Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Thử tìm hiểu về triết lý phật giáo trong đời sống xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.77 KB, 7 trang )

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 1 (26) - Tháng 1/2015

THỬ TÌM HIỂU VỀ TRIẾT LÝ PHẬT GIÁO
TRONG Đ I SỐNG XÃ HỘI
ĐẶNG THỊ ĐƠNG(*)

T M TẮT
P ậ

ì

o uấ
ì â oạ
k ơ
ì
ướ


ủ ủ o
ượ ờ s

ề ả

ũ



ộ ớ
ườ . C o


ạo
í u

T

ầ Vơ ã
ộ o
k
P ậ
o
ộ ; ò
ậ ớ
o
k ơ
ề ây ổ
u; o k
P ả k

k k ảo s ấ
ớ ủ ư
ầ Vơ ã y.
óa:
â

od


ướ
ả d


ạ ì





o



â

oạ . Đó
ư ưở P ậ
í
ả bớ
uk ổ
P ậ
o ướ dẫ
ườ
ừb.

ặ b
ậ qu

ùy duy
ơ
o
ộ ộ
.


ủ P ậ
o. Tư ưở
y
ơ
ủ bấ kì qu
bấ b ” ẫ ượ duy ì.

ì
ó ạo P ậ
duy

s

ơ

ã



ABSTRACT
Buddhism appears for humanity and also exists for its. This is a thought that Dharma
is in the world, does not leave the world but in order to be enlightened for purposes to
lessen pains, problems and attachments of humans. More than that, Buddhism guides
people to find out a peace life based on the foundations of ethic, understanding and mercy.
Non-egocentric and altruistic spirit is one of features of Buddhism. This thought made
Buddhism be spread out, be integrated with customs, habit and languages of any nations
without bloodshed while the predestined and immutable spirit is still maintained. It is
asserted that when studying all religions in the world only Buddhism lays down this nonegocentric spirit.
Keywords: Buddhism appears for humanity, Buddhism guides people to find out a

peace life based on foundations of ethic, understanding and mercy, Non-egocentric and
altruistic spirit, the predestined and immutable spirit is still maintained.
và con người xã hội. Có phái chủ trương
đức trị, có phái chủ trương pháp trị, có phái
giữ quan điểm “vơ vi”; có quan điểm cho
rằng con người là tiểu vụ trụ, con người là
thước đo của vạn vật, con người có thể
nhận biết được thế giới, Đức Phật cũng chủ
trương đưa con người trở về với “bản thể”,
với “Phật tánh”, với “ơng chủ” của chính

1. TÍNH NHÂN BẢN CỦA TRIẾT LÝ
PHẬT GIÁO(*)
1.1. Gi dục P ật gi là c n đường
ướng nội
Trước và sau thời Đức Phật đã xuất
hiện nhiều các triết thuyết, các thể chế
chính trị, nhằm giáo dục con người cá nhân
(*)

ThS, Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM

101


mình; bằng con đường thực hành tâm linh
tối hậu tự mình; không nhờ vào bất kì đấng
siêu nhiên nào. “Mô ì
ã ộ ý ưở
ủ ạo P ậ ượ ặ

bả
o
ạo
. Quyề ợ ộ

ượ ặ ướ quyề ợ
ư
nhân” [1, tr. ]. Đó là tư tưởng chân chánh,
phù hợp với tất cả mọi đối tượng, đưa xã
hội đi vào quy luật trên nền tảng của từ bi,
trí tuệ, hòa hợp, phát triển, tiến bộ, an vui.
Giáo dục con người luôn là vấn đề
quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế
giới (nhất là giai đoạn hiện nay, vấn đề
giáo dục con người lại càng được quan tâm
hơn bao giờ hết. Có rất nhiều những mặt
tích cực cũng như tiêu cực đã diễn ra trong
thời kỳ hội nhập này). Giáo dục nhân bản
nhấn mạnh đời sống thực tại với bản chất
con người. Giáo pháp của Phật chủ trương
phương châm hướng nội, quay về với
chính mình, với con người thật của mình
để cải tạo xã hội và xây dựng Niết bàn
ngay trên thế gian này.
Trong kinh Pháp Cú, Phật thường nhắc
nhở: “k ô
ì ỗ
ườ ó
y
k ô

