Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Một số đặc điểm của truyện trạng xứ nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.89 KB, 71 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Văn Thị Bích Thảo

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRUYỆN TRẠNG XỨ NGHỆ

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Thị An

Hà Nội, tháng 10/2009


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….
1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………………………….
2. Lịch sử vấn đề .. …………………………………………………………………
3.Mục đích, ý nghĩa của đề tài ……………………………………………………..4
4.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu…………………………………………………... 5
5.Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………. 5
6. Bố cục luận văn……………………………………………………………………
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………….............
Chƣơng 1: Những vấn đề chung…………………………………………………..
1.1 Truyện trạng trong môi trường văn hóa dân gian xứ Nghệ……………………...
1.1.1 Về tên gọi xứ Nghệ……………………………………………………............
1.1.2 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên……………………………………………...
1.1.3 Tính cách con người xứ Nghệ…………………………………………............
1.1.4 Văn hóa dân gian xứ Nghệ và tiểu loại truyện trạng…………………………..


1.2 Truyện trạng nhìn từ góc độ lý luận cái hài……………………………………...
1.2.1 Lý thuyết cái hài……………………………………………………………….
1.2.2 Các quan điểm về phân loại truyện cười………………………………............
1.2.3 Truyện trạng xứ Nghệ trong kho tàng truyện cười nói chung - Những nhận
diện bước đầu……………………………………………………………………...…
1.2.4 Môi trường diễn xướng của truyện trạng xứ Nghệ…………………………….
*Tiểu kết chương 1……………………………………………………..…………...
Chƣơng 2: Truyện trạng xứ Nghệ nhìn từ góc độ nội dung……………………..
2.1 Truyện trạng phản ánh bức tranh phong tục của nông thôn xứ Nghệ……………
2.2 Truyện trạng phản ánh những xung đột đời thường trong các mối quan hệ xã
hội ở nông thôn………………………………………………………………………
2.3 Truyện trạng phản ánh những khuyết điểm, thói hư, tật xấu phổ biến của nhiều
đối tượng sống ở nông thôn………………………………………………………….
*Tiểu kết chương 2…………………………………………………………………. 38
Chƣơng 3: Truyện trạng xứ Nghệ nhìn từ góc độ nghệ thuật…………………...
3.1 Cốt truyện………………………………………………………………………..
3.2 Nhân vật………………………………………………………………….............
3.3 Người kể chuyện…………………………………………………………………

1


3.4 Thủ pháp gây cười……………………………………………………………….
3.5 Không gian và thời gian………………………………………………….............
3.5.1 Không gian……………………………………………………………………..
3.5.2 Thời gian……………………………………………………………….............
3.6 Ngôn ngữ………………………………………………………………………...
*Tiểu kết chương 3………………………………………………………………………...
Chƣơng 4: Truyện trạng xứ Nghệ từ góc nhìn so sánh…………………………..
4.1 Truyện trạng xứ Nghệ và hệ thống truyện về các ông Trạng……………............

4.2 Truyện trạng xứ Nghệ và truyện các làng cười………………………………….
4.3 Truyện trạng xứ Nghệ và truyện cười một số vùng khác………………………..
4.4 Truyện trạng xứ Nghệ và truyện cười nói chung………………………………...
4.5 Xác định tiểu loại truyện trạng xứ Nghệ…………………………………………
4.5.1 Truyện trạng là truyện cười vùng……………………………………………...
4.5.2 Truyện trạng là một bộ phận đặc sắc của sinh hoạt văn hóa dân gian xứ
Nghệ………………………………………………………………………………….
4.6 Sự biến đổi và sức sống của truyện trạng xứ Nghệ……………………………...
*Tiểu kết chương 4………………………………………………………………….
PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………………............
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………………...
Phụ lục……………………………………………………………………………….

2

67
69
73
80


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Xứ Nghệ là vùng văn hoá đặc sắc, đặc biệt có kho tàng văn học dân gian phong
phú, đa dạng và đồ sộ với nhiều thể loại khác nhau như các loại câu đố, ca dao dân ca,
truyện cổ, truyện thơ, hò, vè, hát dặm, hát ví…
Và một trong những nét sinh hoạt tinh thần của người Nghệ là nói, kể chuyện vui,

bông đùa mà tiếng địa phương gọi là truyện trạng. Ở xứ Nghệ nói, kể truyện trạng là hình
thức sinh hoạt văn nghệ đời thường, phổ biến, rất đặc trưng của người dân nơi đây.
Truyện trạng xứ Nghệ là một hiện tượng hết sức độc đáo, vừa kết hợp giữa cái chung và
cái riêng, vừa tuân theo đặc trưng của quy luật sáng tạo thẩm mỹ của văn học dân gian,
vừa mang sắc thái địa phương đậm nét. Hiện nay, có nhiều nhà nghiên cứu đã chú ý đến
truyện trạng xứ Nghệ và khẳng định tính độc đáo của nó song một công trình nghiên cứu
khoa học, có tính chuyên biệt về hiện tượng văn học dân gian này chưa được tiến hành.

2.

