Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.06 KB, 8 trang )

NGUYỄN DỮ KHÔNG THỂ LÀ HỌC TRÒ CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM
NGUYỄN CÔNG LÝ (*)
TÓM TẮT
Lâu nay, trong các thư tịch cổ ở Việt Nam vào thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX như
các sách của Vũ Khâm Lân, Vũ Phương Đề, Trần Trợ, Lê Quý Đôn, Nguyễn Án và Phạm
Đình Hổ, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú, và Gia phả họ Phùng ở Phùng Xá, Thạch Thất, Sơn
Tây v.v. và sang thế kỉ XX như: Dương Quảng Hàm (1941), Bùi Văn Nguyên (1962 và 1989)
Đinh Gia Khánh (1964 và 1977), Thúc Ngọc Trần Văn Giáp (1970 và ) và 1971) v.v. đã ghi
rằng: Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Theo thiển ý của chúng tôi thì không phải như thế. Bài viết này góp phần làm sáng tỏ
vấn đề trên.
ABSTRACT
For a long time, the assumption that Nguyen Du has been Nguyen Binh Khiem’s
student has been written in the Vietnamese old books from XVIII century to the first half of
XIX century such as the ones by Vu Kham Lan, Vu Phuong De, Tran Tro, Le Qui Don,
Nguyen An and Pham Dinh Ho, Bui Huy Bich, Phan Huy Chu, and Phung family annals at
Phung Xa, Thach That, Son Tay, In the twentieth century Duong Quang Ham (1941), Bui Van
Nguyen (1962 and 1989), Dinh Gia Khanh (1964 and 1977), Thuc Ngoc Tran Van Giap
(1970 and 1971), etc…of XX century,.
According to the author, this is not true. This article helps to make the matter clear.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là nhà tư tuởng - triết học lớn, một đại thụ của văn
học Việt Nam thế kỉ XVI, còn Nguyễn Dữ (cuối XV - nửa đầu XVI) là tác giả cuốn “thiên cổ
kì bút” Truyền kì mạn lục. Từ đầu thế kỉ XVIII đến nay, có rất nhiều tài liệu viết rằng Nguyễn
Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thực tế có phải như vậy không ? Bài viết
nhỏ này sẽ bàn lại vấn đề trên.
1. Từ thế kỉ XIX trở về trước đã có nhiều sách xưa khẳng định vấn đề này như Đại
Việt sử loại tiệp lục, trong đó có bài Phả kí “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả
kí” (Phả kí về Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn Văn Đạt) của Vũ Khâm Lân (nửa đầu thế kỉ XVIII);
Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề (giữa thế kỉ XVIII); Tục Công dư tiệp kí của Trần Trợ
(Trần Quý Nha - giữa thế kỉ XVIII); Toàn Việt thi lục và Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn
(giữa thế kỉ XVIII); Tang thương ngẫu lục của Nguyễn Án và Phạm Đình Hổ (nửa cuối thế kỉ


XVIII); Hoàng Việt thi tuyển và Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích (nửa cuối thế kỉ
XVIII); rồi Lịch triều hiến chương loại chí - Mục Nhân vật chí của Phan Huy Chú (đầu thế kỉ
XIX);(1) v.v. Tất cả đều ghi “Nguyễn Dữ cùng với Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh,
Trương Thì Cử, Đinh Thì Trung, Nguyễn Quyện … là những học trò xuất sắc của Nguyễn
Bỉnh Khiêm”.
Sang thế kỉ XX đến nay, Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu; Văn
Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 2,
(thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII); Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc San trong
Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2 (thế kỉ X - thế kỉ XVII); Bùi Văn Nguyên với Lịch sử văn

(*)PGS.TS, Khoa Văn học & Ngôn ngữ, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG
TPHCM


