Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.03 KB, 42 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VÀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ
vật quý cho những người sở hữu nó tránh mất mát, đổi lại người chủ sở
hữu phải trả cho người cầm giữ hộ một khoản tiền công. Khi xã hội phát
triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn thì NH trở
thành nơi giữ tiền cho những người có tiền và cung cấp tiền cho những
người cần tiền. NH là một định chế tài chính trung gian, sẽ huy động vốn
nhàn rỗi trong xã hội và dùng chính tiền đó cho các cá nhân và tổ chức
vay lại, và rất hiếm khi có tình trạng cùng một lúc tất cả chủ tiền gửi đến
đòi nợ NH, đó chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động của
NH. Căn cứ vào chức năng, NH được chia làm hai loại: NHTM và Ngân
hàng Nhà nước.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ
cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn.
Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút
vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu.
Hoạt động của NHTM nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa
đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho
vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của NHTM.
Hoạt động của NHTM phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp
dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Trung gian tài chính
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ
yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, hoạt động này đòi hỏi sự sự tiếp
xúc với 2 loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) Các cá nhân và
tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu


tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; và
(2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu tức thu nhập hiện tại
của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và vì vậy họ có
tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của 2 loại cá nhân và tổ chức này hoàn toàn
độc lập với NH. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang
nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi.
Từ đó hình thành quan hệ tín dụng trực tiếp. Tuy nhiên quan hệ tín
dụng trực tiếp bị giới hạn nhiều do sự không phù hợp về quy mô, thời
gian, không gian … Điều này làm cản trở quan hệ tín dụng trực tiếp phát
triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính. NH với chức năng làm
trung gian tài chính, do chuyên môn hoá đã làm tăng thu nhập của
người tiết kiệm đồng thời giảm phí tổn cho nhà đầu tư, từ đó khuyến
khích tiết kiệm cũng như đầu tư, hay nói rộng ra là khuyến khích sự phát
triển của nền kinh tế.
1.1.2.2. Tạo phương tiện thanh toán
Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán.
Các NH đã không tạo được tiền kim loại. Các NH thợ vàng tạo phương
tiện thanh toán khi phát hành giấy nợ với khách hàng. Giấy nợ do NH
phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán
rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Như vậy, ban đầu các NH đã tạo
ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số tiền kim loại
đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế dần dần giấy nợ của NH đã thay thế
tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất giữ, nó trở
thành tiền giấy.
Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ gồm nhiều bộ phận. Thứ
nhất là tiền lưu thông ( M0 ), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao
dịch tại các, thứ ba là tiền gửi trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi
có kì hạn … Khi NH cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán
của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng mua hàng và dịch vụ.
Do đó, bằng việc cho vay ( hay tạo tín dụng ), các NH đã tạo ra phương

tiện thanh toán.
Toàn bộ hệ thống NH cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ NH này đến NH khác trên cơ sở cho
vay. Khi khách hàng tại một NH sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ
tạo nên khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng
khác tại một NH khác và từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi
không một NH riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn
bộ hệ thống NH có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh
toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
1.1.2.3 Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu
hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, NH thực hiện thanh toán các
giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện
và tiết kiệm chi phí, NH đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh
toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…
cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền
giấy khi khách hàng cần. Các NH còn thực hiện thanh toán bù trừ với
nhau thông qua Ngân hàng Trung Ương hoặc thông qua các trung tâm
thanh toán. Công nghệ thanh toán qua NH càng đạt hiệu quả cao khi
quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Nhiều hình thức
thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh
toán không chỉ giữa các NH trong một quốc gia mà còn giữa các NH
trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã
làm tăng hiệu quả của thanh toán qua NH, biến NH trở thành trung tâm
thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế
toàn cầu.
1.1.3. Phân loại ngân hàng thương mại
Có thể phân chia NH theo các tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu
của người quản lý
1.1.3.1. Các loại hình ngân hàng thương mại phân chia theo hình thức sở

