Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Văn hoá – một công cụ trong chính sách thực dân mới của Mĩ ở Việt Nam giai đoạn từ 1954 đến 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.16 KB, 6 trang )

TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 9 - Tháng 4/2012

VĂN HỐ – MỘT CƠNG CỤ TRONG CHÍNH SÁCH THỰC DÂN
MỚI CỦA MĨ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1954 ĐẾN 1975
TRẦN THỊ KIM OANH(*)

TĨM TẮT
Trong q trình tiến hành chiến tranh tại Việt Nam, nhằm biến miền Nam Việt Nam
thành thuộc địa kiểu mới, đế quốc Mĩ đã sử dụng văn hố như một cơng cụ đắc lực và hữu
hiệu để tạo ra nơi đây một lối sống “gấp”, sống chỉ biết hưởng thụ, nhằm nơ dịch về văn
hố và hủy hoại những giá trị văn hố truyền thống. Giá trị văn hố được Mĩ áp dụng
trong cuộc chiến tranh Việt Nam là thứ văn hố mị dân, chính yếu tố văn hố đó đã tác
động khơng nhỏ đến xã hội miền Nam Việt Nam thời kì bấy giờ.
Từ khố: văn hố, giá trị truyền thống, cơng cụ, nơ dịch, miền Nam Việt Nam
ABSTARCT
During the Vietnam war, with the purpose of turning Vietnam into a new colony, the
U.S.A used culture as a capable and effective tool which created a rushing “quick”
lifestyle of enjoying life to subjugate and destroy the values of the traditional culture. They
also used a kind of demagogic culture whose impact on Vietnamese society in the South of
Vietname at that time was considerable.
Key words: culture, traditional values, tool, neocolonialism, subjugate, Southern
Vietnam
Văn hố là một khái niệm rộng, là nền
tảng tinh thần của xã hội, là một mặt trận,
là mục tiêu phát triển của xã hội. Theo Hồ
Chí Minh, văn hố được hiểu “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi
người mới sáng tạo và phát minh ra ngơn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa


học, tơn giáo, văn học, nghệ thuật, những
cơng cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hố”(Hồ Chí Minh tồn tập,tr.431). Theo
đó, văn hố ở đây được hiểu là sự phát
triển, là sản phẩm con người tạo ra trong
q trình lao động và hưởng thụ cuộc sống,
nhằm mục đích sinh tồn. Văn hố được

hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. Văn hố mang nghĩa rộng được hiểu
“là tồn bộ phức hệ bao gồm hiểu biết, tín
ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp,
phong tục tập qn và những khả năng và
tập qn khác mà con người có được với tư
cách là một thành viên của xã hội”- theo
Taylor. Giá trị văn hố theo nghĩa hẹp
được hiểu là những giá trị tinh thần đặc thù
của một quốc gia dân tộc nhằm có sự phân
biệt giữa quốc gia dân tộc này với dân tộc
khác. Theo đó, văn hố ở góc độ nghĩa hẹp
được UNESCO định nghĩa như sau: “Văn
hố đó là tổng thể sống động các hoạt động
sáng tạo của con người diễn ra trong q
khứ cũng như diễn ra trong hiện tại. Qua
hàng thế kỉ các hoạt động sáng tạo ấy đã
cấu thành nên một hệ thống các giá trị,

(*)


CN, Trường ĐH Kĩ thuật Cơng nghệ Thành phố
Hồ Chí Minh

62


truyền thống thị hiếu thẩm mĩ và lối sống
mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định
bản sắc riêng của mình”.
Như vậy, xét ở góc độ văn hoá theo cả
định nghĩa rộng và hẹp, văn hoá ở đây
được hiểu ở mỗi dân tộc dù có trình độ
phát triển cao hay thấp thì đều có những
giá trị đặc trưng riêng của mình. Việt Nam
mặc dù trải qua quá trình dài đấu tranh
chống chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, nhưng
giá trị văn hoá truyền thống không vì thế
mà nhạt phai, ngược lại ngày càng dày lên
theo thời gian. Yếu tố truyền thống trong
văn hoá Việt Nam là một yếu tố giàu giá trị
mà giống như giáo sư Trần Văn Giàu đã
từng nói “Giá trị truyền thống được hiểu là
là những cái tốt, bởi vì những cái tốt mới
được gọi là giá trị. Thậm chí không phải
bất cứ cái gì tốt đều được gọi là giá trị mà
phải là cái tốt cơ bản, phổ biến, có nhiều
tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự
hướng dẫn nhất định, đánh giá và dẫn dắt
hành động của một dân tộc thì mới mang