ì ỗ ì
ó
hay không làm” hay “dù ạ bã
ườ

quâ
k ô
bằ

ì


ượ ”. Con đường thực thành thiện pháp
đòi hỏi ở mỗi cá nhân tinh thần “hồi quang
phản chiếu”, tinh thần tự giác, xả bỏ mọi
chấp trước và gạt sạch phiền não, sống với
các pháp liễu tri “như thật”, “đang là”,
“như lý tác ý”…Tám vạn bốn ngàn pháp
môn của Phật giáo (theo cách gọi của Phật
giáo Đại Thừa phát triển) tuy nhiều nhưng
như “

ổ ề ộ bể bể
ó



o
ủ P ậ
ó


ó
ả o ” và tùy theo căn cơ
của mỗi người mà tự áp dụng, chánh niệm
điều phục thân tâm, giải thoát khổ đau
ngay hiện tại.
1.2. P ật gi ủng ộ tin t n gi
dục tự độ độ t a
Giáo dục thế học thường có xu hướng
khuyến khích đào tạo tiềm năng con người
nhằm thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân và
cộng đồng, giáo dục Phật giáo quan niệm
trước hết là chính nội tâm nhận thức của
từng cá nhân.
Phật giáo xác nhận con người có các
mối liên hệ qua lại lẫn nhau. Đó là nhân
duyên. Trong quá trình sinh tồn, những
nghịch duyên hay thuận duyên đều do nhân
quả. Trong nghiệp riêng của mỗi cá nhân
có nghiệp chung. Dù sao duyên chỉ là phụ,
nhân mới là gốc và nếu mỗi cá nhân tinh
tấn, quyết tâm sửa đổi, thực hành các pháp
lành sẽ dẫn đến sự chuyển đổi tốt hơn của
xã hội trong hiện tại và tương lai. Với
những ai tập khí bất thiện (tham lam, nóng
giận, ngu si, kiêu căng, ích kỷ…) còn
nhiều, không đủ sức chuyển hóa mình và
chuyển hóa người khác thì Đức Phật cũng
khuyên:
C ớ â ậ bạ

C ớ â kẻ ểu â
Hãy â
ườ bạ
Hãy â bậ ượ nhân [2, tr.17].
Phật giáo cho rằng, nếu tự giữ thanh
tịnh cho mình cũng chính là giữ cho người.
Nếu chưa biết bơi qua sông thì không nên
nhảy xuống nước xoáy mà cứu kẻ khác.
Nếu chưa điều phục thuần thành được đạo
đức, trí tuệ, tinh thần vững vàng thì không
102


nên dấn thân phan duyên. Bởi những việc
làm “quá sức” như thế khó mang lại kết
quả tốt; không phù hợp với tinh thần từ bi;
phải có trí tuệ, tự lợi rồi mới lợi tha, tự độ
mới độ tha. Ngài Linh Hựu có nhắc nhở
trong Quy S

s : đi với người
hiền như đi trong sương, lâu ngày sương
thấm nhuần mà ướt áo; ở với kẻ ác, nghiệp
ác huân tập khó mà giữ thân tâm trong
sáng.
Phật giáo khuyến khích những việc
làm lợi mình, lợi người, lợi cả hai. Nói như
vậy để thấy rằng, với các gia đình có con
em khó dạy, ham chơi, đua đòi, thích đánh
nhau, không biết điều tiết thân tâm, dễ sa

ngã, thì các bậc cha mẹ và các cấp giáo dục
nên có những biện pháp tạo môi trường
lành mạnh, phòng trước những tổn thương
về thể xác và tinh thần cho họ. Còn với
người lớn nên tích cực dấn thân làm tròn
trách nhiệm của mình một cách liêm chính;
phải chí công vô tư; tạo điều kiện “sử
dụng” những nhân tố thực sự có tài, có
đức, có chuyên môn cao phục vụ cho xã
hội; quan tâm đến mọi mặt của cuộc sống
nhân sinh.
1.3. Gi dục P ật gi
uyến
c
p t tri n c c tâm t iện
Trong mọi hoàn cảnh, đức tính từ bi
luôn được Phật khuyến khích. Từ bi trong
Phật giáo đó là hạnh ban vui cứu khổ muôn
loài, đây là trạng thái tâm thức tốt đẹp nhất
ở thế gian. Phật dạy tất cả mọi người dù là
đi, đứng, hay nằm, ngồi, đều nên an trú
niệm của mình ở lòng từ bi.
Phật giáo chủ trương phát triển mạnh
các tâm thiện như: tin tưởng, hiểu biết,
chuyên chú, hổ thẹn khi phạm lỗi lầm, lo

