Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.2 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM ĐỨC LƯƠNG

GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
CẢNH SÁT NHÂN DÂN HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2020


Công trình được hoàn thành tại
Học viện Khoa học xã hội

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS Vũ Văn Gầu

Phản biện 1: ............................................................................
............................................................................

Phản biện 2: ............................................................................
............................................................................

Phản biện 3: ............................................................................
............................................................................


Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp học viện
họp tại Học viện Khoa học xã hội
vào hồi ...... giờ........ ngày....... tháng....... năm 2020

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Khoa học xã hội


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta, Người thầy vĩ
đại của cách mạng Việt Nam - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế
giới. Đồng thời, Người còn là nhà đạo đức học lỗi lạc. Người đã dành nhiều thời gian
và tâm sức bàn về đạo đức và bản thân Người cũng là tấm gương sáng ngời nhất thực
hành đạo đức cách mạng. Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cách
mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên và toàn dân ta. Trước lúc đi xa, Người không quên
căn dặn mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư,
phải tích cực học tập và trau dồi đạo đức cách mạng.
Đối với Công an nhân dân Việt Nam - lực lượng vũ trang được Chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, những tư tưởng, lời dạy và tấm gương đạo đức
mẫu mực của Người là di sản tinh thần vô giá trong việc giáo dục đạo đức cho mỗi cán
bộ, chiến sĩ, góp phần quan trọng xây dựng nhân cách, đạo đức người chiến sĩ Công an
nhân dân sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, hết lòng vì
nhân dân phục vụ, lấy niềm vui và hạnh phúc của nhân dân làm niềm vui, lẽ sống của
mình.
Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động tiếp tục ráo riết thực hiện chiến lược
“diễn biến hòa bình”, bạo loạn, can thiệp lật đổ ở nước ta với quy mô ngày càng mở
rộng, cường độ ngày càng quyết liệt, tính chất ngày càng nguy hiểm, thâm độc, tinh
vi, xảo quyệt, trong đó có âm mưu làm suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối

sống của lực lượng Công an. Mặt khác, những mặt trái của cơ chế thị trường đang
hàng ngày, hàng giờ tác động đến nhận thức, đạo đức của mỗi cán bộ, chiến sĩ Công
an nhân dân. Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vẫn mang tính
thời sự, còn nguyên vẹn giá trị và là hình mẫu, bài học quý báu đối với lực lượng
Công an nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn
xã hội.
Trường Đại học Cảnh sát nhân dân là cơ sở giáo dục đào tạo bậc đại học và sau
đại học, trung tâm nghiên cứu khoa học của lực lượng Công an nhân dân ở phía Nam,
có chức năng, nhiệm vụ đào tạo sĩ quan Cảnh sát nhân dân - nguồn nhân lực chất
lượng cao của ngành Công an và của đất nước. Đó là nhiệm vụ rất vẻ vang nhưng
đồng thời hết sức nặng nề, khó khăn. Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ an
ninh trật tự của Tổ quốc, trường Đại học Cảnh sát nhân dân đã quan tâm đào tạo sinh
viên về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đồng thời chăm lo giáo dục đạo đức người
sinh viên Công an nhân dân, từng bước đẩy lùi, ngăn chặn tình trạng suy thoái về đạo
đức, lối sống trong một bộ phận sinh viên, tạo chuyển biến mạnh mẽ về tu dưỡng,
đạo đức người sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và Sáu điều Bác Hồ
dạy.
Tuy nhiên, việc giáo dục tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh


2
viên còn có những hạn chế, chưa trở thành việc làm thường xuyên, chưa thành ý thức
tự giác của không ít chi bộ, đơn vị và một bộ phận cán bộ, đảng viên, sinh viên; học
nhiều nhưng kết quả làm theo đạo đức Hồ Chí Minh còn nhiều hạn chế. Trách nhiệm
nêu gương làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của người đứng
đầu, cán bộ chủ chốt và mỗi sinh viên chưa cao. Nhiều hành vi đạo đức chưa đẹp, lời
nói chưa hay còn tồn tại, ý thức thể hiện những giá trị đạo đức đối với tự mình và trong
quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng chưa thực sự được một bộ phận sinh viên quan tâm
thực hiện. Đặc biệt, còn có những hành vi đạo đức thiếu văn hóa, chưa chuẩn mực, suy
thoái, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hình ảnh, uy tín của Nhà trường nói riêng và lực

lượng Công an nhân dân nói chung.
Từ thực trạng trên, việc vận dụng những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức vào giáo dục đạo đức cho sinh viên Đại học Cảnh sát nhân dân - những sĩ quan
cảnh sát tương lai của nước nhà, xứng đáng là lực lượng vũ trang trung thành của
Đảng và nhân dân, đáp ứng mục tiêu xây dựng người Công an nhân dân bản lĩnh,
nhân văn, vì nhân dân phục vụ là vấn đề quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết.
Với ý nghĩa nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay” làm luận án
tiến sĩ, chuyên ngành đạo đức học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án làm rõ những vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân.
Trên cơ sở đó, vận dụng vào đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao chất
lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh
sát nhân dân hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án thực hiện những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
Một là, nghiên cứu làm rõ tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho
sinh viên Đại học Cảnh sát nhân dân, chỉ ra những vấn đề đã được nghiên cứu và
những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu; Hai là, hệ thống hóa, khái quát hóa những
nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức; Ba là, phân tích, làm rõ nội
dung, phương pháp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho người cán bộ,
chiến sĩ Công an nhân dân; Bốn là, vận dụng nội dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức để đánh giá thực trạng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân; chỉ ra những thành tựu, hạn chế và
những vấn đề đặt ra; Năm là, xác định phương hướng và đề xuất giải pháp nâng cao
chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học

Cảnh sát nhân dân hiện nay.


3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cho sinh viên Đại học Cảnh sát nhân dân.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức là một nội dung lớn, luận án tập trung nghiên cứu nội dung giáo dục
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho con người Việt Nam trong thời đại mới nói
chung và vận dụng vào giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
trường Đại học Cảnh sát nhân dân nói riêng.
- Về không gian: Luận án giới hạn phạm vi khảo sát giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức đối với sinh viên hệ chính quy ở trường Đại học Cảnh sát nhân dân,
thành phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: Từ năm 2011 đến hết năm 2018. Tác giả lấy mốc thời gian từ
năm 2011 tính từ lúc Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 03 về “Đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tư tuởng, đạo đức Hồ Chí Minh”.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách
của Nhà nước về xây dựng và phát triển văn hóa, đạo đức con người Việt Nam nói
chung và giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho lực lượng Công an nhân dân
nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình thực hiện, luận án
còn sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành như:

- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng phương pháp
logic, lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa tài
liệu...
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp hội thảo; Phương
pháp tổng kết thực tiễn.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho thấy ý nghĩa, giá trị lý luận
to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đối với xây dựng và phát triển văn hóa,
đạo đức con người Việt Nam trong thời đại mới
- Nghiên cứu đưa ra nội dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho
Công an nhân dân, một đối tượng cụ thể trong xã hội. Đặc biệt, luận án đã luận
giải sâu sắc Sáu điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy Công an nhân dân là nội dung cốt
lõi của tư cách đạo đức người Công an nhân dân trong giai đoạn hiện nay.