đầy đủ ý nghĩa của khái niệm “giá trị
truyền thống”. Khái quát lại, yếu tố văn
hoá truyền thống của Việt Nam nói riêng
phải được ra đời trên một nền tảng dân tộc,
bền lâu và phải đảm bảo được các đặc tính
như: Tính giá trị, tức là đánh giá được các
giá trị chuẩn mực, thước đo cho hành vi
đạo đức và giá trị ứng xử giữa con người
với nhau trong một cộng đồng dân tộc.
Trong quá trình phát triển của Việt Nam,
giá trị văn hoá truyền thống này đã đóng
một vai trò lớn, phân biệt cho con người
Việt Nam biết phải trái, đúng sai hướng
đến cuộc sống cộng đồng chung. Giá trị
tiếp theo là tính lưu truyền. Tức là, cùng
với sự phát triển của dân tộc là sự ra đời
của các giá trị truyền thống phát triển song
song với chiều dài phát triển lịch sử. Giá trị
đó được truyền tiếp qua nhiều thế hệ và

ngày càng phát triển phù hợp với xã hội
Việt Nam. Cuối cùng, giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc là phải đảm bảo
được tính ổn định, nghĩa là giá trị văn hoá
truyền thống như Việt Nam nói riêng phát
triển qua nhiều thế hệ khác nhau càng được
tinh lọc và phát triển, hướng đến những giá
trị cao nhất là chân thiện mĩ và được thừa
nhận. Như vậy, lúc này giá trị văn hoá
truyền thống ở đây đóng vai trò khuôn mẫu

có định hướng dưới dạng phong tục tập
quán, giá trị nghệ thuật hay các nghi lễ dân
tộc, yếu tố luật pháp. Tóm lại, giá trị văn
hoá truyền thống vốn có của Việt Nam
phải là những yếu tố văn hoá đảm bảo các
đặc tính trên, trong đó giá trị truyền thống
đóng vai trò vừa là góp phần gìn giữ suy
tôn các giá trị mang tính nền tảng cho sự
phát triển dân tộc, theo đó giá trị truyền
thống chính là thước đo mang tính tích cực
cho sự phát triển của xã hội. Ngược lại, yếu
tố văn hoá truyền thống Việt Nam còn là
nơi dung dưỡng, duy trì các giá trị bảo thủ
trì trệ, làm chậm đi sự phát triển của một
yếu tố thức thời ồ ạt. Yếu tố truyền thống
của dân tộc Việt Nam đựơc đánh giá ở đây
chính là một bộ phận tích cực đối với từng
giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam, Mĩ sử dụng nhiều chính sách về văn
hoá, nhằm biến văn hoá thành một trợ thủ
đắc lực cho mục tiêu của mình. Tuy nhiên,
những giá trị văn hoá thực dân được Mĩ áp
dụng là thứ văn hoá “ăn xổi ở thì”, văn hoá
ở đây chỉ mang tính chất hưởng thụ tức thời
và mị dân cao cấp, điều đó hoàn toàn đi
ngược với nguồn gốc, giá trị văn hoá truyền
thống của người Việt. Là một đất nước phát
triển về kinh tế và tự do trong cuộc sống,
Mĩ đang mang trong mình nhiều giá trị văn

hoá tiến bộ từ tư tưởng đến hệ thống giáo
dục cho tới vận dụng những giá trị thành
63


tựu vật chất vào đời sống con người để làm
giàu lên giá trị hưởng thụ. Đó là sự phát
triển những loại hình văn học, nghệ thuật,
tôn giáo, tư tưởng, tính dân chủ… Đi theo
sự phát triển nên Mĩ dễ dàng áp dụng
những bề nổi của thành tựu văn hoá đó vào
một đất nước còn nghèo nàn lạc hậu như
Việt Nam lúc bấy giờ.
Với tư tưởng nổi trội của người Mĩ là
thực chứng, những giá trị tin dùng của họ là
những lí thuyết đã qua sự kiểm chứng, đó là
lí do vì sao Mĩ rất khôn khéo khi sử dụng
văn hoá như là công cụ đắc lực cho việc
thôn tính Việt Nam. Quy luật chung của các
nước trong chiến tranh là mang toàn bộ sức
mạnh vào cuộc chiến từ sức mạnh quân sự
cho đến kinh tế chính trị và văn hoá. Bởi
vậy, thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược
thực dân mới tại Việt Nam, Mĩ cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Mĩ đã sử dụng các
giá trị văn hoá của họ như một công cụ đắc
lực và hữu hiệu, như một biện pháp chiến
lược giống quân sự, phối hợp cùng các biện
pháp kinh tế, các chiêu sách về chính trị
trong chiến tranh. Nếu quân sự, chính trị,