Lịch sử vấn đề

Hiện nay, có một số công trình tìm hiểu, nghiên cứu về truyện trạng xứ Bắc, đó là
loại truyện cười kết chuỗi xoay quanh một nhân vật mà người dân tôn xưng là các ông
Trạng (Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Trạng Cờ, Trạng Ăn, Trạng Vật, Trạng Quét, Trạng
Gióng, Trạng Bùng, Trạng Trịnh, Trạng Khiếu, Trạng Tự Thiên, Trạng Bờ Ao, Trạng
Gầu…). Tiêu biểu là một số công trình sưu tầm, biên soạn như: Tổng tập văn học dân
gian người Việt, Tập 9, Truyện Trạng (Nguyễn Chí Bền); Kho tàng các ông trạng Việt
Nam (Vũ Ngọc Khánh); Giai thoại truyện trạng (Nguyễn Giao Cư); Truyện Trạng Quỳnh
(Lưỡng Kim Thành); Kho tàng truyện trạng Việt Nam (Vương Trung Hiếu); Truyện trạng
(Nguyễn Đăng Na)…
Đối tượng mà chúng tôi quan tâm tìm hiểu trong luận văn này cũng là truyện trạng
nhưng là kiểu truyện trạng khác, một loại truyện bông đùa, mua vui có nguồn gốc từ sinh
hoạt nói trạng (phương ngữ Nghệ Tĩnh có nghĩa là nói phét, nói đùa). Truyện trạng xứ
Nghệ về đa số gồm những mẩu truyện rời rạc và đang trong quá trình hình thành nên
chưa đạt đến độ ổn định. Chúng đang ở trong quá trình vận động, mở rộng hệ thống kết
cấu truyện, chưa định hình và đóng khung trong một cốt truyện chắc chắn. Ở một góc độ
nhất định, có lẽ những công trình tìm hiểu, nghiên cứu về các làng cười như Truyện làng
cười xứ Bắc (Trần Quốc Thịnh), Chuyện Vĩnh Hoàng (Võ Xuân Trang), Nụ cười xứ Huế
(Tôn Thất Bình)… có nét gần gũi với đối tượng nghiên cứu của chúng tôi hơn cả.

Hiện nay, về việc tìm hiểu truyện trạng xứ Nghệ mới chỉ có một số công trình như
Chuyện trạng xứ Nghệ (Trần Hữu Thung), Gánh bưởi qua sông, Kho tàng truyện kể dân
gian xứ Nghệ, Tập 3 (Ninh Viết Giao). Tuy nhiên, những công trình mà Ninh Viết Giao,

3


Trần Hữu Thung tìm hiểu về truyện trạng xứ Nghệ mới chỉ dừng lại ở góc độ sưu tầm,
biên soạn và viết lời bạt chứ chưa đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống.
Một điều đáng lưu ý là sức sống truyện trạng nằm trong môi trường diễn xướng
sinh động của nó, chỉ có người dân xứ Nghệ được sống trong môi trường sinh hoạt truyện
trạng mới cảm nhận hết giá trị và ý nghĩa của nó. Những câu chuyện mà Trần Hữu Thung
và Ninh Viết Giao sưu tầm giới thiệu với bạn đọc là những truyện trạng có cốt truyện,
còn hầu hết các truyện trạng đang tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của người dân là
những truyện chưa thành truyện, chưa có cốt truyện. Vì vậy, theo chúng tôi, tìm hiểu
truyện trạng là phải đặt chúng vào môi trường diễn xướng. Cho tới nay chưa có một công
trình nghiên cứu hay một bài viết nào đề cập một cách kỹ lưỡng về điều này.

3.

Mục đích, ý nghĩa của đề tài

Bằng việc so sánh và tái hiện những nét sinh động của tiểu loại truyện trạng trong
môi trường diễn xướng của loại hình sinh hoạt văn hóa nói, kể truyện trạng của người dân
Nghệ Tĩnh, chúng tôi muốn làm rõ những nét độc đáo của truyện trạng xứ Nghệ trên cả
phương diện nội dung và hình thức (xét ở góc độ văn bản).
Với những gì dự định làm trong luận văn, chúng tôi mong muốn giúp các nhà
nghiên cứu đưa ra một cái nhìn toàn diện về loại hình sinh hoạt văn hóa nói, kể truyện
trạng của người dân xứ Nghệ trong hệ thống các loại hình sinh hoạt khác của nhân dân
trong cả nước.

Ngoài ra, mục đích của luận văn còn là xác định vị trí của hệ thống truyện trạng
với tư cách là truyện cười vui, mang tính vùng và từ đó bổ sung thêm tư liệu địa phương
cho kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam.
Đồng thời, luận văn là những gợi mở bước đầu để nghiên cứu chuyên sâu về loại
hình truyện cười địa phương ở nhiều vùng khác trong cả nước.

4.

Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là truyện trạng xứ Nghệ với tư cách là một
loại truyện cười vùng, một loại sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến, đời thường diễn ra
hàng ngày của người dân Nghệ Tĩnh. Theo đó, ngoài việc tìm hiểu truyện trạng xứ Nghệ
trong thế vận động, sinh động và được đặt trong môi trường diễn xướng, chúng tôi cũng
tiến hành phân tách đối tượng từ góc độ văn bản để thấy được một số nét riêng về nội
dung và nghệ thuật của loại truyện trạng trong thế so sánh với một số tiểu loại truyện
cười dân gian khác.
Phạm vi tư liệu của luận văn này là 352 truyện trạng được hai tác giả Ninh Viết
Giao (Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ (Tập 3), Gánh bưởi qua sông) và Trần Hữu
Thung (Chuyện trạng xứ Nghệ) tập hợp và giới thiệu. Ngoài ra, để làm rõ những nét đặc