4
- Đánh giá thực trạng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
Đại học Cảnh sát nhân dân, chỉ ra được những thành tựu và hạn chế, bất cập trong
hoạt động giáo dục để có giải pháp kịp thời nâng cao chất lượng giáo dục.
- Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cho sinh viên Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay, giúp cho các cấp ủy Đảng, các
tổ chức, đoàn thể nâng cao nhận thức, tích cực, chủ động trong công tác giáo dục đạo
đức, góp phần bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận án góp phần phân tích sâu sắc, phong phú, đầy đủ hơn nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho
sinh viên Đại học Cảnh sát nhân dân.
- Luận án cung cấp các cứ liệu, luận chứng để trường Đại học Cảnh sát nhân

dân nghiên cứu đề ra chủ trương, giải pháp trong hoạt động giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cho sinh viên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức trong các trường đại học ở Việt Nam.
- Luận án đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân nói riêng và
các học viện, trường Công an nhân dân.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
được kết cấu gồm 4 chương, 10 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một
nội dung quan trọng trong tư tưởng, sự nghiệp của Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn. Vì vậy, đã có rất nhiều nhà khoa học quan tâm tìm hiểu, đi sâu
nghiên cứu về vấn đề này.
Nghiên cứu về tu tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh phải kể đến các công trình của các nhà nghiên cứu chuyên sâu ở trong nước, tiêu
biểu như: Phạm Văn Đồng, Đặng Xuân Kỳ, Vũ Khiêu, Thành Duy, Trần Văn Giàu,


5
Song Thành, Hoàng Chí Bảo, Mạch Quang Thắng, Hoàng Chí Bảo, Phạm Ngọc Anh,
Bùi Đình Phong... và một số tác giả ngoài nước có nhiều tâm sức nghiên cứu về Hồ
Chí Minh như: E.Côbêlép, Nguyễn Đài Trang... Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết

được đăng trên các tạp chí chuyên ngành bàn về tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
Các tác giả đã làm rõ nguồn gốc hình thành, nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người
Công an nhân dân
Đạo đức người Công an nhân dân có vai trò rất quan trọng trong công tác chiến
đấu, xây dựng, trưởng thành của lực lượng Công an nhân dân. Trong lực lượng Công an,
đã có một số công trình khoa học, đề tài, bài viết, báo cáo đề cập đến công tác xây dựng
lực lượng liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người Công an nhân dân. Các
công trình này cung cấp một số cơ sở để nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng và đề ra
giải pháp góp phần giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên Đại học
Cảnh sát nhân dân.
Có thể kể đến cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân, 70 năm
Công an nhân dân với tác phẩm Tư cách người công an cách mạng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh của tác giả Tô Lâm... Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết của các tác giả
trong và ngoài ngành Công an đã được công bố trên Tạp chí Công an nhân dân, trên
các báo Công an nhân dân đề cập đến vấn đề nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức người Công an nhân dân.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cho con người Việt Nam và cho lực lượng Công an nhân dân
Liên quan đến giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho con người Việt
Nam nói chung, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Công trình “Học tập
tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xây dựng nền văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay”
của Thành Duy và Lê Quý Đức, “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao
đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay” của tác giả
Nguyễn Thế Kiệt, “Giáo dục lối sống cho sinh viên Việt Nam hiện nay theo tư tưởng
và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của tác giả Doãn Thị Chín.
Bàn về giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho Công an nhân dân có các
công trình như: kỷ yếu “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ” của Bộ Công an, Kỷ yếu “60
năm Công an nhân dân làm theo lời Bác” của Bộ Công an, “Góp phần nghiên cứu,

vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế” của tác
giả Nguyễn Bình Ban…
1.2. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục
nghiên cứu
1.2.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu


6
Thứ nhất, các tác giả đã chỉ ra nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức bao gồm giá trị đạo đức truyền dân tộc Việt Nam, tinh hoa đạo đức nhân
loại và đạo đức Mác - Lênin. Các tác giả phân tích làm rõ tư tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức với nội dung cơ bản thể hiện ở các phương diện đó là vị trí, vai trò của
đạo đức; chuẩn mực đạo đức cần xây dựng là: trung với nước, hiếu với dân; cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tình yêu thương con người; tinh thần quốc tế
trong sáng.
Thứ hai, bên cạnh tư tưởng về đạo đức, các tác giả khẳng định Hồ Chí Minh là
tấm gương mẫu mực trong việc thực hành đạo đức cách mạng. Tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người vĩ đại, một lãnh tụ cách mạng lỗi lạc,
một chiến sĩ cộng sản kiên trung, nhưng cũng là tấm gương đạo đức của một con
người bình thường, gần gũi ai cũng có thể học tập và làm theo.
Thứ ba, trên cơ sở khẳng định giá trị tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, các tác giả đã đề cập đến sức lan tỏa của đạo đức Hồ Chí Minh đến các
tầng lớp nhân dân từ thiếu niên, nhi đồng, thanh niên đến người chiến sĩ quân đội,
công an nhân dân, từ đội ngũ trí thức, nhà báo, thầy thuốc đến văn nghệ sĩ, từ nông
dân đến công nhân…
Về nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người Công an nhân dân và
vận dụng vào giáo dục, rèn luyện tư cách đạo đức người Công an nhân dân hiện nay:
Các nhà khoa học, nhất là trong lực lượng Công an nhân dân đã phân tích, làm rõ nội
dung khoa học và cách mạng, giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức người

Công an nhân dân qua Sáu điều Bác Hồ dạy. Những kết quả nghiên cứu của các công
trình trên là những tư liệu bổ ích, quan trọng, giúp cho nghiên cứu sinh kế thừa trong
quá trình thực hiện luận án.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu
Thứ nhất, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên biệt về giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học CSND hiện nay
dưới góc độ triết học.
Thứ hai, chưa có công trình nào chỉ ra những đặc điểm riêng mang tính đặc thù
của sinh viên Đại học Cảnh sát nhân dân, cũng như đánh giá khách quan thực trạng
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên Đại học Cảnh sát nhân dân.
Thứ ba, chưa có công trình nào đề xuất các giải pháp mang tính đột phá, có
trọng tâm, trọng điểm trong giáo dục đạo đức cho sinh viên Đại học Cảnh sát nhân
dân, nhất là gắn với tác động của sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên, nhân dân mà Đảng ta đã chỉ ra.
Trên cơ sở đối tượng, mục đích, nhiệm vụ của đề tài, nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục
đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề sau dưới góc độ triết học, không trùng lặp với các
công trình khoa học đã công bố.