kinh tế là các biện pháp tác chiến chiến
lược đánh trực tiếp đối phương, thì văn hoá
là biện pháp tác chiến chiến lược lợi hại tác
động đến tinh thần, tư tưởng nhận thức của
phần đông người dân trong xã hội, nó là
nhu cầu cuộc sống phù hợp với sự phát
triển tự nhiên của con người.
Xét cho cùng, mục đích chính của cuộc
chiến tranh mà Mĩ thực hiện tại Việt Nam
nhằm chống lại sự phát triển của Chủ nghĩa
Cộng sản, thôn tính được Việt Nam và biến
Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mĩ
tại khu vực Đông Nam Á. Mĩ muốn xóa
nhoà ý thức dân tộc bao đời nay của người
Việt Nam, làm lu mờ giá trị giữa ý thức dân
tộc và giai cấp, gieo rắc tư tưởng tôn sùng
sức mạnh vật chất, làm tê liệt ý chí chiến

đấu và tạo sự đồng tình ủng hộ đối với
chính quyền tay sai. Vì thế, yếu tố văn hoá
Mĩ đưa vào là rất khôn khéo, kiên trì và
công phu. Cụ thể, Mĩ cho du nhập vào miền
Nam Việt Nam tất cả các trào lưu văn hoá,
hình thành nên một loại hình văn hoá gọi là
“văn hoá chợ trời”, trong đấy mỗi người có
thể tự tìm thấy cho mình một món ăn tinh
thần mà mình thích nhất. Ngoài ra, dựa trên
lối suy nghĩ điều kiện vật chất có thể điều
khiển được con người và cột chặt con người
vào guồng quay của nó, vậy nên Mĩ cũng ra

sức đầu tư của cải vật chất dưới hình thức
viện trợ kinh tế phát triển đất nước. Như
vậy, song song với các chính sách như diệt
chủng về mặt quân sự, áp đặt về mặt chính
trị, Mĩ còn tiến hành cả chính sách diệt
chủng về văn hoá, nghĩa là bằng những
chiêu sách văn hoá đưa ra, Mĩ muốn biến
những con người miền Nam Việt Nam
thành nô lệ tự nguyện.
Áp đặt văn hoá tự do kiểu Mĩ vào
trong văn hoá Việt Nam, phổ biến lối sống
dân chủ vào đời sống vốn bình dị của họ,
cũng chính là mở ra một cuộc “chiến tranh
cục bộ” về văn hoá, tạo nên một cuộc chiến
tranh mang dáng dấp ý thức hệ mới bằng
những công cụ và vũ khí văn hoá. Vì vậy,
Mĩ ồ ạt đổ vào miền Nam Việt Nam ngày
càng nhiều vật phẩm văn hoá không chỉ là
sách vở, tài liệu, ấn phẩm, mà còn cả khối
lượng lớn và chủng loại phong phú các
hàng hoá tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu đời
sống vật chất và tinh thần của người dân.
Một khối lượng hàng hoá khổng lồ được đổ
vào miền Nam Việt để nô dịch về kinh tế,
thông qua đó để tạo cái bóng văn hoá của
Mĩ. Nghĩa là bằng hình thức nô dịch về văn
hoá thông qua giá trị kinh tế Mĩ đã tạo nên
khu vực này một sự phồn vinh mang tính
chất giả tạo, sự phát triển văn hoá xã hội
gắn liền với kinh tế Mĩ vì nếu Mĩ ngừng