học Việt Nam tập 2 và Văn học Việt Nam thế kỉ X - giữa thế kỉ XVIII; Đinh Gia Khánh với
Văn học cổ Việt Nam và Văn học Việt Nam thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII; Thúc Ngọc Trần
Văn Giáp trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm tập 1 và Lược truyện các tác gia Việt Nam; Lê
Trí Viễn (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam; Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam
thời trung đại, tập 1, Truyện ngắn; Nguyễn Nam, Phiên dịch học lịch sử - văn hoá: Trường
hợp “Truyền kì mạn lục” (công trình này có dịch và đăng lại bài viết của M. Tkachov “Bậc
thầy của những chuyện kì diệu sáng tạo từ đất Hải Dương”); Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi,
Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên), Từ điển văn học, Bộ mới, các mục từ viết về
Nguyễn Bỉnh Khiêm, về Nguyễn Dữ, về Phùng Khắc Khoan; Trần Lê Sáng, Phùng Khắc
Khoan cuộc đời – thơ văn; Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam, tập 1;
Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X - cuối thế kỉ XIX)(2). Đó
là chưa kể những bài viết trên các báo, tạp chí, các chuyên khảo, v.v. khi đề cập đến Nguyễn
Bỉnh Khiêm hay Nguyễn Dữ cũng đều cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là thầy học của Nguyễn
Dữ; và Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Những công trình nghiên cứu về Nguyễn Dữ và Truyền kì mạn lục của các học giả ở
nước ngoài như ở Nhật Bản có Xuyên Bản Bang Vệ “Truyền kì mạn lục tiểu khảo”, Nghệ văn

nghiên cứu, số 27(3), tr. 379; ở Trung Quốc có La Hoài “Nho học tại Việt Nam”; Trịnh Vĩnh
Thường “Hán văn văn học tại An Nam đích hưng thệ”, Đài Loan Thương vụ ấn thư quán,
thiên 4, chương 3(4); Trần Ích Nguyên “Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì
mạn lục”, chương 2, tiết 2, Đài Loan học sinh thư cục xuất bản, Đài Bắc, 1990, bản dịch(5); ở
Nga có M. Tkachov, Bậc thầy của những chuyện kì diệu sáng tạo từ đất Hải Dương(6), v.v.
Tất cả đều dựa vào tư liệu cổ ở ta mà tin theo và viết rằng: Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của
Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Có sự khẳng định như trên là vì từ nửa đầu thế kỉ XVIII cho đến nay, những người đời
sau đều căn cứ vào văn bản gốc “Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả kí” của Vũ
Khâm Lân trong Đại Việt sử loại tiệp lục và Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề (Bài Phả kí
của Vũ Khâm Lân được người đời sau chép lại trong sách của Vũ Phương Đề) là những tài
liệu xưa nhất nói về mối quan hệ này mà cho rằng Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn
Bỉnh Khiêm và là bạn học của Phùng Khắc Khoan. Trong bài Phả kí, Vũ Khâm Lân đã viết:
“Nói về môn sinh của ông sự thực không biết bao nhiêu mà kể, nhưng nói riêng những người
đã có tiếng tăm lừng lẫy thì có những ông như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh,
Nguyễn Dữ và Trường Thì Cử ..., đều đã nhờ ơn truyền thụ, sở học từng đi đến chỗ uyên
thâm, và sau đều là những bậc danh thần thời trung hưng”(7). Còn Phan Huy Chú trong bộ
Lịch triều hiến chương loại chí, mục Nhân vật chí cũng cho rằng Nguyễn Dữ là một trong bốn
học trò thành đạt và có tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm(8).
Thực tế có phải như vậy không?
Đứng trước một khối tư liệu lớn và nhiều như trên (có thể chúng tôi liệt kê chưa đủ
hết) để giải đáp một vấn đề rất nhỏ như tiêu đề đã nêu, thì có nên không? Chúng tôi rất băn
khoăn, nhưng cuối cùng đành phải đặt lại nghi vấn về vấn đề này. Mặc dù chúng tôi biết rằng
mình là hậu sinh, lại học thuật, kiến văn nông cạn, mà những tư liệu trên đều là của những
danh sĩ lỗi lạc thời phong kiến, hay của những nhà nghiên cứu bậc thầy, của những vị giáo sư
uy tín thời hiện đại đã viết ra, thì làm sao mà phản biện cho được!
Đức Khổng Tử từng căn dặn đồ đệ “Tận tín thư bất như vô thư” (Hoàn toàn tin ở sách,
thà không có sách còn hơn). Có nghi vấn này là nhờ bắt nguồn từ lời dạy trên của bậc Vạn thế
sư biểu.