7
Thứ nhất, tiếp tục phân tích làm rõ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách đạo đức người
CAND theo Sáu điều Bác Hồ dạy.
Thứ hai, phân tích đặc điểm, tình hình sinh viên trường Đại học CSND hiện nay;
khảo sát, đánh giá thực trạng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh
viên trường Đại học CSND, chỉ rõ thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra.
Thứ ba, xác định phương hướng và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học CSND hiện nay.
Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁO DỤC
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẢNH SÁT NHÂN DÂN
2.1. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
2.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức trong đời
sống cá nhân và xã hội
Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Trong tác
phẩm Đường cách mệnh, Người đã đề cập đến 23 điều về tư cách của người cách
mạng phải giải quyết trên cả ba mối quan hệ: Đối với mình, đối với người và đối với
việc. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh có rất nhiều
bài viết ngắn gọn, cô đọng bàn về đạo đức cách mạng. Trong bản Di chúc, Người đã
lưu ý: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”.
Đánh giá vai trò của đạo đức, Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức là nguồn nuôi
dưỡng và phát triển con người. Người coi đạo đức như gốc của cây, như ngọn nguồn
của sông suối. Trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền, Người luôn lo lắng trước
nguy cơ xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng nhân dân, rơi vào thoái hóa biến chất
của Đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”.
2.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
2.1.2.1. Trung với nước, hiếu với dân
“Trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất. Đó
là lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc và nhân dân. “Trung” và “hiếu” là những giá
trị đạo đức truyền thống trong văn hóa Việt Nam, chịu ảnh hưởng của nền đạo đức
phương Đông. Trên cơ sở kế thừa, phát triển những giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc, những khái niệm đạo đức “trung” và “hiếu” được Hồ Chí Minh nâng lên một giá


8

trị cao đẹp hơn, đó là đạo đức của con người trong thời đại cách mạng phục vụ cho lợi
ích của Tổ quốc, phục vụ lợi ích cho nhân dân.
2.1.2.2. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là chuẩn mực gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người, do đó Hồ
Chí Minh đã đề cập đến phẩm chất này thường xuyên nhất. Chuẩn mực đạo đức cách
mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là những đức tính hoàn thành một con
người mới, con người hành động, hăng say trong lao động và kiên cường trong chiến
đấu.
“Cần” tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai, làm việc có kế hoạch, tăng
năng suất lao động, làm việc có hiệu quả, có kết quả tốt. Trong quá trình lao động,
“Làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo.
Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để chờ ngày mai”.
“Kiệm” nghĩa là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, tiết kiệm thời
gian, tiền bạc, công sức. “Kiệm” là làm việc gì cũng tính toán để bỏ ra sức của, sức
người và thời gian ít nhất nhưng đạt kết quả nhanh nhất và hiệu quả nhất. Khi thực
hành tiết kiệm phải hoàn toàn triệt để, tiết kiệm từ việc lớn đến việc nhỏ, không coi
thường việc nhỏ: “Nếu một miếng giấy nhỏ đủ viết, thì chớ dùng một tờ to”.
“Liêm” là trong sáng, không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng, sống liêm
khiết, trong sạch, tôn trọng của công và của dân.
Chính nghĩa là không tà, là thẳng thắn, đứng đắn. Chính phải “chính với
mình”, “chính với người” và “chính với công việc”.
Các chuẩn mực đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính” có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Sự tồn tại, hiện thực của khái niệm này là cơ sở để thực hành khái niệm kia và
ngược lại sự đảm bảo của chuẩn mực đạo đức này lại chính là mục đích của việc thực
hành chuẩn mực đạo đức khác. “Cần” mà không “kiệm” giống như một
nó đã luôn hiện hữu trong hành động cách mạng của Người, là mục đích lớn
nhất mà Người luôn hướng đến.
2.1.3.2. Xây đi đôi với chống
Đạo đức của người cách mạng bên cạnh thực hành những chuẩn mực tốt đẹp cần
phải chống lại những điều trái ngược với lợi ích của quần chúng nhân dân. Làm cách

mạng là quá trình kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. Để xây và chống mang lại hiệu
quả cao cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, mỗi một nội dung xây dựng đạo đức
mới và chống sự tiêu cực cần phải tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương
cái tốt, phê phán cái xấu, thực sự phổ biến rộng rãi nội dung về đạo đức mới trong
nhân dân.
Xây phải đi đôi với chống, trước hết phải loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức
trong đời sống hàng ngày. Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu trước hết
phải “chống chủ nghĩa cá nhân”, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn
chặn. Chủ nghĩa cá nhân sinh ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm, như quan liêu, mệnh
lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí, xa hoa, quyền hành, tự cao tự đại, coi thường


9
tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền... Chủ nghĩa cá nhân là mối
nguy hại cho cá nhân con người, cho một đảng và cả dân tộc.
2.1.3.3. Tu dưỡng đạo đức suốt đời
Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở tự tu dưỡng đạo đức
của mỗi người, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Tu dưỡng đạo đức phải gắn liền với hoạt động thực tiễn, trên tinh thần tự giác,
tự nguyện, dựa vào lương tâm và trách nhiệm của mỗi người. Chỉ có như vậy thì việc
tu dưỡng mới có kết quả trong mọi môi trường, mọi mối quan hệ, mọi địa bàn, mọi
hoàn cảnh. Nội dung tu dưỡng, rèn luyện căn bản là: Phải tôn trọng lợi ích tập thể, lợi
ích tập thể là mục đích cao nhất cho mục đích phấn đấu của mỗi con người cách
mạng.
2.2. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại
học Cảnh sát nhân dân
2.2.1. Chủ thể giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
trường Đại học Cảnh sát nhân dân

Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học CSND
được xác định là trách nhiệm của tất cả các tổ chức, cá nhân trong trường Đại học
CSND đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của các cấp ủy đảng và Ban Giám
hiệu nhà trường.
Lực lượng tiến hành trực tiếp công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cho sinh viên trường Đại học CSND là đội ngũ cán bộ, giảng viên, báo cáo viên,
đội ngũ cán bộ chuyên trách liên quan thuộc Phòng Công tác Đảng, Công tác chính
trị và Công tác quần chúng (CTĐ, CTCT & CTQC), cán bộ Phòng Quản lý học viên
(QLHV), và các cán bộ thuộc các phòng quản lý giáo dục của trường Đại học CSND.
2.2.2. Nội dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
trường Đại học Cảnh sát nhân dân
2.2.2.1. Giáo dục lý tưởng cách mạng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng
Giáo dục lý tưởng cách mạng, đây là một nội dung hết sức quan trọng trong giáo
dục đạo đức cho sinh viên trường Đại học CSND. Trước hết đã là một chiến sĩ
CAND phải tuyệt đối trung thành với Đảng với đường lối đổi mới của Đảng trong
giai đoạn cách mạng mới. Trung thành với mục tiêu phấn đấu của Đảng đó là xây
dựng một nước Việt Nam XHCN. Giữ vững lập trường của giai cấp công nhân, lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho mọi
hành động. Lý tưởng cách mạng là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho
CNXH được hình thành và hoàn thiện. Giác ngộ lý tưởng cách mạng chính là giáo
dục cho sinh viên lý tưởng sống và niềm tin vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh
đạo.
2.2.2.2. Giáo dục đạo đức cách mạng


10
Thứ nhất, giáo dục phẩm chất “Trung với nước, hiếu với dân”
Thứ hai, giáo dục cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Thứ ba, giáo dục cho sinh viên lòng yêu thương con người, sống có tình nghĩa
Thứ tư, giáo dục tinh thần quốc tế trong sáng