64


cung cấp thì ở nơi đó lại nhanh chóng trở
lại tình trạng đói rách tiêu điều. Đó là một
sự phát triển đi ngược với quy luật của xã
hội và sự phát triển văn hoá truyền thống
khi sự phát triển văn hoá không đi đôi với
một nền kinh tế bền vững.
Lối sống Mĩ được thổi vào Việt Nam
làm bùng lên sự ham thích tiêu dùng về vật
chất, hướng tính cách con người Việt vào
guồng quay của sự đam mê hưởng thụ,
biến tiện nghi vật chất từ chỗ phục vụ lợi
ích con người thì lại trở thành mục tiêu
khẳng định mình buộc con người phải
hướng tới dù bằng mọi giá. So sánh với
yếu tố truyền thống thì điều này đã làm
băng hoại giá trị con người Việt Nam. Yếu
tố văn hoá Mĩ áp dụng đang đánh vào tâm
lí chung của con người, tức là khi thoả mãn
một số nhu cầu về vật chất mà nhu cầu đó
chỉ là ảo tưởng, chỉ thoả mãn giá trị ham
muốn nhất thời thì kết quả con người sẽ
biến thành một thứ “phản xạ có điều kiện”
phụ thuộc vào thứ vật chất ảo tưởng đó.
Như vậy, đời sống người dân ở miền Nam
Việt Nam càng đi sâu vào cuộc sống hưởng
thụ hào nhoáng càng bị cột chặt vào viện
trợ Mĩ, tạo điều kiện tâm lí “thích Mĩ” và

mất đi tính độc lập vốn có. Mô hình chung
kinh tế đi đôi với văn hoá đã trở thành một
thứ xiềng xích, một thứ nô lệ kiểu mới làm
mê muội con người và băng hoại ý thức
dân tộc, lí tưởng và đạo đức, buộc người
dân miền Nam Việt Nam hòa nhập vào chế
độ thực dân mới nằm trong chiến lược
“chiến tranh không súng đạn” của Mĩ.
Ngoài ra, để làm lu mờ các giá trị văn
hoá truyền thống Việt Nam, Mĩ còn thực
hiện trên đất nước này chính sách văn hoá
tư tưởng theo kiểu “cách mạng nhàn rỗi đi
theo cách mạng tiêu dùng”(3, tr.143). Bởi
khi nói đến nô dịch về văn hoá, không thể
không nói đến các phương tiện chuyên chở

các loại hình văn hoá ấy, đó chính là các
phương tiện thông tin đại chúng và truyền
thông. Ngoài những giá trị hưởng thụ vật
chất thiết thực như ăn, mặc… thì Mĩ hướng
người dân vào những thứ văn hoá tinh thần
mới như: đọc, xem, ca kĩ, giải trí thông qua
vô tuyến, truyền hình, truyền thanh.
Nếu như những giá trị văn hoá giải trí
tinh thần đều mang ý nghĩa tốt đẹp, thì đó
là điều không phải bàn, tuy nhiên điều
đáng nói ở đây chính là sự luồn lách rất
khéo, không mang tính lộ liễu hay áp đặt
một thứ văn hoá “phản văn hoá”, đã tác
động mạnh đến những con người nhẹ dạ,

đua đòi tiếp thu “lối sống Mĩ” một cách
kệch cỡm. Quần chúng nhân dân bị “Mĩ
hoá” thông qua thế giới ca nhạc, điện ảnh
là một thủ đoạn tinh vi mà đạt hiệu quả
cao. Như vậy, mặt trái của các loại hình
văn hoá ấy đã tác động mạnh mẽ đến xã
hội miền Nam Việt Nam, làm ảnh hưởng
tiêu cực đến một bộ phận dân cư rất lớn,
biến nơi đây trở thành nơi xảy ra nhiều tệ
nạn xã hội như cướp bóc, đĩ điếm. Nói một
cách sâu xa hơn, những yếu tố văn hoá ấy
ít nhiều đã làm làm băng hoại những giá trị
văn hoá truyền thống của người Việt.
Cũng nhằm mục đích phục vụ cho các
chiến lược của Mĩ trong thời kì chiến tranh
Việt Nam, Mĩ lập ra nhiều tập đoàn cố vấn
về quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá tại
Việt Nam. Cụ thể, Mĩ cho xây dựng nhiều
tổ chức văn hoá thông tin như: sở thông tin
Hoa Kì (U.S.I.S), cơ quan phát triển quốc
tế Hoa Kì (U.S.A.I.D), trung tâm tình báo
Hoa Kì (C.I.A), bộ phận tiếp vận đài tiếng
nói Hoa Kì… Mỗi bộ phận đảm nhận một
chức năng riêng, nhưng không nằm ngoài
mục tiêu chung là sử dụng nó như một
công cụ để xâm chiếm về mặt văn hoá.
Ngoài các trung tâm đó, Mĩ còn thực hiện
tác động trên lĩnh vực văn hoá thông tin
65



