Kiểm toán nhà nước với nhiệm vụ phòng chống tham nhũng
VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC TRONG KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC ĐỂ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
Ths. Trần Minh Khương*
K
iểm sốt quyền lực nhà nước là một trong những u cầu mang tính tất yếu trong q trình
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Khoản 3 Điều 2 Hiếp pháp năm 2013
khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 khóa XII về “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” cũng đã đặt ra mục tiêu đến năm
2020 là phải “Hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực”. Để góp phần thực hiện mục tiêu này, KTNN là cơ
quan do Quốc hội thành lập, có chức năng kiểm tốn việc quản lý, sử dụng tài chính cơng, tài sản cơng
theo Điều 118 Hiến pháp năm 2013, có vai trò quan trọng trong kiểm sốt quyền lực, góp phần phòng,
chống tham nhũng.
Từ khóa: Kiểm sốt quyền lực, phòng chống tham nhũng, Kiểm tốn nhà nước.
The role of state audit of Vietnam in power control to prevent corruption
Controlling the state power is one of the essential requirements in the process of building a socialist
rule-of-law state in our country. Clause 3, Article 2 of the 2013 Constitution affirms: “State power is unified
and delegated to state bodies, which shall coordinate with and control one another in the exercise of the
legislative, executive and judicial powers”. The Resolution of the 7th plenum of the 12th National Congress
of the Party on “focusing on building a contingent of cadres at all levels, especially at the strategic level, with
sufficient quality, competence and prestige to meet the requirements of missions” has also set out the target
by 2020 is to “encompass the power control mechanism”. To contribute to the achievement of this goal, SAV
is an agency established by the National Assembly, has the function of auditing the management and use of
public finance, public property according to Article 118 of the 2013 Constitution, which plays an important
role in controlling power, contributing to anti-corruption.
Keywords: Control of power, anti-corruption, State Audit.
1. Cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước và vai
qua đó thực hiện được việc xem xét, đánh giá hiệu
trò của KTNN trong kiểm sốt quyền lực, góp
quả, hiệu lực hoạt động của các bộ phận thực hiện
phần phòng, chống tham nhũng
quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền lực được thực
Cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước hiểu theo
thi theo đúng Hiến pháp, pháp luật. Ở nước ta, cơ
cách phổ biến và chung nhất là tập hợp những
chế kiểm sốt quyền lực nhà nước đã có trước khi
thành tố, hình thức, mối liên hệ, các thiết chế mà
Hiến pháp 2013 ra đời, tuy nhiên chỉ khi Hiến pháp
* Kiểm tốn trưởng, KTNN khu vực XIII
30
Số 138 - tháng 4/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
2013 được ban hành, thì cơ chế kiểm soát quyền
thể), do đó nguy cơ tham nhũng, lãng phí là rất cao.
lực nhà nước mới trở thành một nguyên tắc tổ
Để ngăn chặn, phòng chống tham nhũng, bên cạnh
chức quyền lực nhà nước được hiến định.
việc xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng,
Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước đảm bảo
mỗi cơ quan thực hiện đúng phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình, không vượt thẩm quyền;
không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của cơ quan, ngăn chặn nguy cơ tham nhũng,
lãng phí tiền và tài sản nhà nước. Hoạt động kiểm
soát quyền lực được thực hiện với nhiều cách thức
khác nhau và bao gồm: Cơ chế kiểm soát từ bên
chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng,
chống tham nhũng; tăng cường kiểm tra, giám sát,
kỷ luật đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; kiện toàn
tổ chức bộ máy, cán bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của các cơ quan, đơn vị có chức năng
phòng, chống tham nhũng, thì một trong những
giải pháp cơ bản là phải: Tăng cường, nâng cao
hiệu quả công tác giám sát, kiểm soát quyền lực để
trong mỗi cơ quan nhà nước và cơ chế kiểm soát
phòng, chống tham nhũng. Với 3 loại hình kiểm
từ bên ngoài.
toán tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt
Kiểm toán nhà nước (KTNN) là cơ quan Hiến
định, do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc
quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công, đã được
khẳng định tại Điều 118 Hiến pháp 2013 và được
cụ thể hóa trong Luật KTNN năm 2015. Công tác
động trong công tác quản lý, sử dụng tài chính, tài
sản công, KTNN là công cụ quan trọng của Nhà
nước để giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước
của các cơ quan, cá nhân được giao nhiệm vụ phân
bổ, quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công.