hữu
* Ngân hàng sở hữu tư nhân: là NH do cá nhân thành lập bằng vốn
của cá nhân. Loại NH này thường nhỏ, phạm vi hoạt động trong từng
địa phương ( các NH này thường gắn liền với doanh nghiệp và cá nhân
ở địa phương ). Chủ NH thường rất am hiểu tình hình của người vay, vì
vậy hạn chế được sự lừa đảo của khách hàng. Tuy nhiên, do kém đa
dạng nên khi địa phương đó gặp rủi ro NH thường không tránh được tổn
thất.
* Ngân hàng sở hữu của các cổ đông ( NH cổ phần ): Ngân hàng
này được thành lập thông qua phát hành cổ phiếu. Việc nắm giữ cổ
phiếu cho phép người sở hữu có thể tham gia quyết định các hoạt động
của NH, tham gia chia cổ tức từ thu nhập của NH đồng thời phải gánh
chịu các loại tổn thất có thể xảy ra. Do vốn sở hữu được hình thành
thông qua tập trung, các NH cổ phần có khả năng tăng vốn nhanh
chóng, vì vậy thường là các NH lớn. Các tổ hợp NH lớn nhất thế giới
hiện nay đều là NH cổ phần. Các NH cổ phần thường có phạm vi hoạt
động rộng, hoạt động đa năng, có nhiều CN hoặc công ty con. Khả năng
đa dạng hoá cao nên các NH cổ phần có thể giảm rủi ro gây nên bởi
tính chuyên môn hoá ( thiên tai của một vùng, sự suy thoái của một
vùng hay một quốc gia … ), song chúng thường phải gánh chịu các rủi
ro từ cơ chế quản lý phân quyền ( nhiều CN được phân quyền lớn và
hoạt động tương đối độc lập với trụ sở NH mẹ, giám đốc các CN này có
thể có hành vi lạm dụng hoặc bất cẩn gây ra tổn thất cho NH ).
* Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước: đây là loại hình NH mà vốn
sở hữu do nhà nước cấp, có thể là Nhà nước Trung ương hoặc Tỉnh,
thành phố. Các NH này được thành lập nhằm thực hiện một số mục tiêu
nhất định thường là do chính sách của chính quyền Trung ương hoặc
địa phương quy định. Tại các nước đi theo con đường phát triển xã hội
chủ nghĩa, Nhà nước thường quốc hữu hoá các NH tư nhân hoặc cổ
phần lớn, hoặc tự xây dựng nên các NH. Những NH thuộc sở hữu Nhà

nước thường được Nhà nước hỗ trợ về tài chính và bảo lãnh phát hành
giấy nợ, do vậy rất ít bị phá sản. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, các
NH này phải thực hiện các chính sách của nhà nước có thể gây bất lợi
cho hoạt động kinh doanh.
* Ngân hàng liên doanh: NH này được hình thành dựa trên vốn góp
của hai hoặc nhiều bên, thường là giữa NH trong nước với các NH
nước ngoài để tận dụng các ưu thế của nhau.
1.1.3.2. Các loại hình ngân hàng thương mại phân chia theo tính chất
hoạt động
* Tính chất đơn năng:
Ngân hàng hoạt động theo tính đơn năng: loại NH này chỉ tập trung
cung cấp một số dịch vụ NH, ví dụ như chỉ cho vay đối với xây dựng cơ
bản, hoặc đối với đất nông nghiệp; hoặc chỉ cho vay (không có bảo lãnh
hay cho thuê)… Tính chuyên môn hoá cao cho phép NH có được đội
ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, tinh thông nghiệp vụ. Tuy nhiên loại NH
này thường gặp rủi ro lớn khi ngành, hoặc lĩnh vực đang hoạt động mà
NH phục vụ sa sút. NH đơn năng có thể là NH nhỏ, phạm vi hoạt động
hẹp, trình độ cán bộ không đa dạng, hoặc là những NH sở hữu của
nhiều công ty ( nhiều tập đoàn công nghiệp tổ chức NH để phục vụ cho
các thành viên của tập đoàn ).
* Tính đa năng
Là NH cung cấp mọi dịch vụ NH cho mọi đối tượng. Đây là xu
hướng hoạt động chủ yếu hiện nay của các NHTM. NH đa năng thường
là NH lớn ( hoặc sở hữu công ty ). Tính đa dạng sẽ giúp các NH tăng
thu nhập và hạn chế rủi ro.
1.1.3.3. Các loại hình ngân hàng thương mại chia theo cơ cấu tổ chức
* Ngân hàng sở hữu công ty và NH không sở hữu công ty
Ngân hàng sở hữu công ty là NH nắm giữ phần lớn vốn của công
ty, cho phép NH được quyền tham gia quyết định các hoạt động cơ bản
của công ty. Do luật nhiều nước cấm hoặc hạn chế NHTM tham gia trực