4


sắc của truyện trạng xứ Nghệ và những đóng góp của truyện trạng xứ Nghệ trong kho
tàng truyện cười dân gian Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thống kê 1.417
truyện cười trong cuốn Tổng tập văn học dân gian người Việt, Tập 8, Truyện cười do
Nguyễn Chí Bền chủ biên.
Truyện trạng xứ Nghệ trong sinh hoạt văn hóa dân gian của người Nghệ Tĩnh
thường không có cốt truyện, trong khi những mẩu truyện mà Ninh Viết Giao và Trần Hữu

Thung tập hợp lại thường là những câu chuyện có cốt truyện. Vì vậy, tuy có dựa nhiều
vào các tài liệu của những người đi trước song trong việc đánh giá, nhận định quá trình
vận động của truyện trạng thì chúng tôi lại cố gắng đặt truyện trạng trong cả môi trường
diễn xướng. Vì truyện trạng luôn trong thế vận động, không ngừng tiếp thu những yếu tố
mới của đời sống nên để thuận tiện trong việc tìm hiểu, nghiên cứu của mình, chúng tôi
chủ yếu khảo sát, phân tích và đưa ra các nhận xét dựa trên những truyện trạng và cách
kể truyện trạng truyền thống. Tuy nhiên, trong công trình nghiên cứu của mình, chúng tôi
có dành một phần nhỏ để tìm hiểu về những biến đổi của truyện trạng trong đời sống hôm
nay nhằm đưa ra một cái nhìn toàn diện, tổng thể về diện mạo truyện trạng truyền thống
và hiện đại.

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Quá trình triển khai luận văn, chúng tôi đã sử dụng và kết hợp vận dụng nhiều
phương pháp. Trước hết là phương pháp điền dã để thu thập tư liệu, bổ sung thêm vào
phần tài liệu đã được cố định bằng văn bản. Sau đó, chúng tôi tiến hành tổng hợp, phân
loại các nguồn tài liệu; khảo sát phần tài liệu liên quan ở góc độ các văn bản (vận dụng
phương pháp thi pháp học) trên cơ sở đối chiếu với nội dung văn bản đó trong bối cảnh
thực hành để thấy được tính sinh động và đời sống toàn vẹn của các tác phẩm truyện
trạng xứ Nghệ. Cuối cùng, khi phân chia nhỏ đối tượng, chúng tôi tiến hành phân tích
từng văn bản tác phẩm cụ thể, các nhóm tác phẩm cùng chủ đề… để thấy được đóng góp
riêng của từng truyện trạng trong hệ thống các truyện kể dân gian xứ Nghệ nói riêng và
cả nước nói chung.

6.

Bố cục luận văn
Luận văn được chia làm 3 phần

Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Truyện trạng xứ Nghệ nhìn từ góc độ nội dung
Chương 3: Truyện trạng xứ Nghệ nhìn từ góc độ nghệ thuật
Chương 4: Truyện trạng xứ Nghệ từ góc nhìn so sánh
Phần kết luận

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1 Truyện trạng trong môi trƣờng văn hoá dân gian xứ Nghệ
Văn hóa dân gian mỗi vùng, miền tựa như cái nôi cho sự hình thành và phát triển
những hiện tượng văn hóa đặc sắc của vùng ấy. Môi trường văn hóa dân gian xứ Nghệ
với những nét đặc thù là cội nguồn hun đúc, có vai trò to lớn đối với sự phát sinh và khởi
sắc của tiểu loại truyện trạng xứ Nghệ. Mỗi một vùng đất, với vị trí địa lý nhất định, điều
kiện tự nhiên khác nhau sẽ sản sinh ra những vùng văn hóa riêng. Đó là quy luật tác động
của môi trường địa - văn hoá tới sự hình thành và chi phối đặc điểm của các giá trị văn
hoá, văn học dân gian. Xứ Nghệ - vùng đất mang “cá tính và phong cách riêng” chính là
cái nôi “màu mỡ” để sản sinh ra kho tàng văn hóa, văn học dân gian đồ sộ và phong phú
của người dân Nghệ Tĩnh. Theo cách phân chia của GS. Đinh Gia Khánh trong cuốn Các
vùng văn hoá Việt Nam thì xứ Nghệ là 1 trong 9 vùng văn hoá làm nên nền văn hoá Việt
bên cạnh các vùng văn hoá: Đồng bằng miền Bắc, Việt Bắc, Tây Bắc, Thuận Hoá, Nam
Trung Bộ, Tây Nguyên, miền Nam, Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội [38, tr.126]. Còn
theo cách phân chia của GS. Ngô Đức Thịnh trong cuốn Văn hoá vùng và phân vùng văn
hoá thì xứ Nghệ là một tiểu vùng văn hoá, bên cạnh văn hoá xứ Thanh, xứ Huế thuộc
vùng văn hoá duyên hải Bắc Trung Bộ - 1 trong 7 vùng văn hoá của cả nước [83, tr.181].
1.1.1 Về tên gọi xứ Nghệ