2.2.2.3. Giáo dục tư cách đạo đức người Công an nhân dân cho sinh viên
Một là, đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính
Hai là, đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ
Ba là, đối với chính phủ, phải tuyệt đối trung thành
Bốn là, đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép
Năm là, đối với công việc, phải tận tụy
Sáu là, đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo
2.2.3. Phương pháp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
trường Đại học Cảnh sát nhân dân
2.2.3.1. Kết hợp giữa học đi đôi với hành, nêu gương người tốt, việc tốt
Trong nhà trường, các hoạt động giáo dục rất phong phú và đa dạng. Học đi đôi
với hành là một phương pháp cơ bản của giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, học phải luôn gắn bó hữu cơ, không tách rời hành, học
để ứng dụng vào thực tiễn đa dạng và phong phú. Người nói: “Học với hành phải đi
đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi
chảy”. Đối với sinh viên, thực hiện “học đi đôi với hành” trong mọi hoạt động của
mình như: trong học tập, trong sinh hoạt, trong lao động, trong các mối quan hệ gia
đình, nhà trường và xã hội.
2.2.3.2. Kết hợp giữa xây dựng đạo đức mới và chống các biểu hiện phi đạo đức
Đối với sinh viên, “xây” là xây dựng, học tập, tu dưỡng, rèn luyện những phẩm
chất đạo đức tốt đẹp, xây dựng tập thể tốt, xây dựng tinh thần yêu Tổ quốc, yêu nhân
dân, xây dựng ý thức tổ chức, kỷ luật... “Chống” là chống lại những biểu hiện trái với
đạo đức như: lười biếng, giả dối, lãng phí, kiêu ngạo, vô tổ chức, vô kỷ luật, mất đoàn
kết, chỉ lo cho lợi ích cá nhân làm ảnh hưởng đến lợi ích tập thể, các biểu hiện vi
phạm nội quy của lớp, của trường, vi phạm pháp luật. Hồ Chí Minh chỉ ra thanh niên
sinh viên: “Cần phải chống tâm lý tự tư tự lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng
của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh
lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy
mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”.
2.2.3.3. Thông qua các phong trào thi đua do Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ

chức
Hồ Chí Minh cho rằng việc giáo dục sinh viên phải biết dựa vào tổ chức, tập thể.
Người chủ trương đưa thanh niên, sinh viên vào các tổ chức Đoàn, Hội, thông qua
các tổ chức mà giáo dục. Người đánh giá cao vai trò của Đoàn thanh niên trong việc
giác ngộ, tổ chức, giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ. Người từng nói: “Đoàn thanh niên


11
lao động phải là cánh tay đắc lực của Đảng trong việc tổ chức và giáo dục thế hệ
thanh niên và nhi đồng thành những chiến sĩ tuyệt đối trung thành…”.
2.2.3.4. Sinh viên tự giáo dục, tự rèn luyện, tu dưỡng đạo đức
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc kết hợp quá trình giáo dục với tự giáo dục, tự tu
dưỡng, tự rèn luyện. Người thường xuyên nhắc nhở thanh niên, sinh viên tự tu dưỡng, tự
rèn luyện mình trở thành những người vừa có đạo đức, có lý tưởng cách mạng, vừa có
trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, sức khỏe để có thể đảm nhận và hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao.
Đối với mỗi sinh viên, việc tu dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi
hoạt động thực tiễn của bản thân: trong sinh hoạt, học tập, lao động, trong thi đua;
trong mối quan hệ từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn, từ anh em, bạn bè, đồng chí; từ
gia đình, nhà trường, xã hội, đối với Tổ quốc, tập thể, với Đảng, với Nhà nước, với
nhân dân và quốc tế.
2.2.4. Vai trò của giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
trường Đại học Cảnh sát nhân dân
Thứ nhất, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức góp phần quan trọng trong
việc hình thành, phát triển ý thức đạo đức cách mạng cho sinh viên trường Đại học
CSND
Thứ hai, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức góp phần tích cực trong xây
dựng những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp cho sinh viên trường Đại học CSND
Ba là, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức góp phần tạo động lực kích
thích các hành vi đạo đức tốt đẹp của sinh viên trường Đại học CSND

Chương 3
GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẢNH SÁT NHÂN DÂN
HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân
3.1.1. Khái quát về trường Đại học Cảnh sát nhân dân
Trường Đại học CSND tiền thân là trường Hạ Sỹ quan CSND II, được thành lập
vào ngày 24/4/1976 theo Quyết định số 13/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay
là Bộ Công an). Trải qua nhiều lần đổi tên và nâng cấp, ngày 28/7/2003, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 152/2003/QĐ - TTg thành lập Trường Đại học
CSND trên cơ sở Phân hiệu Học viện CSND. Qua hơn 40 năm xây dựng và phát
triển, Trường Đại học CSND không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng,
trở thành một trong những cơ sở giáo dục Đại học có uy tín trong lĩnh vực bảo đảm
trật tự an toàn xã hội khu vực phía Nam của Tổ quốc.


12
Trường Đại học CSND nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, tuân thủ những
quy chế, quy định về quản lý giáo dục, đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tuy
nhiên, do đặc thù của lực lượng Công an là lực lượng vũ trang nên trường Đại học
CSND có những đặc điểm đặc trưng so với trường khác trong hệ thống giáo dục quốc
dân như:
Thứ nhất, đối với trường Đại học CSND, việc xây dựng nề nếp kỷ luật, kỷ
cương là một yêu cầu giáo dục bắt buộc đối với nhà trường.
Thứ hai, công tác giáo dục sinh viên trong trường Đại học CSND thực chất vừa
là công tác quản lý CBCS CAND vừa là công tác quản lý, giáo dục sinh viên trong
quá trình học tập, rèn luyện tại trường.
3.1.2. Tình hình, đặc điểm sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân
3.1.2.1. Tình hình sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân

Về cơ cấu:
Số lượng sinh viên nam luôn chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn so với số lượng sinh viên
nữ (Tỷ lệ sinh viên nam chiếm: 90-95%, nữ: 5-10%), đây là điểm mang tính đặc thù
của sinh viên trường Đại học CSND. Cụ thể như: Khóa D24S có 80 nữ/814 sinh viên
chiếm 9,28%; Khóa D25S có 93 nữ/862 sinh viên chiếm 10,78%; Khóa D26S có 64
nữ/695 sinh viên chiếm 9,20% .
Về độ tuổi:
Tuổi của sinh viên các khóa D22S đến Khóa D26S dao động trong khoảng từ 18
- 26 đối với diện sinh viên trung học phổ thông; khoảng từ 20 - 29 đối với diện sinh
viên là hạ sĩ quan, sĩ quan và đối tượng sinh viên là người đồng bào dân tộc thiểu số.
Sinh viên trường Đại học CSND có đặc điểm tuổi đời còn trẻ nên họ rất năng động,
sôi nổi, thích sự tìm tòi và sáng tạo, thích khẳng định cá tính và quyết định của bản thân
mình. Tuy nhiên, do được đào tạo trong môi trường lực lượng vũ trang, nên đại đa số
sinh viên có ý thức tôn trọng chính bản thân mình, sống có trách nhiệm với bản thân,
thông qua việc chăm lo học tập, rèn luyện, nâng cao sức khỏe để phấn đấu trở thành một
chiến sĩ CAND có đầy đủ phẩm chất, trí tuệ, năng lực, sức khỏe sẵn sàng nhận và hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao.
3.1.2.2. Đặc điểm sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân
Thứ nhất, các yêu cầu trong tuyển sinh đầu vào, đặc biệt là phẩm chất đạo đức,
quy định nền tảng cho việc xây dựng đạo đức và tư cách người Công an nhân dân
Thứ hai, biên chế, tổ chức và điều kiện ăn, ở, sinh hoạt của sinh viên
Thứ ba, các yêu cầu về kỷ luật học tập, rèn luyện
Thứ tư, các quy định về các giờ học thực tiễn trong chương trình đào tạo chung
tác động đến những hành vi đạo đức thực tiễn của sinh viên
Từ những đặc điểm và tình hình trên có thể thấy, sinh viên trường Đại học Cảnh
sát nhân dân trong quá trình học tập, rèn luyện và sinh hoạt đã được tổ chức một cách
khoa học, hợp lý. Được đảm bảo về cơ sở vật chất, được tạo điều kiện thuận lợi trong
việc học tập, được tổ chức trong hoạt động rèn luyện và sinh hoạt. Đây là nền tảng