tiếp vào một số loại hình kinh doanh như chứng khoán, bất động sản …
nên các NH lớn đã thành lập, hoặc mua lại một số công ty chứng khoán,
quỹ đầu tư … nhằm mở rộng hoạt động. Các NH không sở hữu công ty
có thể do vốn nhỏ, hoặc quy định của Luật không cho phép, hoặc do
không bị cấm trong việc đưa ra các dịch vụ tài chính.
* Ngân hàng đơn nhất và NH có CN
Ngân hàng đơn nhất được hiểu là NH không có CN, tức là các dịch
vụ NH chỉ do một hội sở NH cung cấp. Ngân hàng có CN thường là NH
có vốn tương đối lớn, cung cấp dịch vụ NH thông qua nhiều đơn vị ngân
hàng. Việc thành lập CN thường bị kiểm soát chặt chẽ bởi Ngân hàng
Nhà nước thông qua các quy định về vốn chủ sở hữu, về chuyên môn
của đội ngũ cán bộ, về sự cần thiết của dịch vụ NH trong vùng …
1.1.4. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Mỗi NHTM đều có rất nhiều hoạt động, tuy nhiên về cơ bản có thể
chia thành ba loại hoạt động sau: hoạt động huy động vốn, hoạt động sử
dụng vốn và thực hiện các dịch vụ uỷ thác theo yêu cầu của khách
hàng.
1.1.4.1. Hoạt động huy động vốn
Để thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ, NH cần rất nhiều
vốn. Nguồn vốn chủ sở hữu không thể đáp ứng đủ nhu cầu vốn của NH,
vì vậy các NH phải tiến hành thực hiện các hoạt động huy động vốn.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động quan trọng nhất trong việc tạo
nguốn vốn cho NH - ảnh hưởng tới chất lượng của NH.
Một NH có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau: huy động
các loại tiền gửi từ dân cư, các doanh nghiệp…; vay vốn Ngân hàng
Trung Ương ; vay vốn các tổ chức tín dụng khác; vay vốn trên thị trường
vốn ( phát hành các giấy nợ như: kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu ) …;
trong đó, nguồn tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đặc điểm chung của
tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu, kể cả
khi đó là tiền gửi có kỳ hạn và chưa đến hạn. Nguồn tiền gửi thường

chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm
của các NH.
Nguồn tiền vay thường có tỷ trọng thấp hơn nguồn tiền gửi. Các
khoản đi vay thường là với thời hạn và quy mô xác định trước, do vậy
tạo thành nguồn ổn định cho NH. Khác với nhận tiền gửi, NH không
nhất thiết phải đi vay thường xuyên, NH chỉ đi vay lúc cần thiết và chủ
động trong việc quyết định khối lượng vay phù hợp.
1.1.4.2 Sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn là hoạt động quan trọng nhất đối với một
NH, nó tạo ra các nguồn thu nhập cho NH. Nếu huy động vốn là điều
kiện cần trong sự tồn tại và phát triển của một NH thì sử dụng vốn chính
là điều kiện đủ, huy động vốn và sử dụng vốn có quan hệ mật thiết với
nhau. Nếu huy động vốn tốt sẽ tạo điều kiện cho việc sử dụng vốn và
ngược lại sử dụng vốn tốt cũng sẽ có những tác động tích cực đến huy
động vốn. Ngân hàng sử dụng vốn vào việc: cho vay, đầu tư, tài trợ …;
trong đó hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất, có khả năng
sinh lời cao. Trong nền kinh tế, luôn tồn tại những cá nhân hay tổ chức
có nhu cầu vay vốn, với mục đích tiêu dùng hay đầu tư kinh doanh …
Tổng nhu cầu vốn của cả nền kinh tế là vô cùng lớn, thậm chí có thể nói
là vô tận, vì vậy hoạt động cho vay mang lại một nguồn thu nhập rất lớn
cho NH.
Tất cả những ai có nhu cầu vay đều có thể đến NH xin vay nếu họ
có thể đáp ứng đủ các yêu cầu mà NH đề ra. Nếu phân chia theo mục
đích sử dụng, có ba hình thức cho vay là: cho vay thương mại, cho vay
tiêu dùng và tài trợ dự án. Còn nếu phân loại cho vay theo thời hạn sử
dụng tiền vay có thể phân thành các khoản cho vay ngắn hạn, trung
hạn, dài hạn. Hoạt động cho vay mang lại nguồn thu nhập lớn nhất
nhưng đồng thời cũng là hoạt động ẩn chứa nhiều rủi ro nhất. Vì vậy
các NH thường rất thận trọng trong việc cho vay để hạn chế đến mức
thấp nhất rủi ro có thể xảy ra. Khi khách hàng đến NH vay vốn họ phải

chứng minh được tính chất pháp lý của họ (nếu là các tổ chức), họ phải
chứng minh được năng lực tài chính, năng lực kinh doanh của họ …
Ngoài ra khi các cá nhân đến NH vay vốn họ phải có tài sản đảm bảo và
phải chứng minh được thu nhập thực tế của họ. Nguồn thu định kì của
khách hàng chính là yếu tố quan trọng để NH xem xét khách hàng khi
cho vay.
1.1.4.3 Thực hiện các dịch vụ theo uỷ thác của khách hàng.
* Bảo quản tài sản hộ.
Các NH thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và các tài
sản khác cho khách hàng trong két ( vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê
két ). Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ có giá,
hoặc những giấy tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an
toàn, bí mật, thuận tiện.
* Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi khách hàng gửi tiền vào NH, NH không chỉ bảo quản mà còn
thực hiện các lệnh chi trả hộ cho khách hàng. Thanh toán qua NH đã
mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền
không cần phải đến NH để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả hộ cho
khách hàng, khách hàng mang giấy đến NH sẽ nhận được tiền. Các ưu
điểm của loại thanh toán này (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm
chi phí ) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu
nhập cho khách hàng.Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin,
bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C,
đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng thẻ, điện …
* Quản lý ngân quỹ.
Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc
thu ngân, nhiều NH cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ,
trong đó NH đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh
và tiến hành đầu tư phần thặng dư tạm thời vào các chứng khoán sinh
lời và các tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để

thanh toán.
* Bảo lãnh.
Do khả năng thanh toán của NH cho một khách hàng là rất lớn và
do NH nắm giữ một khối lượng lớn tiền gửi của khách hàng cho nên NH
rất có uy tín trong việc bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường
bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị,
phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác ... Trong
những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát
triển mạnh.
* Cho thuê thiết bị trung hạn.
Nhằm để bán được các thiết bị đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn,
nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê các thiết bị. Cuối hợp
đồng thuê, khách hàng có thể mua do vậy còn có thể gọi là hợp đồng
thuê mua. Trong đó NH mua các thiết bị, máy móc rồi cho các khách
hàng thuê với điều kiện khách phải trả tới hơn 70% hoặc 100% giá trị tài
sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của NH cũng có nhiều điểm giống như
cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
* Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính NH nên các NH có rất nhiều
chuyên gia có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.Vì vậy nhiều cá nhân và
doanh nghiệp đã nhờ NH quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính
hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay
hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư … Nhiều khách hàng còn coi NH
như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu
tư, quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp.
* Cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán.
Nhiều NH đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do
khiến các NH bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp
cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán

khác. Trong một vài trường hợp, các NH đứng ra tổ chức công ty chứng
khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi giới.
* Cung cấp dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các NH đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều
đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, tàn phế
hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng
còn liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con,
NH cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn liền với bảo hiểm như tiết kiệm an
sinh, tiết kiệm hưu trí …
* Cung cấp các dịch vụ đại lý.
Nhiều NH trong quá trình hoạt động không thể thiết lập CN hoặc
văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều NH cung cấp dịch vụ làm đại lý cho
các NH khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi,
làm NH đầu mối trong đồng tài trợ …
1.2. DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Dự án đầu tư
1.2.1.1. Khái niệm về dự án đầu tư.
Dự án đầu tư là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng
hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số
lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó
trong một khoảng thời gian xác định.
Dự án đầu tư được xem xét trên nhiều góc độ khác nhau: về bản
chất, DAĐT là tập hợp những đề xuất về việc sử dụng vốn để mở rộng
hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng.
Về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch
vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. Về hình thức trình bày,
DAĐT là tài liệu do chủ đầu tư chịu trách nhiệm lập, trong đó có thể hiện
một cách đầy đủ, khoa học và toàn diện toàn bộ nội dung, các vấn đề có
liên quan đến công trình đầu tư, nhằm giúp cho việc ra quyết định đầu

tư được đúng đắn và bảo đảm hiệu quả của vốn đầu tư.
Tóm lại, DAĐT bao gồm 4 phần chính.
- Mục tiêu của dự án
- Các kết quả
- Các hoạt động
- Các nguồn lực.
Trong 4 thành phần trên thì kết quả chính là thành phần đánh dấu
tiến độ của dự án. Kết quả có thể được biểu diễn dưới dạng kết quả tài
chính, kết quả kinh tế và kết quả xã hội. Kết quả tài chính là các lợi ích
về tài chính thu được từ dự án biểu hiện bằng giá trị, tính theo giá thị
trường. Kết quả kinh tế là lợi ích về kinh tế biểu hiện bằng giá trị, tính
theo giá kinh tế. Giá kinh tế là giá trị chi phí các nguồn lực hoặc các
khoản thu nhập từ dự án xét trên góc độ chung của quốc gia. Kết quả xã
hội là kết quả được biểu hiện dưới dạng các lợi ích xã hội (trình độ dân
trí, khả năng phòng chống bệnh tật, bảo đảm môi trường…). Kết quả
này biểu hiện rất phong phú và thường không thể đo lường một cách
chính xác.
1.2.1.2. Vai trò của dự án đầu tư.
DAĐT có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với chủ đầu tư
mà còn đối với Nhà nước và các bên liên quan :
- Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định việc bỏ vốn đầu tư.
- Dự án là cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư theo dõi, đôn đốc và
kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư.
- Dự án là cơ sở quan trọng để thuyết phục các tổ chức tài chính,
tín dụng cho vay vốn để tiến hành đầu tư.
- Dự án là căn cứ quan trọng để đánh giá và có những điều chỉnh
kịp thời những tồn tại và những vướng mắc trong quá trình thực hiện và
khai thác công trình.
- Dự án là một trong những cơ sở pháp lý để xem xét, xử lý khi có
tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh đầu tư.