Chúng tôi thiết nghĩ, muốn đặt lại vấn đề đã được khẳng định và sàng lọc qua mấy
trăm năm như trên, có lẽ cần trở lại tiểu sử lai lịch của hai cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn
Dữ. Về cuộc đời và tiểu sử cụ Trạng Trình thì đã rõ. Còn cuộc đời và tiểu sử Nguyễn Dữ hiện
vẫn còn là khoảng trống, chưa được lấp đầy vì tư liệu xưa quá ít ỏi, chỉ có dăm ba dòng.
2. Trước hết, cần xác định lại năm sinh của Nguyễn Dữ.
Trên cơ sở tư liệu hiện còn, người đọc hôm nay chưa biết gì thêm về Nguyễn Dữ
ngoài những thông tin mà các cụ xưa như Hà Thiện Hán trong Lời tựa sách Truyền kì mạn
lục; Vũ Khâm Lân trong bài Phả kí ở sách Đại Việt sử loại tiệp lục; rồi người đời sau chép lại
trong sách của Vũ Phương Đề, Trần Trợ. Đến Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục và Toàn
Việt thi lục; Bùi Huy Bích trong Hoàng Việt thi tuyển và Hoàng Việt văn tuyển; Phan Huy
Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, v.v. cũng có nhắc đến tiểu sử Nguyễn Dữ dù chỉ
rất sơ lược.
Lời tựa Truyền kì mạn lục của Đại An Hà Thiện Hán viết năm 1547 là tư liệu sớm
nhất có ghi chép về Nguyễn Dữ như sau: “Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ
nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi thi đậu Hương tiến, nhiều lần
thi Hội trúng Tam trường, từng được bổ Tri huyện Thanh Tuyền (Toàn). Mới được một năm,
ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu, đến mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành,
thế rồi ông viết ra tập lục này để ngụ ý”(9). Lời Tựa trên của Hà Thiện Hán đều có chép lại
trong bản Cựu biên in năm 1712 và bản Tân biên in năm 1763, 1774, tuy còn sơ lược nhưng
rất đáng tin cậy, bởi nó được viết lúc Nguyễn Dữ còn sống, và tác giả bài tựa lại là người sống
đồng thời với Nguyễn Dữ.
Còn đây là thông tin của cụ Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục: “Ông người xã Đỗ
Tùng, huyện Trường Tân, Hải Dương. Cha là Tường Phiêu, đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn
(1496), làm quan Thượng thư bộ Hộ. Nguyễn Dữ lúc còn bé thông minh lanh lợi, xem rộng,
nhớ lâu, văn chương có thể nối dõi được gia phong, thi đỗ Hương cống, thi Hội nhiều khoa
trúng kì đệ tam, được bổ Tri huyện Thanh Tuyền, làm quan mới được một năm, liền lấy cớ là
xa nhà, xin từ chức về nhà hầu cha mẹ. Sau vì nguỵ Mạc cướp ngôi vua, ông thề không ra làm
quan, sống ở thôn quê dạy học trò, không bao giờ để chân đến thành thị. Về phần trứ tác có
Truyền kì mạn lục 4 quyển, lời lẽ thanh tao tươi đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen”(10).

Cần lưu ý là hai thông tin cổ xưa trên của hai bậc tiên Nho danh tiếng: Hà Thiện Hán
và Lê Quý Đôn không hề nói đến quan hệ thầy – trò, hay mối quan hệ thiết thân nào khác
giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ.
Xin nêu lại ở đây ý phỏng đoán về năm sinh Nguyễn Dữ của nhà nghiên cứu người
Nga M. Tkachov trong bài viết giới thiệu về Truyền kì mạn lục ở nước Nga, sau khi biện giải
và thiết lập sơ đồ, M. Tkachov đã đi đến ức đoán: “Nguyễn Dữ sinh khoảng 1496”(11). Đây
cũng là năm thân phụ ông là Tường Phiêu (Phiếu) đỗ Tiến sĩ đệ tam giáp, lúc này ông Phiêu ở
độ tuổi khoảng ngoài 20 đến 30, vì căn cứ vào sách Đăng khoa lục ngày xưa và sách Lược
truyện các tác gia Việt Nam của cụ Thúc Ngọc Trần Văn Giáp mà biết. Còn việc sách xưa ghi
Nguyễn Dữ thi đỗ Hương tiến là nhầm (đúng ra lúc này phải là Hương cống – bởi Hương tiến
là học vị dưới đời Trần, Hồ cho những sĩ tử đỗ kì thi Hương; còn từ đời Lê sơ, Mạc, Lê trung
hưng, học vị này là Hương cống), thi Hội nhiều lần trúng tam trường. Ông có thể có ra làm
quan Tri huyện được một năm và từ quan trước hoặc trong năm 1527, trước lúc nhà Mạc tiếm
ngôi vua Lê. Lúc này, có thể Nguyễn Dữ đã ở tuổi ngoài 30 (vì thi Hội nhiều lần, mà triều Lê
theo lệ cứ 3 năm mở một khoa, năm trước thi Hương, năm sau thi hội, thi Đình). Những ngày
từ quan về ẩn cư, ông đã viết và hoàn thành bộ Truyền kì mạn lục gồm 4 quyển, mỗi quyển 5