Xứ Nghệ là cách gọi dân dã của nhân dân về miền đất Nghệ Tĩnh xưa và hai tỉnh
Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Về mặt địa, văn hóa, xứ Nghệ nằm giữa xứ Thanh và xứ
Huế. Đây là vùng đất có từ lâu đời, thậm chí có nhà nghiên cứu cho rằng, xứ Nghệ là cái
nôi cội nguồn của dân tộc Việt: “Người Kinh, người Việt ở Nghệ Tĩnh bảo lưu được
nhiều yếu tố văn hóa của người Việt - Mường cổ và từ 4000 năm trước đây đã cùng đồng
bằng miền Bắc phát triển từ trình độ văn hóa Phùng Nguyên lên trình độ văn hóa Đông
Sơn” [38, tr.127].
Về lịch sử tên gọi của vùng đất, theo các tài liệu mà các nhà nghiên cứu đã tìm
hiểu về vùng đất này sau nhiều lần tách nhập khác nhau, có thể trình bày giản lược như
sau:
Thời Bắc thuộc, giai đoạn đế quốc Hán thống trị, xứ Nghệ có tên là Hàm Hoan, đến
thế kỷ thứ 3 thì có tên là Cửu Đức, đến thế kỷ thứ 7 thì có tên là Hoan Châu. Khi nhà Lý lên
ngôi (thế kỷ thứ 11), xứ Nghệ có tên là châu Nghệ An, đến thời Hậu Lê (năm 1490) được đổi
tên thành xứ Nghệ An và có tên là Nghĩa An trấn dưới triều đại Tây Sơn. Đến thời nhà
Nguyễn - Gia Long lại đổi là Nghệ An trấn và đến năm 1931, thời vua Minh Mạng thì Nghệ
An trấn lại được tách thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Giai đoạn 1976 -

6


1991, chính quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sát nhập hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh thành một tỉnh Nghệ Tĩnh. Và cho đến năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại được tách ra
làm hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày hôm nay.
Khi chưa tách tỉnh, Nghệ Tĩnh là tỉnh có diện tích và dân số lớn nhất cả nước.
Theo Đinh Gia Khánh thì “về mặt văn hóa, gộp hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh lại làm một
thì hợp lý hơn bởi xứ Nghệ - Nghệ Tĩnh tuy hai mà là một” [38, tr.127].
1.1.2 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Xứ Nghệ nằm giữa vùng xứ Thanh (Thanh Hóa) và xứ Huế, nằm trên đường thiên
lý Bắc - Nam, đường bộ xuyên Việt, thuộc vùng đất ở Bắc Trung Bộ nước ta; đồng thời là
dải đất hẹp miền Trung, phía Tây giáp Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Nam, phía Đông

giáp Biển Đông, phía Bắc giáp Thanh Hóa, địa hình trải dài từ Bắc đến Nam khoảng 300
km.
Theo chiều ngang, chỗ hẹp nhất trên đất liền của xứ Nghệ là 80 km (địa bàn Hà
Tĩnh) và chỗ rộng nhất là 200 km (địa bàn Nghệ An). Do đặc điểm địa hình, dải đất
duyên hải xứ Nghệ đã hẹp về chiều ngang lại có rất nhiều đồi núi chia cắt đồng bằng nên
việc canh tác của người dân gặp nhiều khó khăn, đất ít lại cằn cỗi. Địa hình phức tạp nên
khí hậu xứ Nghệ vô cùng khắc nghiệt. Mùa hè thì gió mùa tây nam khô nóng từ Lào tràn
sang, thổi cồn cột suốt ngày đêm. Thiên nhiên chẳng ưu đãi cho xứ Nghệ, năm nào cũng
vậy có rất nhiều đợt giông bão từ Biển Đông tràn vào, lũ lụt ở xứ Nghệ xảy ra thường
xuyên như cơm bữa.
Cuộc sống của người Nghệ vốn đã khó khăn bởi thiếu những cánh đồng thẳng
cánh cò bay, những dòng sông “đỏ nặng phù sa” lại càng trở nên khó khăn hơn. Mặt
khác, do có nhiều sông núi, xứ Nghệ lại là mảnh đất “phên dậu” để bảo vệ đất nước, là
“căn cứ địa” của nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân và được mệnh danh là “đất tứ tắc” (bốn
bề hiểm trở) trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Và có lẽ, với điều kiện tự nhiên lắm thiên tai, khí hậu quanh năm khắc nghiệt, sản
xuất vô cùng khó khăn đấy lại là nền tảng để hình thành nên một kho tàng văn hoá phong
phú, mặn mòi, giàu bản sắc, khác hẳn với văn hoá miền Bắc và miền Nam nói chung;
khác với xứ Thanh và xứ Huế nói riêng, trong đó có sinh hoạt truyện trạng. Phải chăng
truyền thống nói trạng của người dân Nghệ Tĩnh là cách họ “tự vệ” trước thiên nhiên,
cuộc sống khốn khó và là động lực để vượt qua bao nhiêu vất vả, đắng cay mà họ phải
nếm trải.
1.1.3 Tính cách con người xứ Nghệ
Tính cách con người là sự tích tụ từ những yếu tố của môi trường tự nhiên, tiến
trình lịch sử văn hoá. Luôn phải đấu tranh với thiên nhiên, với nhiều lực lượng xâm lược

