Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Thư viện số và vấn đề xây dựng thư viện số ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.62 KB, 9 trang )

TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 20 - Tháng 4/2014

THƯ VIỆN SỐ VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG
THƯ VIỆN SỐ Ở VIỆT NAM
NGUYỄN MINH HIỆP (*)

TĨM TẮT
Từ những năm cuối thế kỉ trước, khi ngành Thơng tin - Thư viện (TT-TV) thế giới ứng
dụng triệt để cơng nghệ thơng tin (CNTT) để tự động hố thư viện và phát triển nguồn tài
ngun điện tử thì Thư viện điện tử ra đời. Bắt đầu những năm đầu thế kỉ này,“Sự phát
triển ngành TT-TV là gắn liền với sự phát triển của CNTT” (Rubin, 2010) đã trở thành tư
tưởng chỉ đạo thì ngành TT-TV thế giới đã phát triển với một tốc độ nhanh chưa từng có.
Thế giới bước vào kỉ ngun số và Thư viện số ra đời. Ngày nay trên thế giới, xu thế phát
triển thư viện số đã trở thành một phần chủ đạo trong tồn cảnh hoạt động TT-TV.
Ngành TT-TV Việt Nam phát triển chậm so với cộng đồng thế giới. Trong khi cả thế
giới đã hồn thiện và phát triển thư viện số thì nhiều thư viện Việt Nam chưa ứng dụng
máy tính và đại bộ phận bắt đầu xây dựng thư viện điện tử.
Điều này là hệ quả của việc nhận thức về giá trị của CHUẨN HĨA - HỘI NHẬP chưa
đúng, mà điển hình nhất là chương trình và chất lượng đào tạo ngành TT-TV khơng đáp
ứng được u cầu phát triền nguồn nhân lực để xây dựng thư viện hiện đại nhằm bắt kịp
nhịp phát triển với cộng đồng thế giới.
Từ khố: thư viện số, nguồn tài ngun điện tử, nguồn nhân lực
ABSTRACT
It is since the late years of the last century when the world’s Information - Library
(Information - Library) thoroughly applied information technology (IT) to automate the
libraries and the electronic resources that the Electronic Library came into being. Since
the early years of this century when "The development of Information - Library is
associated with the development of IT" (Rubin, 2010) became the guiding ideology, the
world’s Information - Library has developed incredibly rapidly. The world entered the


digital age and the digital library came into being. Nowadays, the trend of developing
digital libraries has become a key part of Information - Library operations all over the
world.
Vietnam’s Information – Library has developed slowly compared with that of the
world. Meanwhile, the world’s Information – Library has perfected and developed digital
libraries, not many libraries in Vietnam have had the computer application and the
majority of them have just started creating electronic libraries.
This is a consequence of the misrecognition of the values of STANDARDIZATIONINTEGRATION, the most typical characteristic of which is that the training program and
training quality of Information – Library professionals do not meet the requirements of
human resource development in order to build the modern library to keep pace with the
development of the world’s Information - Library.
Keywords: digital library, electronic resources, human resources
75


Ngày nay, hoạt động TT-TV được
thực hiện trong những Cơ quan thông tin
(Information Agencies) gồm có thư viện,
trung tâm thông tin, trung tâm tài nguyên,
trung tâm học liệu, cơ sở lưu trữ, v.v. bao
gồm trong năm loại hình thư viện: thư viện
quốc gia, thư viện đại học, thư viện chuyên
ngành, thư viện công cộng, và thư viện
trường học. *

cũng phải thay đổi để đáp ứng được yêu
cầu người dùng tin.
Trước hết, phải thay đổi quan niệm
quản lí. Từ quản lí tài liệu là quản lí vật
chất, người thủ thư luôn quan tâm đến kích