truyện, cộng 20 truyện(12) từ năm 1527 và đến trước năm 1547 là năm mà Hà Thiện Hán viết
lời tựa, liền tiếp theo, Đại Hưng hầu Nguyễn Thế Nghi đã dịch tác phẩm này ra chữ Nôm.
Ức đoán suy luận về năm sinh Nguyễn Dữ của nhà nghiên cứu M. Tkachov, theo
chúng tôi là có lí. Nếu quả đúng như thế thì Nguyễn Dữ chỉ nhỏ hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm
khoảng 4, 5 tuổi trở lại. Chúng tôi còn nghĩ rằng, cũng có thể Nguyễn Dữ được sinh ra trước
đó vài năm, tức trước khi cụ Nguyễn Tường Phiêu thi đỗ Tiến sĩ dưới đời Hồng Đức Lê
Thánh Tông (1496). Vì ngày xưa, các cụ thường lập gia đình sớm, nhiều người có con khi
chưa đến 20 tuổi, mà gia đình Nguyễn Dữ là danh gia vọng tộc. Ông còn là con trai đầu lòng
của cụ Thượng thư Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu (Phiếu) đời Lê sơ. Và như thế thì có thể
Nguyễn Dữ bằng hoặc nhỏ hay lớn hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm vài ba tuổi mà thôi, tức sinh
khoảng năm 1490 đến năm 1494.
3. Thứ đến, thử so sánh thời điểm hiển vinh, thi đỗ và làm quan của Nguyễn Dữ và

Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ở đây, chúng tôi xin lưu ý thêm, Nguyễn Dữ đỗ Hương cống và Thi
Hội nhiều lần, đã trúng Tam trường dưới thời Lê sơ, cụ thể lúc này là các đời Uy Mục (15051509), Tương Dực (1510-1516), Chiêu Tông (1516-1522), Cung Hoàng (1522-1527); có thể
ông đã từng làm quan một năm và đã từ quan trước hoặc trong năm 1527 trước khi Mạc Đăng
Dung tiếm ngôi vào năm này. Điều đó có nghĩa là Nguyễn Dữ hiển đạt, thành danh (dù đỗ
không cao), làm quan trước Nguyễn Bỉnh Khiêm ít ra cũng đến 10 hay hơn 10 năm, và lúc
này Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là một nho sĩ bình dân, nghèo túng (thơ chữ Hán của cụ có nói
nhiều về cảnh bần hàn này). Vì tình thế bức bách, Bạch Vân tiên sinh mãi đến năm 44 tuổi
mới đi thi và đỗ đầu kì thi Hương và năm sau, lúc 45 tuổi thi Hội rồi thi Đình, đỗ Trạng
nguyên năm 1535, từ đó mới nổi danh, xuất chính giúp nhà Mạc. Trong khi đó, tại thời điểm
này thì Nguyễn Dữ từ lâu đã là một ẩn sĩ nơi quê nhà hoặc ở nơi núi rừng Thanh Hoá, đang
viết dở hoặc đã hoàn thành bộ thiên cổ kì bút Truyền kì mạn lục rồi!
Nếu như các thư tịch cũ cho rằng Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, cùng với Phùng Khắc Khoan, Đinh Thì Trung, Trương Thì Cử, Lương Hữu Khánh,
Nguyễn Quyện, v.v. thì chúng tôi nghĩ rằng: Điều chắc chắn là các vị trên là những học trò
xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm, riêng Nguyễn Dữ thì không phải. Thư tịch xưa cho biết, cụ
Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi dâng sớ xin chém đầu 18 lộng thần, trong đó có Phạm Quỳnh là
sui gia và Phạm Dao là con rể, nhưng không được nhà vua chấp nhận nên từ quan về quê
dựng am Bạch Vân dạy học, mở quán Trung Tân để chữa bệnh, cứu giúp người khốn khó cơ
nhỡ. Chuyện này cụ thực hiện từ năm 1543 trở về sau. Nhà nghiên cứu Tkachov, trong bài
viết của ông, có đưa ra thông tin khác: “Trong số những môn đồ thành đạt hiển vinh của danh
sư Nguyễn Bỉnh Khiêm, có lẽ có 2 người ứng thí năm 1538, tức là 5 năm trước khi Nguyễn
Bỉnh Khiêm từ quan. Thế có nghĩa là ông dạy học trước năm 1538”(13). Ở đây, trong bài viết
của mình, Tkachov có nói Nguyễn Bỉnh Khiêm trước khi thi đỗ làm quan, đã từng dạy học (?)
và cho dù ông có nêu ra một số chứng lí, dù chứng lí này chưa đủ sức thuyết phục, nhưng rồi
Tkachov vẫn đinh ninh Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm!
Chúng tôi nghĩ, nếu cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm trước khi đỗ đạt và làm quan cho nhà
Mạc (tức trước 1535) đã từng mở trường dạy học ở quê, chưa chắc cụ Thượng thư Nguyễn
Tường Phiêu đã cho Nguyễn Dữ theo học. Bởi lẽ, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất thân trong gia
đình nho sĩ bình dân nghèo. Ông cụ thân sinh là Nguyễn Văn Định tuy học hành thông minh
hay chữ nhưng vẫn là bạch diện thư sinh, may mà cụ Thượng thư Nhữ Văn Lan thương tình