Cụ thể:
quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công có đặc
(i) Kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp
điểm nổi bật là sự tách rời giữa quyền sở hữu (toàn
của các báo cáo quyết toán thu chi NSNN, báo cáo
dân) và quyền sử dụng (các tổ chức, cá nhân cụ
tài chính của các DNNN, các đơn vị HCSN, báo
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019
31
Kiểm toán nhà nước với nhiệm vụ phòng chống tham nhũng
cáo quyết tốn vốn đầu tư dự án hồn thành sử
tốn. Đặc biệt, Tổng KTNN đã ký và ban hành
dụng vốn NSNN;
Cơng điện số 1696/CĐ-KTNN về việc chuyển các
(ii) Đánh giá tính tn thủ pháp luật, tn thủ
hệ thống Kiểm sốt nội bộ (KSNB) và các quy
định khác có liên quan trong quản lý, sử dụng tài
chính cơng, tài sản cơng được giao theo chức năng,
nhiệm vụ;
(iii) Đánh giá tính kinh tế, tính hiệu lực, tính
hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài chính cơng, tài
sản cơng.
Các hoạt động nêu trên của KTNN sẽ góp phần
nâng cao tính cơng khai, tính minh bạch, tính
tn thủ pháp luật, tính hiệu lực, hiệu quả và trách
nhiệm giải trình của các cơ quan, đơn vị được giao
trách nhiệm phân bổ, quản lý, sử dụng tài chính
điều tra thơng qua hoạt động kiểm tốn. Nhờ đó,
trong những năm qua, hoạt động phòng chống
tham nhũng của KTNN đã có nhiều chuyển biến
tích cực, từ năm 2016 tới nay tồn ngành đã kiến
nghị xử lý tài chính 219.283 tỉ đồng, kiến nghị sửa
đổi, bổ sung, bãi bỏ 424 văn bản quy phạm pháp
luật, văn bản chỉ đạo, quản lý, điều hành, chuyển hồ
sơ sang cơ quan Điều tra để điều tra, xử lý theo quy
định của pháp luật 11 vụ việc.
2. Những vấn đề làm hạn chế vai trò của KTNN
trong kiểm sốt quyền lực để phòng chống tham
nhũng
cơng, tài sản cơng, từ đó ngăn ngừa nguy cơ tham
Thứ nhất, KTNN chưa có đầy đủ thẩm quyền
nhũng, lãng phí trong quản lý tài chính cơng, tài
và trách nhiệm kiểm tốn cơ quan quản lý thuế và
sản cơng. Đồng thời qua kiểm tốn, KTNN cũng
kiểm tốn người nộp thuế. Theo Điều 118 Hiến
kịp thời phát hiện những lỗ hổng pháp lý, những
pháp năm 2013, KTNN có quyền và trách nhiệm
sơ hở trong cơ chế, chính sách, qua đó kiến nghị bổ
kiểm tốn việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản
sung, điều chỉnh, bãi bỏ những quy định, cơ chế,
cơng. Một trong những bộ phận quan trọng của tài
chính sách bất cập, trái pháp luật góp phần ngăn
chính cơng chính là NSNN và kiểm tốn báo cáo
chặn nguy cơ tham nhũng, lãng phí tiền và tài sản
quyết tốn thu, chi NSNN, kiểm tốn tn thủ và
nhà nước.
