phẫn: " Bữa thấy bòng bong, che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống
khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ."
Trước khi cầm vũ khí đánh giặc, họ đều là những người nông dân xa lạ với chiến tranh,
nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược đã làm nên một sự chuyển biến trong tâm hồn họ,
họ đã trở thành những người lính can trường, yêu nước căm thù giặc, tự nguyện đứng lên
chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân
thực sinh động gần gũi với tiếng ăn tiếng nói của người nông dân lao động. Họ ra trận
chiến đấu mà chỉ được trang bị những dụng cụ thô sơ, thiếu thốn (manh áo vải, ngọn tầm
vông, dao tu, nón gõ) và nó đối lập hoàn toàn với những vũ khí hiện đại tối tân của kẻ
xâm lược (tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ). Thử hỏi hai thứ vũ khí đối lập ấy khi
tham gia trận chiến bên nào sẽ thiệt thòi và chịu cái kết đau thương? Thiệt thòi là thế, ấy
vậy mà tinh thần của người nghĩa sĩ ấy sắt thép kiên cường, khí thế tấn công như vũ bão,
coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Bằng loạt ngôn ngữ góc cạnh, động từ mạnh: đốt, chém,
đạp, xô, xông,.. Nguyễn Đình Chiểu đã cho thấy khí thế xông lên trận chiến của người
dân với tinh thần bất khuất, xả thân vì nghĩa lớn của dân tộc. Cái chết sự thật phũ phàng
nó là một tấn bi kịch đối với đất nước ta trong thời kỳ lịch sử đen tối ấy.
Trong phần cuối của bài văn tế, đó là tiếng ai vãn, tiếc thương của dân tộc trước sự hi
sinh của những người đã ngã xuống. Tác giả đã bày tỏ nỗi đau đớn của người dân của
chính tác giả qua từng câu chữ thấm đượm tình của mình. Những nghĩa sĩ ấy đã dùng cái
chết của mình để làm sáng tỏ ra một chân lý "chết vinh còn hơn sống nhục", đấu tranh tới
cùng dù chết, còn hơn chung sống làm nô lệ cho bọn ngoại xâm. Những dòng cuối là
những tiếng khóc thể hiện niềm tiếc thương ấy, bi mà không lụy, nó tiếp tục ca ngợi
công lao của chiến binh , nó còn cổ động, thúc giục, khích lệ những người còn sống sẽ
tiếp tục sự nghiệp chiến đấu của các chiến sĩ Cần Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật, những nghĩa sĩ giản
dị, mộc mạc mà sắt thép, kết hợp với chất trữ tình, tính hiện thực, ngôn ngữ trong sáng,
đậm chất Nam Bộ đã tạo ra một bài ca không tuổi, ca ngợi về tinh thần oanh liệt của
nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Bài văn tế đã kể lại công đức phẩm hạnh của những người đã mất đồng thời cũng bày tỏ
lòng tiếc thương của người sống đối với họ với âm hưởng bi tráng. Những người chiến
binh Cần Giuộc ấy sẽ sống mãi trong câu chữ của Nguyễn Đình Chiểu, sẽ mãi là là bức
tượng đài bất tử của của dân tộc Việt Nam ta.
Bài Mẫu Số 2:
Thời gian cứ thế trôi qua nhưng những gì là giá trị, là vẻ đẹp cao quý thì luôn còn mãi.
Lịch sử dân tộc ta đã trải qua biết bao cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, oanh liệt
có những mất mát cũng quá nhiều. Trong cuộc nổi dậy chống Pháp, những người nghĩa sĩ
Cần Giuộc tuy đã hi sinh nhưng vẻ đẹp hào hùng, bi tráng của họ mãi trường tồn cùng
thời gian. Bởi vậy, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là áng văn bất
hủ ca ngợi vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Trong nước, nổi lên những cuộc khởi nghĩa
chống giặc ngoại xâm. Đến năm 1861, những người nghĩa sĩ nông dân quả cảm đã tập
kích đồn giặc ở Cần Giuộc, khiến một số quan quân của giặc và tên tri huyện tay sai bị
tiêu diệt. Song thật không may, đã có khoảng hơn 20 nghĩa sĩ đã hi sinh. Xúc động trước
tình cảnh đó, Nguyễn Đình Chiểu đã làm bài văn tế để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ
hy sinh trong trận này.