13
quan trọng giúp cho việc nâng cao năng lực và tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo
đức cách mạng của sinh viên.
3.2. Thực trạng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
trường Đại học Cảnh sát nhân dân
3.2.1. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên thông qua vai
trò của các chủ thể giáo dục ở trường Đại học Cảnh sát nhân dân
3.2.1.1. Về số lượng chủ thể giáo dục
Đảng ủy, Ban Giám hiệu trường Đại học CSND luôn coi trọng, thường xuyên
chỉ đạo công tác xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ,
giảng viên. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ, giảng viên ngày càng phát triển cả về số
lượng, chất lượng và cơ bản đáp ứng được yêu cầu giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cho sinh viên hiện nay.
3.2.1.2. Về chất lượng
Đội ngũ cán bộ, giảng viên trường Đại học CSND không chỉ tăng lên về mặt số
lượng mà xét về mặt bằng trình độ cũng đã có sự chuyển biến rõ nét.
Về trình độ học vấn, năm học 2011 - 2012: tiến sĩ là 3,84%, thạc sĩ là 21,99%,
đại học là 56,99%, cao đẳng là 2,98% và trung cấp là 14,21%. Đến năm học 2016 2017: tiến sĩ là 8,34%, thạc sĩ là 40,54%, đại học là 38,03%, cao đẳng là 2,75% và
trung cấp là 10,34%.
Về trình độ lý luận chính trị, năm học 2011 - 2012: Cao cấp là 13,01%, Trung
cấp là 55,67%, Sơ cấp là 31,31%. Đến năm học 2016 - 2017: Cao cấp là 12,88%,
Trung cấp là 69,94%, Sơ cấp là 17,18%.
Về trình độ nghiệp vụ Công an, nghiệp vụ sư phạm, nghiệp vụ quản lý giáo dục:
Không ngừng tăng lên, nhất là 100% cán bộ, giảng viên đều được bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm và nghiệp vụ công an.
Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống:
Theo báo cáo của trường Đại học CSND, tuyệt đại đa số cán bộ, giảng viên luôn
vững vàng về chính trị, tư tưởng; trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và
nhân dân; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng; giữ vững
kỷ cương, kỷ luật; luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tụy với công việc, hoàn

thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Về ý thức trách nhiệm:
Từ thực tiễn hoạt động giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
trong trường Đại học CSND thời gian qua cho thấy, đa số cán bộ, giảng viên ngày
càng nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn về vai trò của công tác giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cho sinh viên.
3.2.1.3. Về tổ chức bộ máy, phân công nhiệm vụ trong chủ thể giáo dục
Đảng ủy - Ban Giám hiệu
Đảng ủy, Ban Giám hiệu trường Đại học CSND đã làm tốt vai trò lãnh đạo, định
hướng, chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra tất cả các đơn vị, tổ chức đoàn


14
thể và toàn thể cán bộ, giảng viên Nhà trường đối với công tác giáo dục đạo đức cho
sinh viên đã đưa việc lãnh đạo, định hướng, chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên theo vào Nghị quyết Đại hội đại
biểu Đảng bộ các nhiệm kỳ 2010 - 2015, nhiệm kỳ 2015 - 2020; Nghị quyết về thực
hiện nhiệm vụ công tác năm học, chương trình công tác trong các năm học…
Đội ngũ giảng viên Bộ môn LLCT & KHXHNV
Đội ngũ giảng viên Bộ môn LLCT & KHXHNV đã phát huy tốt vai trò là chủ
thể nòng cốt trong công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh
viên; đã có sự phối hợp chặt chẽ với các chủ thể khác trong Nhà trường tổ chức
thực hiện tốt công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên.
Đội ngũ báo cáo viên
Đội ngũ báo cáo viên Nhà trường đã thực sự trở thành lực lượng cơ bản, là công
cụ quan trọng hàng đầu, góp phần quan trọng trong việc tuyên truyền miệng, phổ biến
các Văn kiện của Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng
- khóa XI, khóa XII; Nghị quyết số 05-NQ/ĐUCA, ngày 22/12/2016 của Đảng ủy
Công an Trung ương...
Đội ngũ cán bộ Phòng CTĐ, CTCT & CTQC

Tham mưu Đảng ủy, Ban Giám hiệu xây dựng và ban hành các văn bản liên
quan đến công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên; thống
nhất quản lý và tổ chức thực hiện công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cho sinh viên. Chương trình, kế hoạch giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên
của CTĐ, CTCT & CTQC ngày càng được quan tâm, hoạt động thường xuyên tăng
lên cả về chất lượng nội dung, thời lượng, tần suất, với nhiều hình thức giáo dục đạo
đức cách mạng cho sinh viên.
Đội ngũ cán bộ Phòng QLHV
Cán bộ Phòng QLHV với vai trò là người trực tiếp quản lý, theo dõi sinh viên
trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại Trường, đã thường xuyên thực hiện các
nội dung của công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên với
nhiều biện pháp đa dạng, phong phú khác như: Thông qua sinh hoạt chính trị đầu
khóa, thông qua các buổi chào cờ hàng tuần để nhận xét, nhắc nhở, động viên sinh
viên chấp hành tốt Điều lệnh CAND, quy định của Nhà trường… Qua đó, đề xuất
khen thưởng những sinh viên có tinh thần và kết quả học tập, rèn luyện tốt; phê bình,
kiểm điểm sinh viên có ý thức học tập, rèn luyện kém.
Đoàn Thanh niên trường Đại học CSND
Công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên của Đoàn
trường đã được tiến hành thường xuyên, nội dung phong phú với hình thức, cách làm
mới, đặc biệt là trong những dịp Kỷ niệm các ngày lễ lớn của Đảng, Nhà nước, lực
lượng CAND và Ngày truyền thống của Nhà trường. Nội dung giáo dục tập trung vào
việc học tập và thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy CAND, gắn với việc nghiên cứu, học
tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.