cỡ, quy mô, phạm vi, không gian cho đến
quản lí thông tin là quản lí phi vật chất,
người ta chỉ quan tâm đến sự tiện lợi,
nhanh chóng, hiệu quả và nội dung tài liệu.
Người quản lí thông tin không phải chỉ
quan tâm thông tin trong thư viện mình mà
còn thông tin ở bên ngoài. Giai đọan Quản
lí thông tin manh nha từ đó.
Trong giai đoạn này, việc áp dụng máy
tính để tự động hoá các công tác thư viện
và hoạt động thông tin đã làm tăng khả
năng quản lí thông tin rất nhiều. Mạng toàn
cầu Internet với sự ra đời của công nghệ
Web đã tạo nên một cuộc bùng nổ thông
tin. Việc quản lí thông tin thực sự trở thành
một công nghệ trong vai trò quản lí các
hình thức Thư viện điện tử. Những thành
tựu và sự phát triển nhanh chóng của
CNTT đã đưa ngành TT-TV đạt đến đỉnh
cao của quản lí thông tin và khai sinh ra
một ngành mới là Thông tin học. Từ giữa
đầu thập niên 1970, với sự kết hợp chặt chẽ
giữa Thư viện học và Thông tin học, một
ngành học mới ra đời: Khoa học Thông tin
và Thư viện (Library and Information
Science) tồn tại cho đến ngày này mà ta
quen gọi là ngành Thông tin-Thư viện.
Như vậy, việc ứng dụng máy tính và mạng
viễn thông để tự động hóa toàn bộ công tác
thư viện bao gồm việc quản lí tài nguyên

điện tử khai sinh ra Thư viện điện tử trong
giai đoạn này.
• Quản lí tri thức
Thông tin trở nên vô cùng thiết yếu
trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội.
Tuy nhiên nguồn thông tin ngày càng có
khuynh hướng quá tải và hỗn mang, người

Từ đối tượng vật thể (tài liệu in ấn, tài
liệu nghe nhìn) mà nói chung là tài liệu đến
đối tượng đa phương tiện (tài liệu điện tử)
được mang một tên mới tài nguyên
(resources) để chỉ tất cả mọi đối tượng
thông tin truyền thống và hiện đại, ngành
thông tin thư viện đã trải qua ba giai đoạn
phát triển:
• Quản lí tài liệu;
• Quản lí thông tin;
• Quản lí tri thức.
1. BA GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN
NGÀNH KHOA HỌC THÔNG TINTHƯ VIỆN
• Quản lí tài liệu
Giai đoạn này hiện hữu từ thời xa xưa
tương ứng với nghề thư viện. Tuy nhiên ta
chỉ tính mốc thời gian kể từ khi Melvil
Dewey tổ chức trường dạy nghiệp vụ thư
viện đầu tiên tại Đại học Columbia, New
York, Hoa Kỳ vào ngày 01/01/ 1887 khai
sinh ra ngành Thư viện học (Chan, 2007).
Thư viện ngày đó chỉ bao gồm tài liệu in ấn

và chúng ta đã dùng một thuật ngữ quen
thuộc để gọi là Thư viện truyền thống.
• Quản lí thông tin
Thư viện là nơi phản ánh các nền văn
minh; ý niệm thư viện đã trải qua nhiều
giai đoạn và luôn luôn tiến triển để được
thích nghi với mọi tình thế. Nhu cầu tìm
kiếm thông tin ngày càng cao, thư viện
(*)

ThS, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

76


Quản lí thông tin lại phải dựa vào CNTT
để chọn lọc và chỉ phục vụ những thông tin
có ý nghĩa và hữu ích được gọi là tri thức.
Theo kinh tế gia Hoa Kỳ Branscomb, nếu
ví thông tin là bột mì thì tri thức là bánh
mì. Giai đoạn Quản lí tri thức được hình
thành với việc ứng dụng tối đa công nghệ
mới đặc biệt là công nghệ kĩ thuật số –
Công nghệ “chế biến bột mì thành bánh
mì” và chỉ “quản lí bánh mì”. Thư viện số
ra đời nhằm thực hiện công việc đó trong
giai đoạn Quản lí tri thức này.
2. TỪ THƯ VIỆN ĐIỆN TỬ ĐẾN
THƯ VIỆN SỐ

Như trên đã đề cập Thư viện điện tử ra
đời từ khi việc ứng dụng máy tính và mạng
viễn thông cho ngành TT-TV trở nên có
hiệu quả vượt bậc. Đến một lúc chính
ngành TT-TV tự đánh giá rằng “Sự phát
triển ngành TT-TV là gắn liền với sự phát
triển của CNTT”. Điều này được khẳng
đ nh trong hai cuộc hội thảo quốc tế (1)
"Tài nguyên thông tin Thư viện Đại học
cho vốn tri thức Đông Nam Á" tại Thư
viện ĐH Malaya, Kuala Lumpur, Malaysia
năm 1997 và (2) “Quản lí thư viện đại học
trong tương lai” tại ĐH East Anglia,
Norwich, Anh Quốc, năm 1998. Cả hai hội
thảo này đều có một đúc kết chung rằng:
“Nhờ gắn liền với CNTT, thư viện thế giới
nói chung và thư viện đại học nói riêng
đang phát triển với một tốc độ nhanh chưa
từng có”.
Kể từ đó hay chính xác hơn là bắt đầu
thiên niên kỉ này, thư viện thế giới đã xác
đ nh việc chuẩn hoá cao độ để phát triển
đồng bộ và triệt để ứng dụng thành tựu của
CNTT để nhanh chóng phát triển. Hình
thức Thư viện điện tử dần dần chuyển sang
Thư viện số.
Đây là giai đoạn mà người ta cho rằng
“Hiện nay trên thế giới, xu thế phát triển