7


trong cuộc sống mưu sinh cũng như bảo vệ đất nước nên tính cách người Nghệ có những

nét độc đáo. Quanh năm một nắng hai sương vật lộn trên mảnh đất cằn khô đã hun đúc ở
người dân xứ Nghệ đức tính chất phác, bình dị và thẳng thắn, đồng thời cũng thể hiện
một bản lĩnh, tinh thần nghị lực sống lớn lao “quen chịu đựng gian khổ, làm việc cần cù
và sinh hoạt rất tiết kiệm, trong cái gan góc có cái bướng bỉnh, trong cái trung thực có cái
thô bạo, trong cái mưu trí có cái liều lĩnh” [38, tr.142]. Chính vì thế, trong nhiều truyện
trạng như “Giữ quạt được lâu”, “Giữ dép được lâu”, “Thế vẫn còn hoang”, “Tết thầy”…
người Nghệ đã nhìn thẳng vào chính những điểm yếu của mình để mổ xẻ, cười cợt.
Ngoài ra, người xứ Nghệ còn nổi tiếng khắp cả nước về truyền thống hiếu học,
giỏi giang, thích văn chương, thơ phú với nhiều nhà thơ, nhà văn lớn. Mảnh đất Nghệ
Tĩnh vẫn được coi là nơi mà “nhà Nho ho ra chữ”, có những gia đình “sáng khoai, trưa
khoai, tối khoai, khoai ba bữa” song “cha đỗ, con đỗ, cháu đỗ, đỗ cả nhà”, có nhiều “ông
nghè, ông cống, sống bởi ngọn khoai, anh học, anh Nho nhai hoài lộc đỗ”.
Bên cạnh đó, theo nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh thì một trong những nét độc
đáo của người Nghệ gắn với đặc thù địa phương mà không thể lẫn với những con người ở
những vùng đất khác là giọng nói “người Nghệ còn bảo lưu khá nhiều yếu tố ngôn ngữ
Việt cổ hoặc tiền Việt Mường” [83, tr.189]. Chính phương ngữ độc đáo này đã góp phần
làm nên bản sắc riêng cho văn học dân gian xứ Nghệ.
Nhắc đến xứ Nghệ, nhiều người không thể không thừa nhận đây là cái nôi cách
mạng nhiều đời, quê hương của nhiều danh nhân, chí sĩ. Với tinh thần cách mạng, thái độ
phản kháng mạnh mẽ của người dân, cộng với vị trí địa lý bốn bề hiểm trở, trong suốt
chiều dài lịch sử xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xứ Nghệ là “phên dậu” để chống thù trong
giặc ngoài, là mảnh đất chịu nhiều thương tích của chiến tranh với bao nhiêu mưa bom
bão đạn của kẻ thù trút xuống. Và dường như để ứng phó với mọi vất vả, khó khăn và nỗi
cơ cực của cuộc sống, người dân xứ Nghệ thích nói trạng và có truyền thống nói trạng.
Từ truyền thống nói trạng mà sinh ra sinh hoạt nói, kể truyện trạng và kiểu sinh hoạt này
là một loại hình sinh hoạt văn hoá đời thường, phổ biến ở Nghệ Tĩnh.
1.1.4 Văn học dân gian xứ Nghệ và tiểu loại truyện trạng
Kho tàng văn học dân gian xứ Nghệ độc đáo và đa dạng với tất cả các hình thức và
thể loại: tục ngữ, ca dao, vè, truyện cười, thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, giai thoại,
huyền thoại, tiên thoại, phật thoại… của các dân tộc anh em. Hàng ngàn bài vè được sưu

tầm trong 9 tập sách dày dặn rồi đến bộ sách 4 tập Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ
mà nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao dày công sưu tầm và biên soạn là một gia sản văn học
dân gian khổng lồ đủ để cho mỗi người con xứ Nghệ tự hào về mảnh đất mà mình sinh
ra.

8


Sinh sống trên mảnh đất Nghệ Tĩnh, bên cạnh người Việt, dân tộc đông người nhất
sống chủ yếu ở đồng bằng còn có các dân tộc khác như Thái, Thổ, Khơ Mú, HMông, Ơ
Đu, Chứt sống ở các huyện trung du và miền núi. Trong phạm vi của luận văn này, chúng
tôi chỉ tập trung nghiên cứu truyện trạng và hình thức sinh hoạt kể truyện trạng của người
Kinh.
Như chúng tôi đã nói, với tính cách rắn rỏi, kiên cường, không chịu “bó gói buông
tay” trước tai ương địch hoạ, trong gian khó, người Nghệ đã biết đoàn kết nhau lại, yêu
thương đùm bọc lẫn nhau để cùng phát triển. Người dân xứ Nghệ đã tìm đến những lối
sinh hoạt tập thể vui vẻ, xây dựng cho mình một đời sống tinh thần riêng như là một sự
bù đắp cho đời sống vật chất nghèo nàn và kham khổ. Một trong những hình thức bù đắp
đấy là sinh hoạt truyện trạng. Những truyện được kể trong sinh hoạt nói trạng mà chúng
tôi nghiên cứu gồm hầu hết là những truyện vui cười, hài hước.
Truyện trạng xuất phát từ nói trạng mà ở Thanh Chương, Can Lộc gọi là nói lồi,
một số nơi khác như Yên Thành, Thạch Hà, Diễn Châu gọi là nói lủng lưởng. Nói trạng
theo phương ngữ của người dân xứ Nghệ là nói phóng đại, nói bắt bẻ, lý lẽ. Nói trạng
thường lấy những sự việc xảy ra trong đời sống, cũng thường dùng cái tục và chữ nghĩa
(tính đa nghĩa của từ) của địa phương làm phương tiện gây cười. Nói trạng còn là một
phong cách của những tay kể chuyện thời sự dân gian hoặc thành văn, hoặc không thành
văn vì người nói trạng thường bịa đặt thêm, nói trệch đi, pha trộn, nhào nặn… lái câu
chuyện theo quỹ đạo của mình để người nghe thấy được ý nghĩa gần gũi của nó. Nói
trạng và truyện trạng đều thể hiện tính vui vẻ, thông minh, nhanh trí, dí dỏm, nghịch
ngược… của con người xứ Nghệ. Chỉ một số ít truyện trạng được ghi chép thành văn và