thông qua các tổ chức văn hoá tư nhân, như
trung tâm nghiên cứu quốc tế thuộc viện kĩ
thuật Mat-sa-su-set-tơ, Viện nghiên cứu
Hút-sơn… Các tập đoàn này ra đời nhằm
hướng hoạt động vào mục tiêu phục vụ
chính sách của Mĩ ở Việt Nam, bằng cách
kí kết hợp đồng thực hiện hoặc tài trợ cho
các công trình do chúng tiến hành.
Đồng thời, ngay từ khi vào Việt Nam,
Mĩ thực hiện chính sách thu hồi chủ quyền
đại học từ tay người Pháp, cải tổ chương
trình giáo dục, phát triển bình dân học vụ,
phát triển chương trình du học tu nghiệp và
du học ngoại quốc tại nhiều nước như Úc
đại lợi, Tây Đức, Nhật Bản, Đài Loan và
nhất là Hoa Kì. Không phủ nhận nhiều giá
trị văn hoá Mĩ đã đáp ứng được nhu cầu
thiết yếu và tạo giá trị thiết thực, ví dụ sự
nâng cao về chất lượng giáo dục, cơ sở
thông tin truyền thông, đưa người dân đến
gần hơn và tiếp cận được với những giá trị
văn minh của cuộc sống. Tuy nhiên, xét
cho cùng những giá trị văn hoá Mĩ đưa vào
đó cũng chỉ là một công cụ, một chiến lược
cấu thành hoàn chỉnh trong âm mưu thôn
tính Việt Nam bên cạnh các chiến lược về
kinh tế, quân sự, chính trị. Sự phát triển về
văn hoá nhưng kèm theo những giá trị làm
tha hoá con người vì thế mà hướng con

người chỉ biết đến những giá trị trước mắt,
giá trị hào nhoáng bên ngoài là đi ngược
với yếu tố văn hoá truyền thống của dân
tộc. Lấy yếu tố văn hoá mới để làm lu mờ
hoặc xóa bỏ văn hoá cũ là hoàn toàn không
thể chấp nhận. Những thứ văn hoá “phản
văn hoá” đã bộc lộ rõ nét mục đích mị dân
và phản động của văn hoá thực dân mới Mĩ.
Đó là những lí do để người Việt Nam, dù ở
bên nào trong cuộc chiến, dù có lúc nhận
thấy cái văn minh hơn, hiện đại hơn của
văn hoá Mĩ, cuối cùng tất cả vẫn phải tẩy
chay văn hoá Mĩ, vẫn chống Mĩ xâm lược.

Một vài giá trị văn hoá như một cuốn
phim, một cuốn truyện có thể tạo ra sự phù
phiếm trước mắt, một cuốn phim có thể
làm giảm mệt mỏi hay tạo sự giải trí thoát
ly trong chốc lát nhưng không dễ gì thay
thế được những tuồng, cải lương, những
giá trị văn hoá dân tộc đã trường tồn nhiều
thế kỉ trong tâm thức của con người vốn rất
yêu nước và tự tôn dân tộc cao như người
Việt Nam. Bởi vậy, sự tẩy chay thứ văn
hoá không phù hợp ấy để bảo vệ giá trị
truyền thống của dân tộc là hoàn toàn hợp
lí, bởi lẽ đó là cả sinh mệnh văn hoá không
phải tức thời sản sinh ra được.
Xét cho cùng, thực chất những biện
pháp văn hoá mà thực dân Mĩ áp dụng tại