thư viện số đã trở thành một phần chủ đạo

trong toàn cảnh hoạt động TT-TV, trong
khi phần mềm nguồn mở trở thành một
hiện tượng toàn cầu. Giống như nhiên liệu
và động cơ trong kĩ thuật, nguồn mở và thư
viện số là hai yếu tố không thể tách rời”
(Rhino, 2004).
Thuật ngữ Thư viện điện tử dần dần
biến mất trong những tài liệu về TT-TV
cũng như trong giáo trình giảng dạy ngành
TT-TV. Từ năm 2005 tất cả những từ điển
về Khoa học TT-TV đều không còn có
mục từ Electronic Library – Thư viện điện
tử mà thay vào đó là Digital Library – Thư
viện số.
3. THƯ VIỆN SỐ

3.1. Những khái niệm cơ bản về
Thư viện số
• Kĩ thuật số (Digital): Hay còn được
gọi là Đóng gói thông tin. Chẳng hạn như
trước đây mỗi nhà đều sử dụng cần ăng ten
để bắt đài tivi. Vì tín hiệu tivi là những
sóng điện từ được truyền theo lối liên biến
(analog); ngày nay chúng ta dùng tivi kĩ
thuật số có nghĩa tín hiệu tivi được đóng
gói và truyền theo cáp (cable) nhờ kĩ thuật
số.
Đối với ngành TT-TV, việc đóng gói
thông tin dựa vào công nghệ Web (sử dụng
XML và HTML). Như vậy, khái niệm kĩ

thuật số, đóng gói thông tin, và công nghệ
Web được xem như là một.
• Siêu dữ liệu (Metadata): Siêu dữ
liệu là dữ liệu có cấu trúc do con người tạo
ra để nói đến một dữ liệu khác. Chẳng hạn
như tọa độ của một điểm trên trái đất là
siêu dữ liệu vì đây là một dữ liệu có cấu
trúc được xác đ nh bởi kinh tuyến và vĩ
tuyến là những dữ liệu do con người tạo ra
để nói đến một dữ liệu khác, đó là v trí của
một điểm trên trái đất thật.
Đối với ngành TT-TV ta chỉ quan tâm
77


đến Siêu dữ liệu thư t ch (Bibliographic
Metadata). Siêu dữ liệu thư t ch hoàn toàn
tương đồng với một biểu ghi thư t ch hay
nôm na là một phiếu mục lục. Nó bao gồm
những thông tin thư t ch như tác giả, nhan
đề, chủ đề, từ khoá, vv… Chỉ khác nhau
một điểm duy nhất là: Phiếu mục lục và
cuốn sách thì tách biệt nhau (Phiếu mục lục
thì ở trong tủ phiếu; còn sách thì ở trong
kho). Trong khi đó siêu dữ liệu thư t ch và
nội dung tài liệu đều được đóng gói bằng
Công nghệ Web hay Kĩ thuật số cho nên
không tách biệt nhau. Một khi người dùng
tin có được siêu dữ liệu thì có được nội
dung tài liệu.

• Bộ sưu tập số (Digital Collection)
Tạo nên những bộ sưu tập để xây dựng
Thư viện số. Một bộ sưu tập thông tin bao
gồm nhiều tài liệu dưới nhiều dạng thức
khác nhau: văn bản, hình ảnh, âm thanh,
hình ảnh động. Tài liệu là đơn v căn bản
từ đó sưu tập thông tin được xây dựng. Một
bộ sưu tập có thể chứa nhiều loại tài liệu
khác nhau, tuy nhiên cung cấp một giao
diện đồng nhất qua đó tất cả các tài liệu có
thể được truy cập, mặc dù cách mà tài liệu
đó hiển th sẽ tuỳ thuộc vào phương tiện và
dạng thức của tài liệu đó.
Thông thường bộ sưu tập được tạo nên
từ những Phần mềm nguồn mở.
• Phần mềm nguồn mở (Open Source
Software): Tất cả những phần mềm được
phát triển bởi những nhà thầu hay những
phần mềm thương mại đều là nguồn đóng,
có nghĩa là người phát triển phần mềm nắm
giữ mã nguồn. Trong khi đó phần mềm
nguồn mở là phần mềm tự do, thường là
miễn phí và người sử dụng có được mã
nguồn nên có thể:
• Tự do chạy chương trình với bất cứ
mục đích nào;
• Tự do chỉnh sửa cho phù hợp với yêu