15
Tuy nhiên, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên thông qua
vai trò của các chủ thể giáo dục ở trường Đại học Cảnh sát nhân dân vẫn còn tồn tại
một số hạn chế nhất định:
Thứ nhất, trình độ của đội ngũ cán bộ, giảng viên còn thấp so với mục tiêu cụ

thể trong Đề án thành phần số 5 thuộc Đề án “Quy hoạch tổng thể, năng lực và chất
lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong CAND dến năm 2020”.
Thứ hai, vẫn còn một bộ phận cán bộ, giảng viên chưa tích cực, chủ động học
tập, tu dưỡng theo Sáu điều chủ tịch Hồ Chí Minh dạy lực lượng CAND; ý thức tổ
chức kỷ luật chưa cao.
Thứ ba, một bộ phận cán bộ, giảng viên thậm chí cả một số cấp ủy, lãnh đạo, chỉ
huy các đơn vị chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên.
Thứ tư, một số giảng viên Bộ môn LLCT & KHXHNV còn lúng túng khi liên hệ
vận dụng các nội dung về giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào bài giảng
trên lớp.
Thứ năm, hoạt động tuyên truyền miệng của một số báo cáo viên chỉ mới dừng
lại ở việc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chưa
thông tin nhiều về tình hình thời sự, âm mưu chống phá, giải pháp đấu tranh với các
luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động; những chiến công, thành tích,
gương người tốt, việc tốt để định hướng tư tưởng cho sinh viên.
Thứ sáu, một số cán bộ chuyên trách thực hiện công tác giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cho sinh viên còn hạn chế trong việc vận dụng kiến thức, năng
lực tổng hợp để tham mưu, quản lý, tổ chức thực hiện công tác.
Thứ bảy, một số cán bộ quản lý sinh viên chưa thật sự thành thạo trong việc kết
hợp, lồng ghép các nội dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức vào quá
trình quản lý sinh viên.
Thứ tám, công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên của
Đoàn thanh niên chưa thật sự được quan tâm đúng mức, nội dung, hình thức giáo dục
thiếu hấp dẫn.
3.2.2. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên thông qua
chương trình giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên Đại học CSND được
xác định là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp thiết. Nhiệm vụ này được thực hiện
trước hết thông qua thực hiện nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy các

môn khoa học Mác - Lênin, trong đó môn Tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò nòng
cốt.
Thực tế cho thấy, nội dung các học phần, môn học các môn khoa học Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh không ngừng được cải tiến theo hướng ngắn gọn
hơn, hiện đại hơn, thiết thực hơn và đã bám sát thực tiễn; khắc phục dần sự trùng lặp
giữa các học phần, môn học, cấp học; tạo khả năng tinh lọc kiến thức, giảm tải được


16
thời lượng học tập của sinh viên. Trong các bài giảng, giảng viên Bộ môn LLCT &
KHXHNV đã có nhiều cố gắng trong việc gắn lý luận chính trị với thực tiễn đời sống
xã hội, nhất là thực tiễn công tác Công an.
Tuy nhiên, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thông qua giảng dạy các
môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đại học CSND vẫn còn những
hạn chế nhất định:
Thứ nhất, việc giảng dạy các môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, môn tư tưởng Hồ Chí Minh là môn học có ý nghĩa quan trọng, góp
phần quyết định thành công của việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho
sinh viên, thì nội dung, chương trình môn học này chưa thật sự phù hợp.
Thứ ba, phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh của các giảng viên trường Đại học CSND chủ yếu là phương pháp thuyết
trình.
Thứ tư, việc giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
theo chương trình chính khóa của một số giảng viên Bộ môn LLCT & KHXHNV
chưa nâng cao được tính tích cực, chủ động của sinh viên; còn nặng về lý thuyết,
thiếu minh chứng bằng thực tiễn đời sống hoặc liên hệ với thực tiễn công tác Công
an.
3.2.3. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thông qua chương trình bồi
dưỡng lý luận chính trị, các phong trào thi đua, các hoạt động thực tế, thực tập và
các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao
Đảng ủy trường Đại học CSND đã tổ chức mở các lớp bồi dưỡng lý luận chính

trị dành cho đối tượng kết nạp đảng với chương trình 5 bài lý luận chính trị, thời
lượng 5 - 10 ngày; các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đảng viên mới với
chương trình 10 bài lý luận chính trị, thời lượng 6 - 10 ngày. Các lớp bồi dưỡng lý
luận chính trị được tổ chức theo hình thức học tập trung, lên lớp nghe giảng, tự
nghiên cứu, lên lớp thảo luận giải đáp và làm bài kiểm tra tại giảng đường hoặc viết
bài thu hoạch.
Tuy nhiên, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức thông qua chương trình
bồi dưỡng lý luận chính trị, các phong trào thi đua, các hoạt động thực tế, thực tập
và các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao vẫn còn tồn tại một số hạn chế
nhất định:
Thứ nhất, đối với các lớp bồi dưỡng, do quân số lớp học đông, thường học vào
buổi tối; một số báo cáo viên chủ yếu sử dụng phương pháp thuyết trình nên chưa
kích thích được sự hứng thú của tuyệt đại đa số sinh viên.
Thứ hai, quy trình, nguyên tắc và tác phong làm việc của một số cán bộ, giảng
viên còn chưa đảm bảo.
Thứ ba, tinh thần thái độ học tập, tham gia các phong trào, hoạt động ngoại khóa
của một bộ phận sinh viên còn hạn chế; nhất là đối với những sinh viên có tư tưởng


17
bình quân chủ nghĩa, lười biếng học tập, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất
đạo đức thường có thái độ thờ ơ với các phong trào thi đua, hoạt động chính trị xã hội
và các hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng, thể dục thể thao.
Thứ tư, đối với các phong trào thi đua, một số cuộc thi được tổ chức còn mang
nặng tính hình thức chạy theo số lượng. Hình thức tổ chức chưa thật sinh động, hấp
dẫn, chưa có sự phối kết hợp kịp thời nhuần nhuyễn, nên dẫn đến chất lượng giáo dục
chưa cao.
3.3. Kết quả giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
3.3.1. Những thành tựu

Một là, những thành tựu trong việc giáo dục giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức góp phần quan trọng trong việc hình thành, phát triển ý thức đạo đức cho
sinh viên trường Đại học CSND
Hai là, những thành tựu trong việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
góp phần tích cực trong xây dựng những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho sinh viên
trường Đại học CSND
Ba là, những thành tựu trong việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
góp phần tạo động lực kích thích các hành vi đạo đức tốt đẹp của sinh viên trường
Đại học CSND
3.3.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
3.3.2.1. Những tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, hoạt động giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức góp phần xây
dựng phẩm chất đạo đức cách mạng cho sinh viên Đại học CSND chưa thường
xuyên, chưa thật sự hợp lý, đôi khi còn nặng về hình thức và chưa đồng bộ.
Thứ hai, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên còn nặng về
khẩu hiệu, tuyên truyền nên chưa tác động tích cực nhất đến quá trình học tập, tu
dưỡng theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của sinh viên.
Thứ ba, trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường
Đại học CSND thì việc vận dụng một cách khoa học các chuẩn mực đạo đức cách
mạng vào thực tiễn chưa được chú ý đúng mức, còn chung chung, nặng về lý thuyết,
ít có dẫn chứng cụ thể sinh động, từ đó dẫn đến tình trạng sinh viên cảm thấy nhiều
mâu thuẫn giữa lý luận trong nhà trường với các biểu hiện cụ thể ngoài xã hội, làm
cho sinh viên giao động lập trường tư tưởng, niềm tin.
Thứ tư, thời lượng dành cho việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cho sinh viên trường Đại học CSND còn quá ít so với mục đích, yêu cầu đặt ra.
Thứ năm, vẫn còn tình trạng một số sinh viên chưa đề cao ý thức tự giác, tự giáo
dục trong rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức.
3.3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế



18
Một là, trong nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn vẫn còn một số cán bộ,
giảng viên nhà trường chưa đánh giá đúng tầm quan trong của việc giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học CSND.
Hai là, việc quán triệt và thực hiện phương pháp nêu gương trong giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học CSND trong thời gian
qua chưa được quan tâm đúng mức, đẫn đến kết quả giáo dục đạo đức chưa cao thật
sự đạt hiệu quả cao.
Ba là, nội dung, chương trình, phương pháp liên quan đến giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học CSND còn mang nặng tính lý
luận, khô cứng, chưa thật sự được vận dụng sáng tạo vào từng ngành học, chưa đáp
ứng về mặt thời lượng, đặc biệt chưa gắn liền với tình hình thực tiễn hiện nay.
Bốn là, trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường
Đại học CSND, thì việc định hướng, chuẩn hóa các giá trị trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức vào điều kiện cụ thể của từng đối tượng lớp học từng ngành học vẫn
còn hạn chế, chưa thiết thực, chưa được quan tâm đúng mức nên hiệu quả, chất lượng
giáo dục đạt được chưa cao.
Năm là, trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên, trường
Đại học CSND chưa tạo được môi trường thật sự lành mạnh cho công tác giáo dục
đạo đức, văn hóa.
Sáu là, ý thức tự giác trong rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của một bộ
phận sinh viên còn yếu.
3.4. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại
học Cảnh sát nhân dân hiện nay - những vấn đề đặt ra từ thực tiễn
3.4.1. Mâu thuẫn giữa việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
nhà trường với những tác động tiêu cực ngoài xã hội, nhất là tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí đang gây nhức nhối xã hội và đang hàng ngày, hàng giờ tác động
đến sinh viên
Thứ nhất, sự tác động của kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế trong
bối cảnh toàn cầu hoá dẫn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là

giới trẻ có biểu hiện nhận thức lệch chuẩn về đạo đức.
Thứ hai, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí gây nhức nhối xã hội, đang hàng
ngày, hàng giờ tác động đến đạo đức sinh viên.
Thứ ba, môi trường giáo dục nhà trường còn có những biểu hiện tiêu cực trái
ngược với những nội dung giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
3.4.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức với
những hạn chế trong công tác giáo dục cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát
nhân dân
Thứ nhất, sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu, đội ngũ giảng viên,
cán bộ quản lý giáo dục trong trường Đại học CSND chưa tương xứng với yêu cầu
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức đặt ra.


19
Thứ hai, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người Công an cách
mạng trong giáo dục đạo đức cho sinh viên ở trường Đại học CSND còn có những
yếu tố gây trở ngại.
Thứ ba, các hình thức trong giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh
viên trường Đại học CSND chưa phong phú, hấp dẫn nên chưa thực sự tạo được sự
lôi cuốn người học.
Thứ tư, quy trình quản lý công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
chưa rõ ràng, chưa xây dựng được cơ chế phối hợp đồng bộ giữa giáo viên chủ
nhiệm, giảng viên khoa, bộ môn và các tổ chức khác trong nhà trường để thực hiện
vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Thứ năm, kết cấu chương trình dành cho giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức trong nhà trường chưa tương xứng với yêu cầu giáo dục đạo đức của người
CBCS CAND.
3.4.3. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức phải gắn với yêu cầu thực
tiễn, điều kiện kinh tế - xã hội, tình hình an ninh, trật tự với đời sống nhân dân ở
các tỉnh, thành phía Nam

Các tỉnh, thành phía Nam bao gồm các tỉnh, thành duyên hải miền Trung từ tỉnh
Quảng Trị đến Bình Thuận, Vùng Tây nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ là địa
bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh và kinh tế - xã hội. Đây là
địa bàn năng động của một trong những khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên
thế giới, khu vực phía Nam Việt Nam đang được xem như là điểm đến hấp dẫn cho
các nhà đầu tư nước ngoài.
Các tỉnh, thành phía Nam có chung biên giới hai quốc gia Camphuchia và Lào. Do
vậy, đây là điều kiện thuận lợi để phát triển giao thương. Không những thế, hầu hết các
tỉnh, thành phía Nam đều thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội phát triển khá cao,
đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao, trình độ dân trí khá cao, tỷ lệ hộ đói nghèo
thấp so với các vùng trong cả nước. Chính vì vậy, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cho sinh viên đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình, lựa chọn
hình thức, biện pháp cho phù hợp với đặc điểm tình hình trên.
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẢNH SÁT NHÂN DÂN HIỆN NAY
4.1. Phương hướng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh
viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
4.1.1. Phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của Đảng ủy, Ban Giám
hiệu trường Đại học Cảnh sát nhân dân nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên


20
Một là, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức phải quán triệt thực hiện
nghiêm túc của nghị quyết, chỉ thị của Đảng, kế hoạch, chương trình hành động của
Bộ Công an về giáo dục đạo đức cho sinh viên.
Hai là, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên phải gắn với
nội dung công tác thường xuyên và là tiêu chí để đánh giá kết quả học tập, rèn luyện

của cán bộ và sinh viên.
Ba là, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên là trách nhiệm
của các cấp ủy Đảng, Ban Giám hiệu, các đơn vị chức năng, các đoàn thể chính trị xã hội và của toàn thể cán bộ, giảng viên, sinh viên nhà trường.
Bốn là, để hoạt động giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
đạt hiệu quả cao cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo chế độ, chính sách
nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, giảng viên và sinh viên
4.1.2. Đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại
học Cảnh sát nhân dân hiện nay
Quán triệt nguyên tắc này trong quá trình giáo dục là yếu tố quan trọng nâng cao
chất lượng dạy và học, đồng thời nâng cao chất lương của giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức trong việc hình thành và phát triển các chuẩn mực đạo đức sinh viên.
4.1.3. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên Đại học Cảnh
sát nhân dân
Để nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh
viên cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong nhà trường với giáo dục gia đình
và xã hội. Sự kết hợp này sẽ tạo nên tính thống nhất trong tư tưởng, hành động của
hoạt động giáo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên. Trong mối quan hệ
giữa ba chủ thể này, mỗi chủ thể giáo dục đều có vai trò, vị trí, chức năng riêng. Vì
vậy, trường Đại học CSND không thể xem nhẹ, hay buông lỏng bất kỳ yếu tố nào sẽ
ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cho sinh viên.
4.2. Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
4.2.1. Đề cao trách nhiệm nêu gương về đạo đức của Đảng ủy, Ban Giám
hiệu, lãnh đạo các đơn vị và của cán bộ, giảng viên trong việc giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự nghiệp giáo dục con
người. Trong giáo dục đạo đức, Người rất coi trọng phương thức “nêu gương”. Người

đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo phương thức của người xưa: “Dĩ nhân nhi giáo, dĩ
ngôn nhi giáo” (nghĩa là trước hết phải giáo dục bằng tấm gương sống của chính
mình, sau đó mới giáo dục bằng lời nói). Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một tấm
gương sống có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”.