miền Nam Việt Nam thời kì chiến tranh
Việt Nam chỉ là yếu tố hình thức. Lấy yếu
tố văn hoá che mờ cốt lõi và luồn vào đó là
âm mưu thôn tính dân tộc một cách toàn
diện, áp đặt tư tưởng Mĩ lên toàn bộ hệ
thống xã hội miền Nam Việt Nam, bài trừ
những giá trị văn hoá truyền thống xây
dựng bao đời của người dân nơi đây. Đối
với một đất nước còn nghèo nàn lạc hậu và
chưa phát triển như Việt Nam thời kì bấy
giờ, yếu tố văn hoá mới kiểu Mĩ với những
chính sách hiện đại được đánh giá như là
một luồng gió mới, làm tha hoá một bộ
phận người dân. Điều quan trọng là đi cùng
– phối hợp cùng các biện pháp văn hoá đó,
Mĩ áp dụng nhiều biện pháp chiến lược tàn
bạo về chính trị, quân sự. Bom đạn, chất
độc hoá học, bắt bớ giam cầm, giết chóc
tàn bạo… được áp dụng trong suốt các thời
kì chiến tranh. Chính sự xâm lược của Mĩ
càng làm thức tỉnh mạnh mẽ tinh thần dân
tộc của phần lớn người dân ở miền Nam
Việt Nam. Vì vậy, tinh thần dân tộc, tinh
thần đoàn kết dần được khôi phục sau
những năm bị văn hoá Mĩ càn quét nặng
nề. Từ Sài Gòn đến Huế, xuống nhiều tỉnh
66


miền Tây đã xuất hiện nhiều tổ chức quần

chúng công khai mang tinh thần bảo vệ văn
hoá dân tộc, trong đó đặc biệt đã thu hút
được nhiều trí thức, văn nghệ sĩ, lực lượng
tiến bộ trong xã hội.
Tóm lại, Mĩ có thể ồ ạt đổ quân chiến
đấu vào Việt Nam, có thể thực hiện nhiều
biện pháp tàn bạo để chiếm đoạt và thôn
tính, nhưng rõ ràng Mĩ không dễ và không
thể áp dụng được một tư duy văn hoá mới
của mình lên toàn bộ miền Nam Việt Nam
và nói chung là lên một đất nước có nền
văn hoá sâu sắc của họ. Tuy rằng đó là một
luồng văn hoá trong một giai đoạn bị người
Việt tẩy chay nhưng vết ố của nó vẫn còn
để lại đến nhiều năm sau đó bởi những ấn
phẩm văn hoá đó không nằm trong tay
người bán hàng nhưng nó đã nằm trong
tâm trí của người sử dụng. Đối với người
Việt, văn hoá là món ăn tinh thần, giá trị
truyền thống, là yếu tố mà người Mĩ không

dễ dàng thay đổi, không dễ dàng xóa và
cướp được của họ. Tính lưu truyền và tính
ổn định đã tạo nên dáng vẻ riêng của văn
hoá truyền thống dân tộc, dù là đối đầu với
kẻ thù tàn độc, mưu mô như Mĩ thì cuối
cùng dân tộc Việt vẫn tìm thấy sức mạnh vĩ
đại trong giá trị văn hoá truyền thống, để
biết phân biệt phải trái, đúng sai và giữ gìn
giá trị truyền thống dân tộc, bảo vệ đất

nước. Cuối cùng dù có sử dụng các biện
pháp nào cho cuộc chiến tranh Việt Nam,
Mĩ vẫn thất bại hoàn toàn bởi tinh thần yêu
nước phát triển thành chủ nghĩa yêu nước
đó không chỉ là một nét đẹp đạo đức mà
còn là một nét văn hoá kết tinh thành giá trị
bền vững của văn hoá truyền thống dân tộc
Việt Nam. Chính giá trị văn hoá này là cốt
lõi làm nên sức sống con người Việt Nam
nói chung, quân dân miền Nam Việt Nam
nói riêng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (Cb) (2002), Giá trị truyền thống trước
những thách thức của toàn cầu hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Đặng Ngọc Tiến Dũng (2001), Hoa Kì phong tục và tập quán, Nxb Trẻ TP.Hồ Chí
Minh.
3. Phong Hiền (1984), Chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mĩ ở Miền Nam Việt Nam (Khía
cạnh tư tưởng và văn hoá 1954-1975), Nxb Thông tin Lí luận, Hà Nội.
4. Thành Lê (2001), Văn hoá và lối sống, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (1995) toàn tập, in lần 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Lữ Phương (1981), Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mĩ tại miền
Nam Việt Nam, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
7. Võ Nhân Trí (1978), Khía cạnh kinh tế của chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ ở miền
Nam Việt Nam, tuần báo Đại đoàn kết, số 18.
8. Viện lịch sử quân Việt Nam (tập 11) (2005), Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước
(1954-1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
* Nhận bài ngày 27/2/2011. Sửa chữa xong 30/3/2012. Duyệt đăng 5/4/2012.
67




×