kiểm tốn hoạt động trong quản lý thu, chi NSNN
Hiện nay, trách nhiệm của KTNN trong cơng
tác phòng chống tham nhũng, lãng phí thơng qua
hoạt động kiểm tốn đã được quy định cụ thể trong
Luật Phòng, chống tham nhũng. Cụ thể, Điều 60
Luật Phòng chống tham nhũng quy định: KTNN
thơng qua hoạt động kiểm tốn có trách nhiệm
chủ động phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý theo
thẩm quyền hoặc kiến nghị xử lý theo quy định của
pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
32
vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật sang cơ quan
cũng là nhiệm vụ quan trọng, thường xun của
KTNN. Để kiểm tốn tn thủ Luật Quản lý thuế
và các luật thuế khi kiểm tốn thu NSNN, KTNN
phải có quyền kiểm tốn các cơ quan quản lý thu
NSNN và người nộp thuế. Vì hoạt động thu NSNN
ln liên quan đến 02 chủ thể: Người nộp thuế và
người quản lý thuế (người thu thuế); trong đó hồ
sơ, chứng từ, tài liệu kế tốn để chứng minh, xác
định số thuế phải nộp chủ yếu do người nộp thuế
quyết định của mình. Để phát huy vai trò kiểm sốt
trực tiếp nắm giữ, quản lý; cơ quan quản lý thuế chỉ
quyền lực thơng qua hoạt động kiểm tốn, nhằm
lưu trữ hồ sơ kê khai, quyết tốn thuế, hồ sơ hồn
nâng cao hiệu quả phòng chống tham nhũng, Ban
thuế, khấu trừ thuế, miễn giảm thuế. Đồng thời,
Cán sự Đảng, Đảng ủy KTNN, Tổng KTNN đã
theo khoản 2 Điều 7 Luật Quản lý thuế hiện hành
ban hành nhiều Nghị quyết, chỉ thị u cầu cán bộ
thì người nộp thuế có nghĩa vụ: “Khai thuế chính
cơng chức (CBCC) trong tồn ngành nâng cao tinh
xác, trung thực, đầy đủ và nộp hồ sơ thuế đúng
thần trách nhiệm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong
thời hạn; chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính
thực hiện nhiệm vụ và tăng cường đấu tranh phòng
chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ thuế”; theo
chống tham nhũng thơng qua hoạt động kiểm
khoản 2 Điều 30 Luật Quản lý thuế hiện hành thì
Số 138 - tháng 4/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN
nguyên tắc khai thuế, tính thuế là: “Người nộp thuế
cơ quan cuối cùng có thẩm quyền kiểm tra, thanh
tự tính số thuế phải nộp, trừ trường hợp việc tính
tra thuế tại trụ sở người nộp thuế và thiết lập một
thuế do cơ quan quản lý thuế thực hiện theo quy
cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả đối với lĩnh
định của Chính phủ”. Như vậy, KTNN kiểm toán
vực này, thì sẽ rất khó phòng chống tham nhũng và
thu NSNN phải có thẩm quyền và trách nhiệm
ngăn chặn thất thoát nguồn thu NSNN trong lĩnh
kiểm toán cơ quan quản lý thuế và kiểm toán người
vực này.
nộp thuế. Có như thế mới có đủ cơ sở, căn cứ để
đánh giá việc tuân thủ pháp luật trong thu NSNN,
cũng như đánh giá việc chấp hành các quy định
trong tổ chức thực hiện kế hoạch thu NSNN của
các cơ quan quản lý thu NSNN.
Thứ hai, Việc quy định các đơn vị được kiểm
toán của KTNN là chưa đầy đủ. Điều 55 Luật Kiểm
toán nhà nước 2015 có quy định về đơn vị được
kiểm toán. Trong đó, ngoài việc chưa quy định
người nộp thuế là đơn vị được kiểm toán như đã
Tuy nhiên, theo Luật Quản lý thuế hiện hành,
nêu ở trên, cũng chưa quy định các tổ chức và cá
thì hiện nay chỉ duy nhất các cơ quan quản lý thu
nhân quản lý sử dụng đất đai, rừng, tài nguyên,
NSNN (cơ quan Thuế, cơ quan Hải quan) có quyền
khoáng sản… là đơn vị được kiểm toán của KTNN
kiểm tra, thanh tra việc nộp thuế tại trụ sở người
để phù hợp với phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
nộp thuế, ngoài ra khi phát hiện dấu hiện trốn thuế
KTNN quy định tại khoản 1 Điều 118 Hiến pháp
thì cơ quan điều tra mới có thể tiến hành điều tra
năm 2013. Hiện có một số cơ quan và cá nhân cho
đối với người nộp thuế. Đây chính là thiếu sót, là
lỗ hổng lớn về kiểm soát quyền lực để phòng chống
tham nhũng của Luật Quản lý thuế. Cụ thể:
- Luật Quản lý thuế hiện hành chưa bổ sung, cập
nhật quyền của KTNN trong kiểm toán người nộp
thuế khi kiểm toán thu NSNN, một bộ phận của tài
chính công theo quy định của Hiến pháp 2013.