đa số là chưa được phổ biến rộng rãi. “Nó gần với đặc điểm từng vùng, thậm chí có
truyện chỉ kể trong một xóm, một xã” [20, tr.28]. Điểm độc đáo của truyện trạng là gắn
liền với những sự việc, con người cụ thể diễn ra trong đời sống hằng ngày ở từng địa
phương.
Như đã trình bày ở trên, khái niệm truyện trạng xứ Nghệ khác hẳn với khái niệm
truyện Trạng xứ Bắc. Truyện Trạng xứ Bắc là loại truyện cười kết chuỗi, xoay quanh một
nhân vật mà dân gian tôn xưng là các ông Trạng (Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Trạng Cờ,
Trạng Vật, Trạng Ăn, Trạng Gióng, Trạng Gầu, Trạng Quét, Trạng Bờ Ao, Trạng Bùng,
Trạng Trịnh, Trạng Khiếu...), từ Trạng ở đây viết hoa, chỉ một học vị dân gian theo hệ
thống khoa cử, trong khi đó đối tượng mà chúng tôi nghiên cứu lại là truyện trạng bắt
nguồn từ việc nói trạng (nói bông đùa, nói vui, nói phét…) thì từ “trạng” lại viết thường,
chỉ một cách nói. Đây là hai từ đồng âm khác nghĩa, về cơ bản là hoàn toàn khác nhau.
Nhìn một cách tổng thể, truyện trạng mà chúng tôi tìm hiểu là những câu chuyện được kể

9


trong sinh hoạt nói, kể truyện trạng của người dân xứ Nghệ là những truyện cười mang
màu sắc địa phương cả về nội dung và nghệ thuật. Cả hai nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao
và Trần Hữu Thung đều thống nhất quan điểm về truyện trạng xứ Nghệ là: truyện thường
lấy những sự việc xảy ra trong đời sống làm đề tài rồi do chủ quan người kể (sáng tác) hư
cấu thêm, thêu dệt, bịa đặt và phóng đại thêm. Có khi, truyện trạng lấy các truyện cười để
làm cốt rồi địa phương hoá (hiện đại hoá nữa) bằng những tình tiết và nhân vật gần gũi để
hướng cái cười vào những đối tượng cụ thể. Chính vì thế mà Trần Hữu Thung trong cuốn
Chuyện trạng xứ Nghệ gần như đồng nhất những truyện cười dân gian ở Nghệ Tĩnh là
truyện trạng, còn Ninh Viết Giao lại cho rằng “truyện trạng sẵn sàng gia nhập vào kho
tàng truyện cười của xứ Nghệ và phần lớn truyện cười xứ Nghệ là truyện trạng” [20,
tr.32].
Do sự phong phú của truyện trạng, cách kể truyện trạng nên chúng tôi rất khó đưa
ra được tiêu chí nhất quán trong việc phân chia, sắp xếp nó vào các tiểu loại của truyện

cười. Có nhiều truyện trạng, nếu chỉ xét trên phương diện văn bản thì có thể thấy chức
năng cơ bản là trào phúng, đả kích song nếu đặt trong môi trường diễn xướng thì chức
năng hài hước lại được đưa lên hàng đầu. Điều đó cho thấy, trong sinh hoạt nói truyện
trạng thì tính vui vẻ, hài hước, bông đùa là cơ bản, quan trọng nhất so với những chức
năng khác và các chức năng khác của truyện trạng trở thành chức năng phụ. Điều này
không có nghĩa, truyện trạng chỉ có chức năng mua vui, bông phèng mà bên cạnh đó còn
có một số chức năng khác như giáo dục bè bạn, đả kích kẻ thù song những chức năng này
đặt trong bối cảnh sinh hoạt truyện trạng thì ý nghĩa và sắc thái của nó giảm đi rất nhiều.

1.2 Truyện trạng nhìn từ góc độ lý luận cái hài
1.2.1 Lý thuyết cái hài
Cái hài là một trong bốn phạm trù mĩ học của mỹ học Hêghen (cái đẹp, cái hài, cái
bi và cái cao cả), dùng để xác định và đánh giá các hiện tượng xã hội, hành vi con người,
phong tục tập quán không phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ tiến bộ, không ăn khớp với sự
phát triển khách quan xã hội, mâu thuẫn với lí tưởng thẩm mĩ và do đó chúng bị lên án
dưới hình thức cười nhạo. Theo Lại Nguyên Ân thì “Trong lịch sử tư tưởng mỹ học, cái
hài được nhận định như là kết quả của sự tương phản, sự “bất đồng”, sự mâu thuẫn: giữa
xấu và đẹp (theo Arixtôt), giữa cái quan trọng giả và cái quan trọng thật (theo Hêghen),
giữa cái nhỏ nhặt và cái cao cả (theo Kant, 1724 - 1804), giữa cái nhỏ nhặt trống rỗng bên
trong và bề ngoài mang tham vọng có nội dung, có ý nghĩa thực (theo Secnưsepki), giữa
cái vô lý và cái hữu lý (theo Jean Paul, 1763 - 1825, nhà văn lãng mạn Đức), giữa tính
tiền định vô biên và tính võ đoán vô biên (theo Sêlinh - F.Schelling, 1775 - 1854), giữa
hình hài và ý tưởng (theo Fisơ - F. Vischer, 1807 - 1887), giữa cơ giới và sống động (theo