sợ về lỗi lầm mình gây ra; không tham lam,
ích kỷ; không giận hờn; phải nên sáng suốt
trong mọi hoàn cảnh; phải mở tâm thương
người, thương yêu sự sống; ban vui cho kẻ

khốn khổ, giúp người khó khăn vượt qua
sự khổ; vui chung và hoan hỷ cùng những
thiện pháp của người khác; nên giữ tâm
luôn bình thản; xả bỏ mọi dính chấp; nói
năng hành động với thân, miệng, ý phải tốt
đẹp mang lại hạnh phúc cho mình và
người, v.v…
Phật giáo khẳng định những tâm thiện
trên nếu được phát huy sẽ khiến cho tâm
thức được thanh tịnh, an lành. Và những
tâm thiện này nếu bất kì ai, bất kì giai cấp
nào, quốc gia nào, tôn giáo nào đều thực
nghiệm chắc chắn sẽ mang lại sự bình yên,
an ổn cho cá nhân, xã hội và nhân loại.
2. GIÁ TRỊ THỰC TIỄN CỦA TRIẾT LÝ
PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG
CON NGƯỜI
2.1. Sự t ật nỗi ổ của cuộc đời và
p ương p p diệt
ổ t e P ật gi
(K ả s t K ổ đế tr ng ứ diệu đế và
Mười ai n ân duyên
Đức Phật nhiều lần khẳng định ờ
bể k ổ” và đã có rất nhiều những ý kiến
khác nhau bàn cãi xung quanh quan điểm
này. Hãy xem Phật giáo giải thích như thế
nào?
Phật khẳng định trong bài Kinh T
d u
về nỗi khổ của thế gian gồm: sanh

là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ,
cầu bất đắc khổ (mong ước mà không được
là khổ), ái biệt ly khổ (yêu thương nhau mà
phải xa nhau là khổ), óan tắng hội khổ
(ghét nhau mà phải gặp nhau là khổ).
Ngoài ra còn có hành khổ (sự khổ đang
103


diễn ra liên tục, chuyển hóa trong từng sát na), hoại khổ (sự khổ vì mọi thứ tan rã theo
quy luật khách quan) và khổ khổ (nỗi khổ
này chồng nên nỗi khổ khác, cả về thân và
tâm luôn bức bách con người). Thực tế qua
kiểm chứng thì quả thật con người ở bất kỳ
thời đại nào cũng không thể phủ nhận
những kiến giải này của Đức Phật, bởi bất
kỳ ai trong cuộc đời, ít nhiều cũng đều đã
phải trải qua nó. Đúng thật là hạnh phúc
trong trần thế từ thú vui tinh thần lẫn thể
xác thật là mỏng manh và tạm bợ, vì chúng
không phải là chân hạnh phúc hoặc hạnh
phúc trường tồn, vĩnh cửu.
Tính nhân bản và phát hiện tuyệt vời
của Phật giáo là ở chỗ: Đ P ậ
ượ
ư
uyể ó
k ổ u
u ; bằ



â
;
ư
y ấ í
; ó ợ
o
o
ườ ở
o
ả . Đó là tám chi
nhánh Diệt khổ gồm: chính kiến (thấy, biết
đúng như thật), chính tư duy (tư duy đúng),
chính ngữ (nói lời chân thật, không nói lời
hư vọng, không nói lời phù phiếm, không
nói lưỡi đôi chiều), chính nghiệp (thực
hành từ bỏ tham, sân, si; những pháp bất
thiện), chính mệnh (nghề nghiệp chân
chính như: không mua bán vũ khí, không
nấu rượu, không buôn bán người), chính
tinh tiến (cố gắng thực hành siêng làm
những điều lành, dứt trừ các nghiệp ác),
chính niệm (nhớ nghĩ những pháp thiện
như: không sát, đạo, dâm, vọng, tửu; bố
thí; nhớ về ơn đức bi, trí, dũng của Phật;
nhớ nghĩ chư Thiên thiện lành; nhớ nghĩ
những lời tốt đẹp như: từ bi hỷ xả, bát
chánh đạo, tứ niệm xứ mà Đức Phật chỉ