gả con gái đã luống tuổi cho, thì lúc này về lí lịch nhân thân của gia đình ông có thay đổi đôi
chút. Trong khi đó, cụ Nguyễn Dữ lại xuất thân là thế gia vọng tộc, khoa hoạn, thân phụ ông
từng đỗ Tiến sĩ đời Hồng Đức vào năm 1596, làm quan đến chức Thượng thư bộ Hộ. Và chắc
chắn rằng với nhiệm vụ và thân thế này, quan Thượng thư có nhiều bạn bè đỗ đạt, học rộng tài


cao, vì lí do nào đó mà họ không làm quan hoặc từ quan về nhà dạy học, lẽ nào cụ Thượng
thư không cho con trai cưng của mình theo học những vị này mà lại cho theo học thầy đồ
Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa qua kinh nghiệm trường thi, chưa nổi tiếng và cũng chưa đỗ đạt
học vị gì vào lúc này? Đây là điều mà nhiều năm nay chúng tôi thường thắc mắc. Hơn nữa,
căn cứ vào những gì cụ Hà Thiện Hán trong Lời tựa Truyền kì mạn lục và cụ Bảng nhãn Lê
Quý Đôn viết trong Kiến văn tiểu lục thì có thể suy luận thêm là Nguyễn Dữ đỗ Hương cống
có thể trước năm 1520 hay trong năm 1520, chứ khó có thể là sau năm này, vì sau đó cụ còn
dự thi Hội nhiều khoa mới trúng Tam trường (cứ cho nhiều là thi 2 khoa chẳng hạn, thì cũng
phải mất đến 6 năm!, lệ thời Lê sơ, cứ 3 năm mở một khoa thi, năm trước thi Hương, năm sau
thi Hội, thi Đình), ra làm quan một năm rồi từ quan trước năm 1527 hoặc trong năm 1527. Tất
cả đều diễn ra vào thời Hậu Lê sơ, trước khi họ Mạc cướp ngôi. Như vậy Nguyễn Dữ đã hiển
vinh đỗ đạt (tuy chưa phải là đại khoa) và làm quan trước Nguyễn Bỉnh Khiêm đến hơn 10
năm (Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ thi Hương năm 1534, đỗ thi Hội, thi Đình năm 1535 dưới đời
Mạc). Dĩ nhiên, chúng tôi rất biết chuyện thi cử dưới thời phong kiến ở ta rất nhiêu khê và rắc
rối nhưng có điều là không kể tuổi tác, sĩ tử từ 14, 15 trở lên, nếu đủ học lực và trình độ, trúng
tuyển kì khảo hạch ở địa phương thì có đủ điều kiện dự thi Hương; đỗ kì thi Hương thì năm
sau được vào thi Hội; và có trúng cách thi Hội thì mới được vào thi Đình (Điện thí).
Nhân đây, chúng tôi xin đính chính lại một chỗ nhầm lẫn của nhà nghiên cứu Nguyễn
Phạm Hùng trong bài viết Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền kì
mạn lục(14), và thắc mắc của Trần Ích Nguyên về học vị của Nguyễn Dữ trong chuyên luận
Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục(15). Trong bài viết rất công phu
và có vài ý mới của Nguyễn Phạm Hùng mà chúng tôi rất thích thú, nhưng tiếc là ở trang 126,
mục 3 Những vấn đề đặt ra từ quan điểm của các nhà khoa học nước ngoài, Nguyễn Phạm
Hùng ghi: “Ông đỗ Hương tiến (Cử nhân), thi Hội đỗ Tam trường (Tiến sĩ)…” (xin được in