- Luật Quản lý thuế đã xác lập một cơ chế đặc
biệt cho các cơ quan quản lý thu khi họ là cơ quan
duy nhất, cơ quan cuối cùng theo Luật Quản lý
thuế có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra thuế tại trụ
sở người nộp thuế. Ngoài họ ra, không một cơ quan
nào khác có thẩm quyền vào thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán tại việc thực hiện nghĩa vụ với NSNN
của người nộp thuế. Có thể nói, đây là một dạng
độc quyền theo kiểu “vừa đá bóng, vừa thổi còi”
trong quản lý nhà nước về thu NSNN - lĩnh vực
quản lý hết sức quan trọng, nhạy cảm, tiểm ẩn nguy
cơ rất cao về trốn thuế, ẩn lậu thuế. Như vậy, không
sai khi nói rằng, Luật Quản lý thuế hiện hành vừa
tước bỏ chức năng, quyền hạn theo Hiến định của
rằng, KTNN cứ thực hiện như hiện tại (không
kiểm toán người nộp thuế và tổ chức và cá nhân
quản lý sử dụng đất đai, rừng, tài nguyên, khoáng
sản, mà chỉ đề nghị các đơn vị này cung cấp hồ sơ,
tài liệu để kiểm tra, đối chiếu khi kiểm toán các
cơ quan quản lý thuế và các cơ quan quản lý nhà
nước về tài nguyên, khoáng sản…) cũng là rất tốt
rồi. Theo chúng tôi, quan điểm này là không hợp lý,
vì những lý do sau đây.
- Chưa cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ của
KTNN quy định tại khoản 1 Điều 118 Hiến pháp
năm 2013;
- Nhiều người nộp thuế hiện nay là các doanh
nghiệp có quy mô lớn, nên việc yêu cầu doanh
nghiệp này mang hàng tấn hồ sơ, tài liệu đến trụ sở
cơ quan quản lý thuế để phục vụ công tác kiểm tra,
đối chiếu của KTNN sẽ rất bất cập. Đó là bất cập về
khâu liệt kê, ký biên bản giao nhận tài liệu, trách
nhiệm bảo quản tài liệu mà doanh nghiệp đã bàn
giao cho Tổ kiểm toán nhưng lưu trữ tại trụ sở cơ
quan quản lý thuế;
KTNN, vừa là rào cản lớn nhất về kiểm soát quyền
- Nhiều trường hợp, để kiểm toán lại các khoản
lực để phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực
phải nộp NSNN, kiểm toán việc tuân thủ pháp luật
quản lý thu NSNN. Do đó, nếu không xóa bỏ cơ
trong quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản... các
chế các cơ quan quản lý thuế là cơ quan duy nhất,
Tổ kiểm toán phải tổ chức kiểm quỹ, kiểm kê hàng
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 138 - tháng 4/2019
33
Kiểm toán nhà nước với nhiệm vụ phòng chống tham nhũng
tồn kho, kiểm tra thực tế hiện trạng sử dụng đất
những trường hợp cần kiểm tra thực tế hàng tồn
đai, khai thác tài ngun, khống sản... Những nội
kho, quỹ tiền mặt, kiểm tra thực tế việc khai thác
dung này khơng thể thực hiện được khi người nộp
tài ngun khống sản (TNKS)...
thuế, tổ chức sử dụng, khai thác đất đai, tài ngun
khống sản khơng phải là đơn vị được kiểm tốn
của KTNN. Bởi vì, khi đó họ chỉ có trách nhiệm
cung cấp thơng tin, tài liệu theo khoản 1 Điều 68
Luật KTNN, khơng tn thủ các u cầu kiểm tra
của KTNN, tạo ra hạn chế rất lớn trong kiểm tốn
thu NSNN và kiểm tốn việc quản lý, sử dụng tài
cơng. Đây cũng chính là vấn đề gây hạn chế lớn vai
trò của KTNN trong kiểm sốt quyền lực để phòng
chống tham nhũng và thực hiện chức năng, nhiệm
vụ theo Hiến pháp.
3. Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao vai
trò của KTNN trong kiểm sốt quyền lực, góp
phần phòng, chống tham nhũng
tốn vào Luật KTNN. Đó là, “Người nộp thuế,
các tổ chức sử dụng, khai thác đất đai, tài ngun,
khống sản và các tổ chức khác có liên quan đến
việc quản lý, sử dụng tài chính cơng, tài sản cơng”
cần được quy định thêm vào Điều 55 Luật Kiểm
tốn nhà nước hiện hành về đơn vị được kiểm
tốn. Vấn đề này thật ra đã có trong Dự thảo Tờ
trình của Tổng KTNN về dự án Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật KTNN nhằm khắc phục
những hạn chế tồn tại trong kiểm tốn thu NSNN
và kiểm tốn việc quản lý, sử dụng tài sản cơng đã
nêu ở trên.
Thứ ba, Nâng cao ý thức phòng chống tham
Để nâng cao vai trò của KTNN trong kiểm sốt
nhũng cho cán bộ, kiểm tốn viên khi thực hiện
quyền lực, góp phần phòng, chống tham nhũng,
nhiệm vụ. Thực hiện nghiêm túc quy định của
chúng tơi đề nghị:
Tổng KTNN tại Cơng điện số 1696/CĐ-KTNN về
Thứ nhất, Cần bổ sung thêm chức năng kiểm
tốn người nộp thuế của KTNN vào Luật Quản lý
thuế. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, với mục tiêu
lớn nhất là xóa bỏ cơ chế các cơ quan quản lý thuế
là cơ quan duy nhất, cơ quan cuối cùng có thẩm
quyền kiểm tra, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp
thuế, thiết lập một cơ chế kiểm sốt quyền lực có
hiệu quả đối với lĩnh vực này. Từ đó nâng cao hiệu
quả cơng tác quản lý thuế, ngăn chặn có hiệu quả
tình trạng gian lận, trốn thuế, ẩn lậu thuế, chuyển
giá để trốn thuế hiện nay. Khơng nên đặt vấn đề
theo cách nếu bổ sung thêm quy định này thì số
lượng người nộp thuế (kể cả nộp thuế thu nhập cả
nhân) q nhiều, KTNN có làm được khơng? Vì
đây là bổ sung quy định để hồn thiện chức năng
và tạo cơ chế kiểm sốt quyền lực. Đó là, việc quản
lý thu thuế, thanh tra, kiểm tra thuế vẫn là việc
34
Thứ hai, Cần bổ sung thêm đơn vị được kiểm
việc chuyển các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp
luật sang cơ quan điều tra thơng qua hoạt động
kiểm tốn.
Thứ tư, Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động kiểm tốn của KTNN. Để phát huy tốt vai
trò của KTNN trong kiểm sốt quyền lực, góp
phần phòng, chống tham nhũng, cần thực hiện tốt
các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động kiểm tốn của KTNN. Trọng tâm là thơng
qua cơng tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình
độ chun mơn nghiệp vụ của đội ngũ KTV; xây
dựng, ban hành các cẩm nang hướng dẫn chun
mơn, nghiệp vụ trong từng lĩnh vực, từng loại hình
kiểm tốn; tăng cường áp dụng cơng nghệ thơng
tin trong hoạt động kiểm tốn; nâng cao tinh thần
trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của các cán bộ,
kiểm tốn viên KTNN trong thực hiện nhiệm vụ.
làm thường xun, liên tục của các cơ quan quản
Thứ năm, Cần tiếp tục thực hiện cơng khai
lý thuế; Cơ quan KTNN sẽ chỉ kiểm tốn tại trụ sở
rộng rãi kết quả kiểm tốn của KTNN. Đây cũng
người nộp thuế trong những trường hợp thật cần
là một việc làm thiết thực góp phần nâng cao vai
thiết, khi quy mơ doanh nghiệp q lớn hoặc phát
trò giám sát, chất vấn của của các cơ quan dân cử
hiện dấu hiệu trốn thuế quy mơ lớn, phức tạp, hoặc
và nhân dân.
Số 138 - tháng 4/2019
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TỐN