dạy) và cuối cùng là chính định (an trụ tâm

lại một chỗ, diệt trừ vọng tưởng khiến thân
tâm tĩnh lặng).
Phật còn khẳng định sự chấp dính năm
thủ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cũng
là khổ. Bởi xác thân vật chất này do tứ đại
(sắc) là đất, nước, lửa, gió tạo nên; do hợp
đủ nhiều duyên mà thành trong đó yếu tố
đầu tiên của kiếp sống làm người là từ tinh
cha huyết mẹ, sau này là thức ăn trưởng
dưỡng. Bốn uẩn còn lại là thọ, tưởng, hành,
thức thuộc về tinh thần. Tinh thần cũng vô
thường biến đổi không ngừng, ý nghĩa
mười hai chi phần nhân duyên đã giải thích
rõ điều này. Phật cũng đã khẳng định tâm
người “như ngựa chạy rông, như khỉ
chuyền cành”, “tâm như họa sĩ khéo vẽ thế
giới muôn màu”. Nguyễn Du cũng có ghi
trong T uy K ều: “người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ”. Vậy việc tìm hiểu mười
hai chi phần nhân duyên: từ vô minh duyên
hành, hành duyên thức, thức duyên danh
sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập
duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái
duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh,
sanh duyên lão tử, sầu, bi, ưu, não, khổ là
điều không phải dễ nhưng nó vô cùng sâu
sắc giúp con người nhận ra cuộc đời này là
vô thường, vô ngã, duyên sanh để từ bỏ
kiến chấp, từ bỏ chấp thủ và sống cuộc đời
tích cực nhưng rất thong dong tự tại.

Sơ đồ mười hai nhân duyên chia theo
nhân quả của quá khứ, hiện tại, tương lai
và “hoặc-nghiệp-khổ” [ ].

104


tế như trên đã triển khai về duyên sanh,
năm uẩn (nơi tích tập chứa nhóm của thân
và tâm) thì không có cái gì là “ta”, “của
ta”. Hiểu được giả huyễn như vậy, mỗi
người hãy mở rộng vòng tay chăm lo cho
gia đình chính của mình theo đúng bổn
phận và hãy yêu thương ngay lấy những
người xung quanh-những người mà hàng
ngày ta đang sống, làm việc và tiếp xúc với
trí tuệ và lòng nhân ái, bao dung, vị tha.
Tâm trạng ấy, nếu được duy trì và bồi
dưỡng trong mỗi giây phút của đời sống cá
nhân, gia đình, xã hội chắc chắn có thể
đảm bảo hạnh phúc đời này và đời sau.
Cao hơn nữa, tinh thần vô ngã là đạo lộ
quan trọng trong quá trình giải thoát Niết bàn của bất cứ hành giả nào.
2.2. Niềm tin p ải được dựa trên
t ực ng iệm i m c ứng
Có thể thấy rằng Phật giáo là hệ thống
triết học đạo đức, “
ì
o ườ
u

o
ộ” [2, tr 13].
Điều này được tìm thấy qua ba tạng Kinh,
Luật, Luận.
Càng đi sâu vào nghiên cứu, chúng ta
phát hiện ra cái bất ngờ của Phật giáo là
tôn giáo này không bận tâm đến các câu
hỏi siêu hình vô ích. Phật giáo quan niệm:
tu tập là chuyển ác hành thiện, những điều
gì không mang đến sự lợi lạc, đời sống ly
tham, ly chấp, tịch tịnh, trí tuệ, giác ngộ,
Niết bàn thì đều mang đến khổ đau cho con
người. Đức Phật không hề chủ thuyết phải
tin Ngài một cách mù quáng nếu không có
sự tìm hiểu. Nhiều lần Phật nhắc hàng Đệ
tử của Ngài với ý nghĩa “tin ta mà không
hiểu ta là phỉ báng ta”. Kinh D
ô
Simmapa cũng là một trong số các Kinh

Mườ

â duy
y ư

uỗ ắ í
ò
ò k
o
ườ ảo

o s
ử. N u ắ


ì ấ ả ò
ắ í b
ã; bở
u â ã ậ
ừ ìk ô
ò

duy
ã ặ
ì
k ô
ò ó ả
ỗ ợ. N y ạ ó o
ườ ượ

o k ỏ ò s

o

â
ư
N bàn.
Phật giáo chỉ ra các pháp thế gian vốn
là “khổ-không-vô thường-vô ngã”, nhấn
mạnh: “vô ngã là Niết - bàn (trạng thái an
tịnh, như như, bất động, không còn phiền

não, sáng suốt tịch tịnh)”. Do chính cái ngã
mà con người ngộ nhận chấp dính nên có
sự phân biệt; sự phân biệt gây ra sự chấp
trước; sự chấp trước gây ra đau khổ. Thực
105