cầu của mình;
• Tự do tái phân phối bản sao để giúp

người khác sử dụng;
• Tự do phát triển chương trình và bán
rộng rãi phần phát triển đó nhằm mang đến
lợi ích chung cho cộng đồng.
3.2. Định nghĩa Thư viện số
Ngày nay người ta quan niệm thư viện
số là sự kết hợp những đối tượng vật chất
được tiếp cận trong không gian vật chất,
với đối tượng điện tử hiện hữu trong không
gian điện tử và có thể được truy cập hầu
như khắp mọi nơi. Cụ thể hơn, thư viện số
ngày nay là sự kết hợp tài nguyên bao gồm
không những tài liệu in ấn truyền thống,
mà còn có cả sách điện tử và tạp chí điện
tử, cơ sở dữ liệu trực tuyến, và những bộ
sưu tập điện tử do thư viện xây dựng hay
do nhà thầu cung cấp từ bên ngoài. Rõ ràng
thư viện như thế là bao gồm giữa thư viện
truyền thống dựa trên tài liệu in ấn với thư
viện điện tử thuần túy.
Theo từ điển “Dictionary for Library
and Information Science” của Joan M.
Reitz (2005) thì: “Thư viện số là một thư
viện trong đó ngoài tài liệu in ấn và tài liệu
dạng thu nhỏ (vi phẩm), có phục vụ độc giả
một tỷ lệ quan trọng tài nguyên dạng máy
đọc được truy cập qua máy tính được gọi là
Tài nguyên số (Digital Resources). Tài
nguyên số có thể là tài liệu nội sinh mà
cũng có thể được truy cập từ xa qua mạng

máy tính. Tiến trình số hoá trong thư viện
bắt đầu từ hệ thống mục lục, chỉ mục tạp
chí và d ch vụ tóm tắt tài liệu, đến ấn phẩm
đ nh kỳ và tài liệu tham khảo, và cuối cùng
là sách in”.
Những khái niệm và đ nh nghĩa thư
viện số như được trình bày ở trên thực chất
là xuất phát từ một nhận thức cách mạng
hoá quan niệm về thư viện rất được th nh
hành ngày nay (Rubin, 2010). Theo đó tất
78


cả những thư viện truyền thống nào có tổ
chức phục vụ một số lượng đáng kể tài
nguyên số thì được gọi là thư viện số.
3.3. Xây dựng Thư viện số
Để xây dựng hay hình thành thư viện
số ngoài việc mua sắm tài nguyên số
thương mại như CSDL trực tuyến, sách
điện tử, tạp chí điện tử, v.v. cũng như liên
kết thư viện để chia sẻ tài nguyên số.
Chuyên viên thư viện phải thực hiện những
công việc sau:
• Số hóa tài liệu
Số hóa là tiến trình chuyển tải tài liệu
thư viện truyền thống, cụ thể là sách và văn
bản in ấn sang dạng điện tử và lưu trữ trên
máy tính.
Có hai giai đoạn trong tiến trình số hóa.

 Giai đoạn đầu: Quét hình – Scanning,
cho ra sản phẩm số hoá dạng hình, thường có
đ nh dạng Bitmap hoặc TIFF.
 Giai đoạn hai: Nhận dạng ký tự quang
học (OCR – Optical Character Recognition).
Là tiến trình cho ra một sản phẩm dạng số hoá
văn bản hay là trang web. Cơ bản là các đ nh
dạng RTF, Word, hoặc HTML.
Trong nhiều hệ thống thư viện số, tài
liệu chỉ ở giai đoạn đầu, nghĩa là những gì
độc giả thấy chỉ là hình ảnh, thường thì
được chuyển sang dạng PDF (Portable
Document Format). Đây là dạng thức dùng
để mô tả trang giấy trong chương tình trao
đổi tư liệu Adobe Acrobat – Phần mềm
Adode Acrobat cần phải được cài đặt ở
máy nhận để tập tin PDF có thể được hiển
th và in ra như dạng gốc. Giai đoạn hai đòi
hỏi phải có phần mềm nhận dạng ký tự
quang học để chuyển tài liệu dạng hình
sang dạng văn bản – là dạng có thể cung
cấp truy cập theo bất kỳ một tổ hợp từ nào
hay bất kỳ kĩ thuật trích dẫn siêu dữ liệu tự
động được đ nh trước. Đồng thời chúng ta