21
Trong mấy năm gần đây, Đảng ban hành quy định về vấn đề nêu gương đó là:
Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương
của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp; Quy định số 55QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng
cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đến Hội nghị Trung ương 8 khóa
XII, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận và thông qua “Quy định về trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí
thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương” (Quy định 08).
Đối với trường Đại học Cảnh sát nhân dân, để hoạt động giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức cho sinh viên đạt hiệu quả tích cực thì nhất thiết phải thực hiện
tốt trách nhiệm nêu gương. Việc nêu gương trước hết phải được thực hiện từ những
người đứng đầu nhà trường, lãnh đạo các đơn vị đến đội ngũ cán bộ, giảng viên theo
nguyên tắc người giữ vị trí cao, vị trí quan trọng, nhất là người đứng đầu, càng phải
hết sức nêu gương. Đây phải được coi là giải pháp quan trọng nhất, then chốt nhất
trong việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên. Sự thiếu rèn
luyện, tu dưỡng, đặc biệt là sự thoái hóa, biến chất đạo đức của một bộ phận cán bộ,
giảng viên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi đạo đức, lối sống, ý thức kỷ luật của sinh
viên.
4.2.2. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy các môn khoa
học Mác - Lênin, mà nòng cốt là môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân
- Về đổi mới chương trình
Căn cứ vào chương trình trong tổng thể thời lượng đã có, giảng viên phải chọn
lọc về nội dung, kiến thức để chuyển tải cho sinh viên. Bộ môn LLCT & KHXHNV

rà soát lại chương trình, lược bớt những phần trùng lặp giữa những trình độ đào tạo.
- Về đổi mới nội dung
Đổi mới nội dung giáo dục phải sát với yêu cầu giáo dục phẩm chất đạo đức, bồi
dưỡng năng lực cho sinh viên; chỉnh lý, bổ sung nội dung hệ thống tài liệu dạy học,
nhất là tập bài giảng của các môn học, tài liệu chuyên khảo, bài tập tình huống. Nội
dung giảng dạy phải gắn với yêu cầu nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm trong
tình hình mới. Hệ thống giáo trình phải được hoàn chỉnh, chuẩn về nội dung đảm bảo
tính sư phạm.
- Về đổi mới phương pháp giảng dạy
Phương pháp giảng dạy cho phù hợp với đối tượng, với trình độ nhận thức của
chủ thể học tập là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.
Việc cải tiến và đổi mới phương pháp giảng dạy được thực hiện ở nhiều khâu trong
quá trình giảng dạy.
4.2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên giảng dạy các môn khoa học Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Đại học Cảnh sát nhân dân đảm bảo số
lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu giáo dục, đào tạo trong tình hình mới


22
Về số lượng:
Xây dựng quy hoạch tổng thể trước mắt và lâu dài đội ngũ giảng viên. Trước
mắt Bộ môn LLCT & KHXHNV rà soát đội ngũ giảng viên của mình, xem xét kỹ
từng giảng viên về khả năng giảng dạy, vấn đề cần đào tạo, bồi dưỡng…
Về chất lượng:
Tích cực đầu tư xây dựng đội ngũ giảng viên giỏi, điển hình có trình độ học vấn
cao làm nòng cốt trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở Bộ môn. Nhà trường
có kế hoạch cụ thể, mục tiêu cần đạt tới, tiêu chí đánh giá, lộ trình các bước triển khai
thực hiện đến từng giảng viên Bộ môn.
Về phẩm chất chính trị:
Người cán bố, giảng viên phải tuyệt đối trung thành với Đảng với Tổ quốc với

nhân dân, công bằng, vô tư, khách quan trung thực và có lối sống lành mạnh, tư
tưởng và tâm hồn trong sáng, có thái độ chân tình đối với sinh viên và đồng nghiệp.
4.2.4. Đẩy mạnh tuyên truyền, học tập tấm gương sáng ngời về đạo đức cách
mạng của Hồ Chí Minh gắn liền với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính
trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh” cho sinh viên Đại học Cảnh sát nhân dân
Tuyên truyền tấm gương sáng về đạo đức cách mạng, lối sống cao đẹp của Hồ
Chí Minh phải gắn liền với việc xây dựng, phát triển nhân rộng các gương điển hình
tiên tiến trong sinh viên. Việc xây dựng những điển hình tiên tiến sẽ tạo nên được sức
lan tỏa lớn trong sinh viên, tạo nên một phong trào thi đua học tập, rèn luyện sâu
rộng. Xây dựng và nhân rộng các gương điển hình tiên tiến trong khối sinh viên. Nêu
gương từ ngay chính trong hàng ngũ sinh viên sẽ tạo nên ảnh hưởng tuyên truyền rất
lớn. Mỗi sinh viên có thể tự nhận thức được việc học tập, làm theo những tấm gương
điển hình từ những việc đơn giản hàng ngày trong cuộc sống, trong học tập và rèn
luyện.
4.2.5. Xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức lành mạnh ở trường Đại học
Cảnh sát nhân dân
Việc xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục, bền bỉ và lâu dài, không chỉ dừng lại ở bề nổi; phải kết hợp giữa môi trường
văn hóa với môi trường tự nhiên; phát huy được các giá trị văn hóa sâu sắc trong tinh
thần, tình cảm, trí tuệ, tâm lý và sự cảm nhận, hài lòng của cán bộ giảng viên và sinh
viên trong trường.
4.2.6. Phát huy ý thức tự giác, tự giáo dục, rèn luyện của sinh viên trường Đại
học Cảnh sát nhân dân
Một là, có động cơ học tập đúng đắn.
Hai là, phải biết tự xây dựng kế hoạch học tập và phải quyết tâm thực hiện kế
hoạch đó một cách nghiêm túc.
Ba là, phải xây dựng được phương pháp tự học hiệu quả.



23
KẾT LUẬN
Trong sự nghiệp cách mạng nói chung, đặc biệt là trong tình hình thế giới, khu
vực, trong nước hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường tạo ra cho chúng ta
nhiều cơ hội thuận lơi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức, việc giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là nhiệm vụ cần thiết. Xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu
nhiệm vụ của lực lượng CAND, xuất phát từ đặc điểm sinh viên trường Đại học
CSND thì việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại
học CSND càng có vai trò hết sức đặc biệt quan trọng.
Nhận thức được vai trò, ý nghĩa to lớn của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
sinh viên, trường Đại học CSND thời gian qua đã quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ,
giảng viên, xây dựng nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục đạo đức cách
mạng cho sinh viên và đã tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được cần phát huy trong thời gian tới thì việc giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học CSND vẫn còn những tồn tại,
hạn chế nhất định.
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho
sinh viên trường Đại học CSND, luận án đề xuất các giải pháp sau: Đề cao trách
nhiệm nêu gương của Đảng ủy, Ban Giám hiệu, lãnh đạo các đơn vị, đội ngũ cán
bộ, giảng viên trường Đại học CSND; Đổi mới chương trình, nội dung,
phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, mà nòng cốt là môn học
Tư tưởng Hồ Chí Minh; Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên giảng dạy các môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường Đại học CSND đảm bảo số
lượng và chất lượng; Đẩy mạnh tuyên truyền, học tập tấm gương sáng ngời về đạo
đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với thực hiện Chỉ thị số 05CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” cho sinh viên trường Đại học CSND; Xây dựng môi
trường văn hóa, đạo đức lành mạnh ở trường Đại học CSND; Phát huy ý thức tự
giác, tự giáo dục, rèn luyện của sinh viên trường Đại học CSND.



×