đậm để nhấn mạnh - NCL). Xin nói lại, học vị đỗ đạt kì thi Hương vào đời Trần - Hồ là
Hương tiến, người đỗ đầu là Hương nguyên; đời Hậu Lê sơ, Mạc, Lê trung hưng và triều
Nguyễn Gia Long là Hương cống (điểm cao) và Sinh đồ (điểm thấp), đời Nguyễn Minh Mệnh
trở đi là Cử nhân (điểm cao) và Tú tài (điểm thấp). Còn thi Hội từ thời Hậu Lê sơ trở về sau
không xếp loại, mà chỉ lấy Chánh trúng cách và Thứ (Phó) trúng cách, coi như đó là điều kiện
để vào kì thi Đình (Điện thí) làm bài Văn sách Đình đối để nhà vua đích thân lấy đỗ xếp loại
Tiến sĩ theo ba bảng: Đệ Nhất giáp Tiến sĩ cập đệ (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa); Đệ
Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (còn gọi là Hoàng giáp); Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (gọi
chung là Tiến sĩ). Đó là thi Đình. Còn ở kì thi Hội, các Cống sĩ phải qua bốn trường. Nguyễn
Dữ trong mấy lần thi chỉ đỗ được Tam trường (tức đậu trường ba), rớt Tứ trường (trường bốn)
thì làm sao đủ điều kiện để vào dự thi Đình mà lấy học vị Tiến sĩ? Dĩ nhiên, cũng có vài kì
thi, do điều kiện nào đó mà triều đình chỉ cho thi Hội, ai qua 4 trường thì được xếp loại Tiến
sĩ luôn, nhưng trường hợp này rất ít. Anh Nguyễn Phạm Hùng nhầm chỗ này, tuy vậy, việc ấy
không làm giảm đi chất lượng bài nghiên cứu của anh.
Cũng vậy, ở trang này, đoạn dưới, anh có dẫn lại ý kiến thắc mắc của Trần Ích Nguyên
trong công trình Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục ở trang 49, 50
của sách. Do ông Trần và anh Hùng (là người thuật lại) chưa hiểu đúng danh hiệu Tam trường
nên đã cố công đi tìm tên Nguyễn Dữ trong các sách viết về khoa bảng như Đại Việt lịch triều
Đăng khoa lục; Các nhà khoa bảng Việt Nam, v.v. hay sách nào đi nữa kể cả Khoa mục chí
trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú là sách chép tương đối đầy đủ nhất
trong các sách ghi về khoa bảng của triều Lê sơ - Mạc - Lê trung hưng, thì làm gì có và cũng
không bao giờ có tên Nguyễn Dữ đỗ đại khoa! Bởi ở các công trình này, xưa cũng như nay,
nhà sưu tầm nghiên cứu chỉ chép tên những người đỗ đại khoa (Trạng nguyên, Bảng nhãn,
Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ nếu là đời Lê trung hưng về trước đến Hậu Lê sơ Lê; còn đời
Nguyễn thì có thêm học vị Phó bảng nữa). Như trên có nói, kì thi Hội chỉ xếp Chánh và Thứ