có thể chỉnh sửa trên chính văn bản đó.
Việc số hóa có thể tự thực hiện trong
thư viện hay hợp đồng với nhà thầu bên
ngoài. Số hoá là nhằm tạo lập những bộ
sưu tập số chuyên ngành.

• Xây dựng bộ sưu tập số
Đối với nghiệp vụ biên mục hiện đại,
để xây dựng những bộ sưu tập số thì
chuyên viên thư viện phải Tạo lập Siêu dữ
liệu (Metadata Building) và Gặt hái Siêu
dữ liệu (Metadata Harvesting):
o Tạo lập Siêu dữ liệu: Nhằm tạo lập Bộ
Sưu tập số nội sinh. Nếu trong thư viện
truyền thống, biên mục viên tạo lập phiếu
mục lục hay biểu ghi thư t ch cho độc giả
tra cứu vào vốn tài liệu in ấn trong kho
sách; thì trong Thư viện số, biên mục viên
tạo lập Siêu dữ liệu để độc giả truy cập vào
bộ sưu tập chuyên ngành trongKho số
(Digital repository) đặt tại máy chủ của thư
viện – đó được gọi là tài nguyên số nội sinh.
o Gặt hái Siêu dữ liệu: Nhằm tạo lập
những Bộ sưu tập ảo. Bằng phần mềm
chuyên dụng hay phần mềm nguồn mở,
chuyên viên thư viện tìm kiếm và thu gom
những siêu dữ liệu của những tài liệu phù
hợp với đề tài mình tìm kiếm khắp nơi
trong thế giới mạng để tạo lập những Bộ
sưu tập chuyên ngành chỉ chứa những siêu
dữ liệu.
Đây là hình thức thư viện ảo rất th nh
hành trong thế giới thư viện số ngày nay,
đặc biệt là trong những thư viện đại học.

3.4. Thư viện số với vấn đề bản quyền

Sưu tầm thông tin và làm cho thông tin
đó trở nên phổ biến hơn đối với người khác
là một điều liên quan đến vấn đề xã hội.
Những người xây dựng thư viện số phải am
hiểu quyền sở hữu trí tuệ để hành động một
cách có trách nhiệm và đúng luật xung
quanh những ứng dụng cụ thể của mình.

79


- Thư viện số có thể làm cho việc truy
cập trở nên rộng rãi hơn thư viện truyền
thống. Việc truy cập này mang những đặc
trưng:
- Truy cập thông tin trong thư viện số
nói chung ít b kiểm soát hơn tiếp cận sưu
tập in ấn trong thư viện truyền thống;
Đưa thông tin vào thư viện số là có khả
năng làm cho thông tin đó trở nên phổ biến
ngay đối với một số lượng độc giả hầu như
vô hạn.
Muốn xây dựng thư viện số thì phải số
hoá tài liệu. Bản quyền chính là yếu tố
quan trọng nhất mà chúng ta cần chú ý đặc
biệt. Một số vấn đề cần xem xét trước khi
quyết đ nh số hoá tài liệu:
- Nếu tác phẩm được số hóa ở miền
cộng (không có bản quyền) thì không phải
xin phép. Dĩ nhiên kết quả số hoá của chúng

ta cũng không được bảo vệ bản quyền, trừ
phi kết quả của ta nhiều hơn bản gốc;
- Nếu tài liệu được tặng cho cơ sở của
ta để số hóa và người tặng có bản quyền,
thì chúng ta tiến hành số hoá, tuy nhiên cần
phải yêu cầu người tặng cung cấp cho mình
quyền được số hoá – có thể bằng một mẫu
giấy có ghi “quyền sử dụng tác phẩm với
bất kỳ mục đích chung của cơ sở, dưới bất
kỳ phương tiện nào”.
Nếu muốn số hoá tài liệu mà không rơi
vào hai trường hợp trên thì ta phải cân nhắc
thử việc số hóa của chúng ta có phải là một
việc làm có lợi ích chung mà không xâm
phạm lợi ích của người khác. Đây là một
điều khó về mặt pháp lí. Cuối cùng nếu
chúng ta không chắc chắn với điều cân
nhắc trên thì ta phải tiến hành xin phép để
được cấp phép thực hiện số hóa.
Tóm lại, để tiến hành xây dựng thư
viện số, ta phải lưu ý đến vấn đề bản
quyền. Những người thực hiện phải cam
kết hiểu biết đầy đủ về bản quyền và nhận