Mở đầu tác phẩm, trong phần Lung khởi, tác giả tái hiện tình cảnh đau thương của dân
tộc với tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp: “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Tác
giả đã ca ngợi tấm lòng của nhân dân tỏa sáng dù vũ khí quân đội vắng mặt. Đồng thời,
nhà thơ cũng khái quát về hai quãng đời của người nông dân nghĩa sĩ: “Mười năm công vỡ
ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang
như mõ”. Tuy quãng thời gian làm nông dân rất dài, sống một cuộc sống bình yên, song họ
sẵn sàng làm nghĩa sĩ chống giặc trong thời gian ngắn, để rồi danh thơm còn mãi với
muôn đời. Họ là những người trượng nghĩa, mang tinh thần xả thân sẵn sàng đứng lên
chống lại quân giặc.
Trong phần Thích thực từ câu 3 đến câu 15, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của người nghĩa sĩ
nông dân trong cuộc sống đời thường và trong chiến tranh. Họ vốn xuất thân là những
người nông dân quanh năm ngày tháng chỉ biết “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, nhưng
khi giặc xâm lược, họ giờ đây không còn “trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Vẻ đẹp
bình dị của những người nông dân chân lấm tay bùn giờ đây trở nên huy hoàng hơn bao
giờ hết bởi tinh thần căm thù giặc sâu sắc ngùn ngụt chất chồng. Họ bày tỏ cảm xúc của
mình một cách chân thật “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Họ nhận thức sâu sắc về
trách nhiệm của mình trong công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc – đó là tham gia chiến
đấu. Họ vào trận với “manh áo vải làm đồng” và những dụng cụ lao động thô sơ như
ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… Vậy mà, chỉ với tinh thần dũng cảm, họ có
thể tham gia trận công đồn: “Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt
tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều
mình như chẳng có”. Họ chiến đấu với hành động dứt khoát, mạnh mẽ: “đốt”, “chém”,
“đạp rào”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”,… Bởi vậy, họ khiến cho kẻ thù
phải khiếp sợ: “mã tà ma ní hồn kinh, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng
nổ”.
Phần Ai vãn từ câu 16 đến câu 25 bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và
của nhân dân đối với người nông dân nghĩa sĩ. Đó là nỗi đau đớn khôn nguôi của thân
nhân nghĩa sĩ: “Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não
nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Đó còn là nỗi căm
giận tội ác kẻ thù hòa chung tiếng khóc nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất
nước: “Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc
mớ chi ông cha nó”. Xót xa là thế nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn khẳng định sự hi sinh
của những nghĩa sĩ Cần Giuộc là anh dũng, là cao cả: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về
theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”.
Năm câu thơ kết đã ca ngợi công lao bất diệt của những người nghĩa sĩ. Họ là những
người “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ bình, muôn kiếp
nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một
chữ ấm đủ đền công đó”. Thái độ tôn kính mà đau xót của tác giả không chỉ thể hiện qua
từ ngữ trang trọng mà còn ở giọng điệu trầm buồn. Sự mặc niệm, nấc nghẹn đau đớn
của Nguyễn Đình Chiểu ở cuối bài: “Hỡi ôi thương thay/ Có linh xin hưởng” cũng thể
hiện tấm lòng ngợi ca công đức theo hướng vĩnh viễn, muôn đời.
Qua việc sử dụng thủ pháp tương phản đối lập, bút pháp hiện thực cùng giọng điệu trữ
tình thống thiết, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tượng đài ca ngợi người nghĩa sĩ Cần
Giuộc, đồng thời cũng là tiếng khóc lớn của tác giả dành cho những người hi sinh và cho
cả tình cảnh đau thương của đất nước. Bởi vậy, tác phẩm luôn song hành cùng thời gian
bởi giá trị vĩnh hằng mà nó đóng góp.