(phó) trúng cách thôi, chứ chưa xếp học vị. Nguyễn Dữ chỉ trúng Tam trường, chưa qua được
Tứ trường nên chưa Trúng cách Hội thí. Ngày trước, thi Hương, thi Hội thường phải qua bốn
kì (bốn trường); trúng trường nhất mới vào trường nhì; trúng trường nhì mới vào trường ba,

v.v. cứ thế tiếp tục. Tên gọi Nhất trường, Nhị trường, Tam trường … là để chỉ những sĩ tử đã
thi đỗ các trường ấy. Còn nếu trúng cả 4 trường thì khảo quan cộng điểm theo ưu, bình, bình
thứ, thứ, thứ thứ mà xếp loại học vị thi đỗ; còn liệt là bị hỏng thi. Vì hiểu nhầm như trên mà
bài viết của anh Hùng đi đến kết luận là “Vì thế việc chép Nguyễn Dữ trúng Tam trường là
không chính xác”(16). Chúng tôi nghĩ, anh Nguyễn Phạm Hùng đã vội vàng rút ra kết luận
không chính xác thì có, chứ các cụ Hà Thiện Hán, Vũ Khâm Lân, Vũ Phương Đề, Lê Quý
Đôn đã chép đúng và rất chính xác đấy, vì chúng tôi đã kiểm tra lại các trang 49, 50 của sách,
ông Trần Ích Nguyên không viết câu kết luận trên. Còn thắc mắc của Trần Ích Nguyên về địa
danh huyện Thanh Tuyền (Thanh Toàn) không biết chính xác ở đâu, trang 50 của sách, thì xin
thưa, huyện Thanh Tuyền xưa chính là huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phú (nay là Vĩnh Phúc).
4. Như vậy, theo chúng tôi, thông tin Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Nguyễn Bỉnh
Khiêm chỉ là lời các cụ tiên Nho đã dựa theo truyền thuyết, giai thoại dân gian mà ghi lại chứ
các cụ không kiểm chứng, hoặc các cụ vì quá yêu mến và ngưỡng vọng, muốn tôn vinh nhà tư
tưởng - hiền triết, nhà thơ đạo lí Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mà gán cho? Để từ đó, các
học giả, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước ở thế kỉ XX và mấy năm đầu thế kỉ XXI lại y
cứ mà viết theo. Thiết nghĩ việc này chúng ta nên tỉnh táo và phải đính chính lại, nếu không
thì vẫn sẽ còn tiếp tục truyền đạt lại (giảng hoặc viết) những truyền thuyết, giai thoại dân
gian, thiếu tính khoa học, không chính xác cho các thế hệ tương lai!
Trên cơ sở đó, chúng tôi đi đến kết luận Nguyễn Dữ là người sống cùng thời với
Nguyễn Bỉnh Khiêm, lại đỗ đạt làm quan trước Nguyễn Bỉnh Khiêm đến hơn 10 năm. Ông
sinh trong khoảng đầu thập niên cuối cùng của thế kỉ XV và mất tại nơi ẩn cư Thanh Hoá
khoảng giữa thế kỉ XVI, xuất thân trong gia đình có truyền thống văn chương khoa cử, thế gia
vọng tộc. Và Nguyễn Dữ không thể là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm như các
cụ ngày xưa và các học giả ngày nay đã viết.

CHÚ THÍCH
(1)

Chẳng hạn, Vũ Khâm Lân, Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả kí, sách Đại Việt
sử loại tiệp lục, mà sau đó sách Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề có chép lại, bản dịch của

Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục, SG, tái bản, 1973, trang 406 407; Bùi Huy Bích, Hoàng Việt thi tuyển, bản dịch Trung tâm Nghiên cứu Quốc học và NXB
Văn học, HN, 2007, trang 773; Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí - Nhân vật chí,
tập 1, bản dịch, NXB Sử học, 1960, trang 299.
(2)

Xin xem các công trình sau:

- Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu (viết xong 1941), NXB Đông Pháp, HN, in
lần đầu năm 1943.
- Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam,
tập 2, (thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII), NXB Văn Sử Địa, HN, 1958, trang 160.


- Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc San, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2
(thế kỉ X - thế kỉ XVII), NXB Văn hoá, in lần 1, 1962, NXB Văn học, tái bản 1976, trang 630
và 717.
- Bùi Văn Nguyên, Lịch sử văn học Việt Nam tập 2, NXB GD, HN, in lần đầu 1962, NXB
GD, HN, tái bản lần thứ 4, 1976, trang 229 và 242.
- Bùi Văn Nguyên, Văn học Việt Nam thế kỉ X - giữa thế kỉ XVIII, NXB GD, HN, 1989, trang
305 - 306 và 321.
- Đinh Gia Khánh (chủ biên), Văn học cổ Việt Nam, NXB GD, HN, 1964 và Văn học Việt
Nam thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII, tập 2, NXB ĐH và THCN, HN, 1977, trang 106 và 239.
- Thúc Ngọc Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 1, NXB KHXH, HN, 1970 và
Lược truyện các tác gia Việt Nam, NXB KHXH, HN, 1971.
- Lê Trí Viễn (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam, Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, 1997,
trang 104.
- Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập 1, Truyện ngắn, NXB GD,
HN, tái bản lần 1, 1999, trang 211.
- Nguyễn Nam, Phiên dịch học lịch sử - văn hoá Trường hợp Truyền kì mạn lục, NXB ĐHQG
TP. HCM, 2002, trang 70 và 74.

- Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên), Từ điển văn học,
Bộ mới, các mục từ viết về Nguyễn Bỉnh Khiêm (tr.1107-1108), về Nguyễn Dữ (tr.11231124-1125), về Phùng Khắc Khoan (tr.1431-1432), NXB Thế giới, 2004.
- Trần Lê Sáng, Phùng Khắc Khoan cuộc đời – thơ văn, NXB Văn hoá Thông tin, HN, 2005.
- Nguyễn Đăng Na (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam, tập 1, NXB ĐHSP HN, 2006,
trang 185.
- Đoàn Thị Thu Vân (chủ biên), Văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X - cuối thế kỉ XIX), NXB
GD, chi nhánh tại TP HCM, 2008, trang 100 và 114.
(3), (4), (5),

dẫn lại: Trần Ích Nguyên, “Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn
lục”, Đài Loan học sinh thư cục xuất bản, Đài Bắc, 1990, bản dịch của Phạm Tú Châu, Trần
Thị Băng Thanh, NXB VH, HN, 2000. Cụ thể là: Xuyên Bản Bang Vệ “Truyền kì mạn lục tiểu
khảo”, Nghệ văn nghiên cứu, số 27, tr.379; La Hoài “Nho học tại Việt Nam”; Trịnh Vĩnh
Thường “Hán văn văn học tại An Nam đích hưng thệ”, Đài Loan Thương vụ ấn thư quán,
thiên 4, chương 3, trang 150; Trần Ích Nguyên “Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kì mạn lục”, chương 2, tiết 2, trang 47 - 63, Đài Loan học sinh thư cục xuất bản, Đài
Bắc, 1990.
(6)

M. Tkachov, Bậc thầy của những chuyện kì diệu sáng tạo từ đất Hải Dương, trong sách
Phiên dịch học lịch sử - văn hoá Trường hợp Truyền kì mạn lục của Nguyễn Nam, NXB
ĐHQG TP. HCM, 2002.
(7)

Vũ Khâm Lân, sđd, trang 406 - 407.


(8)

Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, mục Nhân vật chí, bản dịch, tập 1, NXB Sử

học, HN, 1960, trang 299.
(9)

Hà Thiện Hán, Tựa Truyền kì mạn lục, dẫn lại: Trần Ích Nguyên, Nghiên cứu so sánh Tiễn
đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục, Đài Loan học sinh thư cục xuất bản, Đài Bắc, 1990. Bản
dịch đã dẫn, tr.47.
(10)

Lê Quý Đôn toàn tập, tập 2, Kiến văn tiểu lục, bản dịch, NXB KHXH, HN, 1977, trang
262.
(11)

Tkachov, Bậc thầy của những chuyện kì diệu sáng tạo từ đất Hải Dương, sđd, trang 69 102.
(12)

không hiểu tại sao cụ Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, mục Văn tịch
chí [IV] ghi là 22 truyện, bản dịch, tập 4, NXB Sử học, 1961, trang 121.
(13)

Tkachov, sđd, trang 74.

(14)

Nguyễn Phạm Hùng, Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền kì
mạn lục, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1 – 2006, trang 123 - 134.
(15)

Trần Ích Nguyên, sđd, Đài Loan học sinh thư cục xuất bản, Đài Bắc, 1990. Bản dịch của
Phạm Tú Châu, Trần Thị Băng Thanh, NXB Văn học, HN, 2000.
(16)


Nguyễn Phạm Hùng, bđd, Tạp chí NCVH, số 1 – 2006, dòng cuối của trang 126.



×