thức sâu sắc rằng giấy phép là rất cần thiết
để chuyển đổi tài liệu không thuộc miền
công cộng.
4. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG THƯ VIỆN SỐ
Ở VIỆT NAM
Việc đánh giá “Sự phát triển ngành TTTV là gắn liền với sự phát triển của CNTT”

đã trở thành tư tưởng chỉ đạo đối với cộng
đồng thư viện thế giới trong việc nhanh
chóng phát triền ngành TT-TV nói chung và
hình thành thư viện số nói riêng. Từ đó, rất
nhiều đổi mới trong ngành TT-TV được
thực hiện, mà đổi mới cơ bản nhất là đào
tạo. Hầu hết những cơ sở đào tạo ngành TTTV đều được chuyển sang giảng dạy trong
môi trường CNTT hay kĩ thuật. Chẳng hạn
như ĐH Tin học Brighton, Anh Quốc; ĐH
Kĩ thuật Nangyang, Singapore, ĐH Thương
mại điện tử Victoria, New ealand, v.v.
Ở Hoa Kỳ thì người ta đưa CNTT vào
trường TT-TV. Nói chung chương trình đào
tạo ngành TT-TV phải đặt nặng CNTT
nhằm đào tạo đội ngũ chuyên viên thư viện
am hiểu CNTT để đảm đương vai trò
“Đứng giữa lãnh đạo và nhà thầu” trong
công việc hiện đại hoá thư viện.
Ở Việt Nam, việc phát triển ngành TTTV nói chung và thư viện số nói riêng gặp
nhiều khó khăn. Những khó khăn cơ bản
như sau:
4.1. Chậm đổi mới
Theo nhà thư viện học người Nga danh
tiếng v.v. Xcvortxov, trong giáo trình “Thư
viện học đại cương”, được giảng dạy tại
Nga, thì nền Thư viện học thế giới được
chia thành 5 giai đoạn. Theo đó, ở giai
đoạn (4) bước sang thế kỉ XX đã hình
thành một sự phân đôi giữa thư viện học
Xã hội chủ nghĩa và thư viện học Tư bản

chủ nghĩa; đến nay (thế kỉ XXI) là giai
đoạn hợp nhất (5) – Giai đoạn của sự phát
triển thư viện như một môn khoa học thống
80


nhất gắn liền với công nghệ thông tin.
Ngành TT-TV Việt Nam đã từng phát
triển theo hướng thư viện Xã hội chủ
nghĩa, cụ thể là theo Liên Xô cũ, thì trong
giai đoạn hợp nhất hiện nay gặp nhiều khó
khăn trong vấn đề nhận thức về sự chuẩn
hoá và đổi mới nghiệp vụ do đó chậm phát
triển. Bản thân ngành TT-TV Nga đã
nhanh chóng thay đổi và hội nhập với công
đồng thư viện thế giới.
Công đồng thế giới ngày nay đang phát
triển theo khuynh hướng toàn cầu hoá.
Chính sách của Đảng và Nhà nước ta là mở
cửa. Nếu chúng ta không hội nhập thì chúng
ta sẽ b đào thải hoặc chậm phát triển. Khoa
học kĩ thuật và những ngành tác động trực
tiếp đến đời sống xã hội như Ngân hàng,
Kinh tế, Kiểm toán, vv… thì chúng ta thấy
ngay sự cần thiết của chuẩn hóa.
Ngành TT-TV ít được quan tâm và bản
thân những người trong ngành, thậm chí
đầu ngành không nhận thức sâu sắc rằng
“Sự phát triển ngành TT-TV là gắn liền với
sự phát triển của CNTT”, mà chỉ xem