Riêng đối với chủ đầu tư, dự án còn là cơ sở để xin phép được đầu
tư, xin phép nhập khẩu vật tư máy móc, xin hưởng các ưu đãi về đầu
tư, xin gia nhập khu chế xuất, khu công nghiệp…
* Yêu cầu cơ bản của dự án :
Với vai trò quan trọng của mình, DAĐT phải đảm bảo những tính
chất sau :
- Tính khoa học : Được thể hiện trên các mặt, thông tin, số liệu phải
đảm bảo trung thực. Hình thức phải đảm bảo rõ ràng, sạch đẹp.
Phương pháp lý giải phải đảm bảo tính logic và chặt chẽ giữa các nội
dung đã nêu trong dự án. Phương pháp tính toán phải đảm bảo độ
chính xác.
- Tính thực tiễn : Các nội dung của dự án phải được nghiên cứu và
xác định trên cơ sở xem xét, phân tích, đánh giá đúng mức các điều
kiện và hoàn cảnh cụ thể liên quan trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động
đầu tư. (Về thời gian và không gian).
- Tính thống nhất : Được thể hiện từ những bước tiến hành đến nội
dung hình thức, cách trình bày của dự án cần tuân thủ những quy định
chung mang tính quốc tế.
1.2.1.3. Nội dung của dự án đầu tư.
Một DAĐT thông thường bao gồm những nội dung chính sau :
+ Các căn cứ lập dự án, sự cần thiết phải đầu tư xây dựng dự án.
Cần nêu căn cứ pháp lý và căn cứ thực tiễn của toàn bộ quá trình hình
thành và thực hiện toàn bộ dự án.
+ Nghiên cứu về thị trường của dự án, cần đề cập đến các vấn đề :
- Giới thiệu sản phẩm, dịch vụ được lựa chọn đưa vào sản xuất
kinh doanh theo dự án.
- Các luận cứ về thị trường đối với sản phẩm được chọn.
- Dự báo nhu cầu hiện tại, tương lai của sản phẩm dịch vụ đó.
- Xác định nguồn và các kênh đáp ứng nhu cầu đó.
- Xem xét, xây dựng mạng lưới để tổ chức tiêu thụ sản phẩm của

các dự án.
+ Nghiên cứu về phương diện kỹ thuật – công nghệ của dự án theo
các nội dung sau :
- Xác định địa điểm xây dựng dự án
- Xác định quy mô chương trình sản xuất
- Xác định nhu cầu các yếu tố đầu vào cho sản xuất, nguồn và
phương thức cung cấp.
- Lựa chọn công nghệ và thiết bị.
+ Nghiên cứu về tổ chức quản trị dự án. Tuỳ theo từng dự án cụ thể
để xác định mô hình tổ chức bộ máy cho thích hợp, từ đó làm cơ sở cho
việc tính toán nhu cầu nhân lực.
+ Nghiên cứu về phương diện tài chính của dự án. Cần giải quyết
các nội dung chủ yếu sau đây :
- Xác định tổng vốn đầu tư, cơ cấu các loại vốn và nguồn tài trợ.
- Đánh giá khả năng sinh lời của dự án
- Xác định khả năng hoàn vốn của dự án
- Đánh giá mức độ rủi ro của dự án
+ Nghiên cứu mặt kinh tế – xã hội của dự án. Cần đánh giá so sánh
giữa lợi ích do các dự án tạo ra và cái giá mà xã hội phải trả cho việc sử
dụng các nguồn lực trên các mặt chủ yếu sau :
- Khả năng tạo ra nguồn thu cho ngân sách
- Tạo công ăn việc làm
- Nâng cao mức sống của nhân dân
- Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ.
+ Kết luận và kiến nghị. Thông qua các nội dung nghiên cứu trên,
cần kết luận tổng quát về khả năng thực hiện của dự án, những khó
khăn và những thuận lợi trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án,
đồng thời đề xuất những kiến nghị đối với các tổ chức có liên quan đến
dự án.
1.2.1.4. Các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu tư.

Để hình thành và vận hành một DAĐT phải trải qua nhiều bước,
nhiều giai đoạn kế tiếp nhau được gọi là chu trình của dự án.
Có nhiều cách phân chia, xem xét liên quan đến quá trình hình
thành và quản lý dự án. Để phù hợp với yêu cầu của công tác chuẩn bị
đầu tư và hoạt động chủ yếu trong quá trình hình thành và quản lý vận
hành dự án, có thể phân chia chu trình dự án thành các giai đoạn được
mô tả theo sơ đồ sau :
Sơ đồ :
Nghiên cứu cơ hội đầu tư
Nghiên cứu tiền khả thi
Thực hiện dự án
Nghiên cứu khả thi
Vận hành khai thác
Đánh giá sau dự án
Kết thúc dự án

×