đồng thể hiện tư tưởng này:" Cũ
ư
ườ k ô
o


s u
k
ã ử
bằ
u
ó

é dậ ó
ờ ủ
ũ
ậy
ượ

ậ s uk
ã
kể
ú

k ô
ả do s ô
kí ” [3, tr.42]. Như vậy, cũng gần sát với
khoa học thực nghiệm ngày nay, Đức Phật
rất chú trọng đến sự hành trì của thân tâm
để cảm nhận những lời dạy của Ngài có
đúng hay không, có được các bậc thức giả,
trí tuệ và đạo đức đồng ý hay không, có
mang lại những thiện pháp tốt đẹp cho
mình và mọi người xung quanh hay
không? để từ đó học Phật và áp dụng sống
an vui ngay giữa cuộc đời.
3. KẾT LUẬN
Triết học Mác-Lênin cho rằng: o
ườ

ò ủ
qu
”.
Phật giáo cũng chỉ ra rằng xác thân và tâm
thức của con người là do nhân duyên giả
hợp mà thành,
y s
ì
k
s
yd
ì
k d ”. Không
những xác thân này biến đổi qua thời gian

theo trình tự sanh-trụ-dị-diệt mà tâm thức
của con người cũng vô thường, sanh diệt
trong từng sát na. Vì vậy, không thể tìm
thấy chân lý ở những pháp hữu vi, tục đế.
Nền tảng đầu tiên để chuyển nghiệp
bất thiện thành nghiệp thiện đó là quy trình
giữ gìn ngũ giới của người Phật tử, và
thăng tiến dần đời sống tâm linh trên nền
tảng của giới-định-tuệ, văn-tư-tu. Con
đường Đạo đế với 37 phẩm trợ đạo quan
trọng với chánh kiến là điểm khởi đầu đã

phát huy cao độ từ bi, trí tuệ, đạo đức, nhân
phẩm, tư cách… của một con người; cao
hơn nữa là chiến thắng nội tâm, chuyển hóa
những tham sân, si, mạn, nghi, ác,
kiến,....vi tế; giúp bản thân mỗi người tự
nhận ra “con bệnh” của chính mình để
chuyển hóa đời sống nội tâm an vui, giải
thoát; cũng là tính nhân bản cao cả, siêu
việt của Phật giáo, cao hơn cả các phạm trù
đạo đức thông thường.
Thời Lý-Trần, các vị vua anh minh đã
rất khéo sử dụng tư tưởng Phật giáo trong
tinh thần nhập thế, “hòa quang đồng trần”
giúp an sinh trị quốc. Rất tiếc, những tư
tưởng tốt đẹp, khoa học, lợi ích này của
Phật giáo - một tôn giáo lớn và có bề dày
lịch sử ở Việt Nam vẫn chưa được đông
đảo giới trí thức hiện nay thực sự quan

tâm và áp dụng trong thực tiễn để xây dựng
một xã hội nhân bản tốt đẹp. Đó là không
kể đến nhiều vị hiểu chưa rốt ráo về triết lý
Phật giáo và hành trì chưa chân chánh, gán
cho Phật giáo những hành vi mê tín như:
đốt vàng mã, bói toán, xin xăm, giết mổ
cúng tế… dẫn đến những hiểu biết lệch lạc,
chưa áp dụng tích cực những tư tưởng giáo
dục nhân bản của Phật giáo vào đời sống
xã hội được.
Thiết nghĩ, trừ những người có tâm đạo
sâu, không nhất thiết phải là tín đồ Phật
giáo nhưng nếu bất kì các ngành, các đoàn
thể, các hội, các tổ chức từ rộng đến hẹp
nếu dành thời gian tìm hiểu triết lý Phật
giáo và hành trì trong cuộc sống, chắc chắn
sẽ có nhiều an vui ngay ở đời sống hiện tại.

106


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thích Nữ Hằng Liên (2014), Giáo ì T
í
ã ộ P ậ
o, Học viện
Phật giáo Việt Nam tại Tp.Hồ Chí Minh, Tp. HCM.
2. Thích Minh Quang (dịch, 1
), Kinh Pháp Cú, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
3. D. Shastri (biên tập, 1968), Sớ ả V

b ā ề Kā
k K
ạ P , Nxb
Tôn giáo, Hà Nội
4. Thích Thiện Siêu (2000), Vô ã N b , Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
5. Nhiều tác giả (1
), Đạo
P ậ
o, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam.
6. Thích Nhất Hạnh (200 ), Đườ
ư ây ắ , Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
7. />* Ngày nhận bài: 2/12/2014. Biên tập xong: /1/201 . Duyệt đăng: 10/1/2015.

107



×