CNTT như là một ứng dụng bình thường
như những ngành nghề khác. Điều này
được thể hiện trong chương trình đào tạo
ngành TT-TV là ít chú trọng đến CNTT đây là điều cần thiết để hình thành “Tư duy
công nghệ mới ngành nghề” và trang b
kiến thức và kĩ năng CNTT cho sinh viên
vì ngành TT-TV ngày nay là ứng dụng triệt
để công nghệ mới. Đã có một phát biểu
được nhắc đến nhiều trong những sách và
giáo trình cũng như những bài báo về
chuyên ngành TT-TV hiện nay rằng “Công
nghệ WEB là công nghệ hiện tại và tương
lai của ngành TT-TV”. Ngoài ra chính sức
ì tâm lí và bảo thủ cũng đã tác động đến
việc nhận thức về chuẩn hoá dẫn đến việc
chậm đổi mới như hiện nay. Ai cũng biết
rằng “Đổi mới là khó khăn” nhưng đặc biệt

trong ngành TT-TV “Đổi mới là chìa khoá
đi vào tương lai” (Lesli Burger, 2006).
4.2. Thiếu nguồn nhân lực quản lí
thư viện số
Khó khăn ở trên là nguyên nhân dẫn
đến khó khăn thứ hai. Vì chương trình đào
tạo ngành TT-TV hiện nay thiếu cập nhật
và hệ lụy là Chương trình đào tạo này chỉ
đáp ứng nhu cầu không thay đổi trong một
xã hội đang thay đổi từng ngày. Chúng ta
có nhiều cơ sở đào tạo, nhưng vẫn thiếu
trầm trọng nguồn nhân lực để quản lí thư

viện số nói riêng và để đáp ứng nhu cầu
phát triển thư viện theo hướng chuẩn hoá –
hội nhập nói chung.
Trong cố gắng để khả dĩ khắc phục
được tình trạng trên, Khoa Thư viện của
Trường ĐH Sài Gòn đã xây dựng và giảng
dạy một chương trình theo phương châm
“Vừa đáp ứng nhu cầu vừa làm thay đổi
nhu cầu xã hội”. Chương trình giảng dạy
này hầu như hoàn toàn đổi mới dựa theo
những tiêu chí đào tạo như sau:
• Khoa học thực hành;
• Gắn liền với Công nghệ thông tin;
• Chuẩn hoá cao độ.
Đã có một bài viết để giới thiệu
chương trình đào tạo này trong Tạp chí Đại
học Sài Gòn số 1 (9/2009), tr. 129 với tựa
đề “Một chương trình đào tạo ngành Thư
viện Thông tin vừa đáp ứng nhu cầu vừa
làm thay đổi nhu cầu xã hội”.

4.3. Phát triển thiếu đồng bộ và
lãng phí
Rõ ràng khó khăn thứ nhất và khó khăn
thứ hai đã đưa đến khó khăn trực tiếp trong
việc hiện đại hoá thư viện Việt Nam hiện nay.
• Đại bộ phận thư viện chưa có điều
kiện hiện đại hoá và xây dựng thư viện số
thì vẫn loay hoay với những giá tr cũ
(Mục lục phân loại, Phân loại 19 dãy, v.v.).

Đúng ra thì nên thay đổi những chuẩn thư
81


t ch (bibliographic standards) theo hướng
chuẩn hóa, hội nhập với những chuẩn quốc
tế để chuẩn b cho việc tự động hóa với
những chuẩn đó.
• Một số thư viện có điều kiện hiện đại
hoá, trong số đó có những thư viện lớn,
tiêu tốn rất nhiều tiền trong những dự án
hiện đại hóa thư viện. Những thư viện này
hoàn toàn giao phó mọi công việc cho nhà
thầu và chuyên viên CNTT. Mỗi thư viện
được xây dựng theo một kiểu khác nhau,
không hề có ý kiến của chuyên viên thư
viện về chuẩn nghiệp vụ thư viện. Một
minh chứng rõ ràng là những phần mềm
quản lí thư viện mà cụ thể là phần tra cứu
mục lục trực tuyến (MLTT) của những
công ty trong nước đã phát triển theo ý đồ
“cao siêu” của chuyên viên CNTT mà hầu
như không tuân thủ chuẩn nghiệp vụ cơ
bản của ngành TT-TV là xây dựng MLTT
là tự động hoá mục lục thủ công phải dựa
theo hệ thống mục lục tiêu đề (tác giả,
nhan đề, chủ đề). Tình trạng này là phổ
biến. Các thư viện này chủ yếu là mua sắm
những thiết b hiện đại đắt tiền rồi “trùm
mền”. Rõ ràng việc làm này chỉ có lợi cho