10


Becxông - H. Bergson, 1859 - 1941), giữa cái có giá trị và cái mang tham vọng có giá trị
(theo Fônken - J. Volkelt, 1843 - 1930)…” [30, tr.198]. Theo đó, cái hài là sự mâu thuẫn
giữa các hiện tượng không hoàn thiện và kinh nghiệm tích cực của nhân loại, được ghi

khắc ở các lý tưởng thẩm mỹ, là sự không tương dung mang ý nghĩa xã hội giữa mục
đích và phương tiện, giữa hình thức và nội dung, giữa hành động và hoàn cảnh, giữa bản
chất và các biểu hiện của nó, giữa tham vọng của cá nhân và các khả năng của nó…
Theo Nguyễn Thanh Sơn, mỹ học Mác - Lênin xác định cơ sở khách quan của cái
hài là sự không thống nhất giữa phẩm chất bên trong của hiện tượng hài và sự thể hiện bề
ngoài của nó, là sự không phù hợp giữa một sự vật, hiện tượng nào đó với môi trường,
với xu thế vận động của ngoại cảnh. Theo đó, có ba dạng hài cơ bản. Thứ nhất, dạng hài
lịch sử - xã hội có cơ sở là mâu thuẫn giữa xu hướng phát triển của tiến bộ xã hội, của các
lực lượng cách mạng với các lực lượng xã hội lạc hậu đã hết vai trò lịch sử và đang cản
trở bước tiến của xã hội nhưng cố chứng tỏ vai trò “cần thiết”, “quan trọng” của mình.
Thứ hai, dạng hài tệ nạn xã hội thường gắn với những cá nhân và hành động tiêu cực
nhưng mạo xưng là tiên tiến, tích cực, tạo vẻ tích cực giả dối để huấn thị - dạy đời. Thứ
ba, dạng hài đời thường xuất hiện phong phú, đa dạng hơn cả; bất kỳ con người nào cũng
có thể mắc phải với các mức độ và tần suất khác nhau vì nó liên quan đến lối sống, quan
hệ, giao tiếp, sinh hoạt thường ngày. Những lối nói, ngôn từ, âm sắc, hành vi, cử chỉ
không hợp chuẩn quen thuộc của cộng đồng đều có thể trở thành khách thể hài [75, tr.2].
Còn theo V.Guxep thì “Cái hài là một hình thức đặc biệt tích cực và sắc bén. Trong những
công trình nghiên cứu folklore, thường cái hài và những loại hình biểu hiện cơ bản của nó
- hài hước (humour) và trào phúng (satire) - bị đồng nhất hóa với thái độ phê phán đối với
thực tế nói chung” và “Nói chung có thể nói rằng, một trong những đặc trưng cơ bản của
cái hài là ở mâu thuẫn giữa bản chất của những hiện tượng và tham vọng làm ra cái trái
ngược với nó” [22, tr.558-559]. Vì vậy, V.Guxep cho rằng: “Thường thường người ta hay
lẫn cái xấu, cái thấp kém với cái hài. Đương nhiên có một liên hệ xác định giữa những
phạm trù này. Nhưng không phải mọi cái xấu và mọi cái thấp kém đều có tính chất hài và
cái hài không phải lúc nào cũng xấu hoặc thấp kém” [22, tr.559].
Sinh hoạt truyện trạng ở xứ Nghệ là dạng sinh hoạt cộng đồng để mua vui, thư
giãn, trong nhiều tình huống và trường hợp cụ thể, nói như V.Guxep là không phải lúc
nào cái hài ở đây cũng xấu hoặc thấp kém. Theo như cách phân chia cái hài thành ba
dạng thức cơ bản trên, trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu sinh hoạt truyện trạng, chúng
tôi nhận thấy tiếng cười ở đây chủ yếu rơi vào hai dạng hài cơ bản là dạng hài tệ nạn xã

hội và dạng hài đời thường, trong đó dạng hài đời thường là phổ biến hơn cả. Tiếng cười
được nổ ra một cách rôm rả trong sinh hoạt truyện trạng có thể xuất phát từ trạng những