nhà thầu và những người có liên quan đến
dự án hơn là làm lợi cho chính những thư
viện đó và nhất là sự phát triển ngành TTTV nước nhà.
Trong công việc hiện đại hóa thư viện
nói chung và xây dựng thư viện số nói
riêng, vai trò người cán bộ thư viện quyết
đ nh sự thành công chứ không phải chỉ lệ
thuộc vào công nghệ. Sự phát triển thiếu
đồng bộ và lãng phí hiện nay là do bản
thân đội ngũ cán bộ và chuyên viên thư
viện không phát huy khả năng yêu cầu nhà

kĩ thuật phục vụ mình tới nơi tới chốn mà
chỉ lệ thuộc vào nhà thầu.
5. KẾT LUẬN
Từ những năm cuối thế kỉ trước, khi
ngành TT-TV thế giới ứng dụng triệt để
CNTT để tự động hóa thư viện và phát
triển nguồn tài nguyên điện tử thì Thư viện
điện tử ra đời. Bắt đầu những năm đầu thế
kỉ này, “Sự phát triển ngành TT-TV là gắn
liền với sự phát triển của CNTT” đã trở
thành tư tưởng chỉ đạo thì ngành TT-TV
thế giới đã phát triển với một tốc độ nhanh
chưa từng có. Thế giới bước vào kỉ nguyên
số và Thư viện số ra đời. Ngày nay trên thế
giới, xu thế phát triển thư viện số đã trở
thành một phần chủ đạo trong toàn cảnh
hoạt động TT-TV.
Ngành TT-TV Việt Nam phát triển

chậm so với cộng đồng thế giới.Trong khi
cả thế giới đã hoàn thiện và phát triển thư
viện số thì nhiều thư viện Việt Nam chưa
ứng dụng máy tính và đại bộ phận bắt đầu
xây dựng thư viện điện tử.
Tuy nhiên có một số thư viện đã và
đang tiến hành phát triển thư viện số. Một
số thư viện tiến hành nghiêm túc, nhưng đa
số là phát triển thiếu đồng bộ và lãng phí.
Công việc trọng đại này đều phó mặt cho
nhà thầu và chuyên viên CNTT mà không
có ý kiến của chuyên viên TT-TV.
Điều này là hệ quả của việc nhận thức
về giá tr của CHUẨN HÓA - HỘI NHẬP
chưa đúng, mà điển hình nhất là chương
trình và chất lượng đào tạo ngành TT-TV
không đáp ứng được yêu cầu phát triền
nguồn nhân lực đề xây dựng thư viện hiện
đại nhằm bắt k p nh p phát triển với cộng
đồng thế giới.

82


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

ANDERSON, Elaine, GOSLING, Marry và MORTIMER, Marry (2007),
Learn Basic Library Skills, 4th edition - Canberra: DocMatrix, Pty Ltd.


2.

CHAN, Lois Mai (2007), Cataloging and Classification: An Introduction,
4th edition- New York: McGraw-Hill, Inc.

3.

Trường Đại học Sài Gòn, Khoa Thư viện Thông tin - TP HCM (2008), Chương trình
giáo dục đại học. Ngành đào tạo: Thư viện Thông tin. Trình độ đào tạo: Đại học.

4.

LESK, Michael (2000), Practical Digital Libraries: Books, Bytes, and Bucks,
San Francisco: Morgan Kaufmann.

5.

Nguyễn Minh Hiệp (2008), Cơ sở khoa học thông tin và thư viện, TP. HCM,
Nxb Giáo dục.

6.

REITZ, Joan M (2005), Dictionary for Llibrary and Information Science, Westport,
Connecticut: Libraries Unlimited.

7.

RUBIN, Richard E (2010), Foundations of Llibrary and Information Science, 3rd
edition. – New York: Neal – Schuman Publishers, Inc.


8.

RHINO, Art (2004), Using Open Source Systems for Digital Libraries, Westport,
Connecticut: Libraries Unlimited.

9.

WITTEN, IanH. và BAIBRIDGE, David (2003), How to Build a Digital Library New York: Morgan Kaufmann.

10.

Nguyễn Minh Hiệp chủ biên (2013), Thư viện và nghề thư viện, TP HCM: Văn hóa
Thông tin.

11.

XCVORTXOV, V.V. (2004), Thư viện học đại cương, Phần 1: Những cơ sở lí thuyết
của Thư viện học / Nguyễn Th Thư d ch, Hà Nội: Văn hóa Thông tin.
* Ngày nhận bài: 7/1/2014. Biên tập xong: 20/5/2014. Duyệt đăng: 22/5/2014

83



×