11


hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ, dáng điệu… là tất cả những thủ thuật gây cười của người kể
chuyện (các tay trạng dân gian sử dụng) trong môi trường diễn xướng (dạng hài đời
thường), hay bắt nguồn từ những tình tiết, yếu tố cười chứa đựng trong các truyện trạng
được kể (có cả dạng hài đời thường lẫn dạng hài tệ nạn xã hội). Và theo GS. Đinh Gia
Khánh, truyện cười dân gian Việt Nam có hai cung bậc của tiếng cười là tiếng cười hài
hước đơn giản và tiếng cười hài hước có ý nghĩa xã hội: “tiếng cười hài hước bật ra là do
một sức mạnh nội tại của tâm trí chúng ta, tức là sự phản kháng và sự thắng lợi của tư
duy logic đối với những hiện tượng muốn lọt ra khỏi phạm vi giải quyết của nó. Tiếng
cười hài hước thể hiện sự thắng lợi của trí tuệ” [43, tr.336]. Tuy nhiên, có một điều lưu ý
là cái hài bao giờ cũng gây ra tiếng cười nhưng lại có một số điểm khác biệt giữa tiếng
cười và cái hài. Tiếng cười do kích thích về mặt sinh lí học mà có khác hẳn với cái hài là
một hiện tượng thẩm mỹ vì một đằng biểu hiện sự phấn khích do được đáp ứng những
nhu cầu của vô thức ngoài thẩm mỹ, một đằng là mang ý nghĩa nhận thức, khám phá. Vì
thế, để có tiếng cười hài, chủ thể cần có sự nhạy cảm thẩm mỹ, sự sáng tạo ra điều kiện
hài hước lành mạnh đòi hỏi trí tuệ sắc sảo. Điều đó giúp lý giải vì sao trong có nhiều
trường hợp, trong buổi sinh hoạt truyện trạng ở xứ Nghệ, khi người kể chuyện biểu diễn
các động tác hài hước hay những câu chuyện được kể ra có yếu tố hài nhưng người nghe,
người tiếp nhận vẫn không cười vì họ chưa nhận thức, phát hiện và nhận diện được tính
hài của đối tượng.
Và điều cần lưu ý là trong sinh hoạt truyện trạng ở xứ Nghệ, dù người kể chuyện
có làm mọi “thủ thuật” để gây cười, thuần tuý chỉ để mua vui thì tiếng cười cũng không
bao giờ là tiếng cười sinh học mà nó thuộc dạng hài đời thường hay là tiếng cười hài
hước đơn giản như cách phân chia của GS. Đinh Gia Khánh.
1.2.2 Các quan điểm về phân loại truyện cười

Theo Chu Xuân Diên, “ngày nay, truyện cười là một thuật ngữ được giới nghiên
cứu dùng để chỉ một thể loại tự sự, tiêu biểu cho dòng văn học hài hước dân gian” [30,
tr.1842]. Vì vậy, có thể coi truyện cười dân gian là một thể loại truyện dân gian chứa
đựng cái hài, dùng tiếng cười làm phương tiện chủ yếu để thực hiện chức năng phê phán,
châm biếm, đả kích cái xấu xa và mua vui giải trí.
Và nhiều nhà khoa học cho rằng, người đầu tiên sử dụng thuật ngữ truyện cười là
Đặng Thai Mai qua bài báo Ý nghĩa nhân sinh trong truyện cười in trên Tạp chí Tri Tân
(các số 81, 82, 83) năm 1943. Ngoài thuật ngữ truyện cười, kể từ năm 1882, năm xuất
bản của tập Chuyện khôi hài của Trương Vĩnh Ký thì tới nay, cũng có khá nhiều tên gọi
khác như: truyện khôi hài, truyện tiếu lâm, tiếng cười, truyện tiếu đàm, nụ cười, cổ tích
nực cười, chuyện vui, truyện trào phúng, chuyện giải buồn…

12


Về vấn đề phân loại truyện cười, hiện nay trong giới khoa học vẫn tồn tại nhiều
cách phân chia khác nhau, chưa có độ thống nhất cao và như Kiều Thu Hoạch đánh giá
thì “việc phân loại truyện cười ở nước ta còn rất lúng túng và vẫn là vấn đề đang cần phải
bàn luận” [32, tr.27].
Nhóm các nhà nghiên cứu chia truyện cười thành hai tiểu loại là truyện khôi hài và
truyện trào phúng (gồm trào phúng bạn và trào phúng thù) gồm: Đinh Gia Khánh trong
cuốn Văn học dân gian Việt Nam và tác giả có đề cập thêm truyện tiếu lâm nhưng lại cho
rằng truyện tiếu lâm là những truyện khôi hài và truyện trào phúng mang yếu tố tục [43,
tr.362-391]; Lê Chí Quế, Nguyễn Hùng Vỹ, Võ Quang Nhơn trong cuốn Văn học dân
gian Việt Nam [73, tr.142-163]. Còn Giáo trình của Trường Đại học Sư phạm thì truyện
cười được chia làm 3 loại: truyện khôi hài, truyện trào phúng và truyện tiếu lâm [96,
tr.153-206].
Theo Nguyễn Chí Bền trong Tổng tập văn học dân gian người Việt, Tập 8 (Truyện
cười) thì “căn cứ vào mục đích của chủ thể sáng tạo, có thể chia truyện cười dân gian làm
hai loại: truyện khôi hài và truyện trào phúng. Nhìn từ góc độ số lượng của chủ thể sáng

tạo có thể chia thành hai tiểu loại: truyện cười kết chuỗi và truyện cười không kết chuỗi.
Tiểu loại thứ hai này có hai bộ phận: các truyện cười lẻ và truyện cười ở các làng cười”
[4, tr.50].
Ninh Viết Giao trong cuốn Gánh bưởi qua sông và Kho tàng truyện kể dân gian
xứ Nghệ, Tập 3 (Truyện cười) thì lại cho rằng, truyện cười xứ Nghệ bao gồm truyện khôi
hài, truyện tiếu lâm và truyện trạng (một loại truyện cười vùng đặc sắc, tồn tại trong loại
hình sinh hoạt nói, kể truyện trạng rất phổ biến ở xứ Nghệ, là đối tượng nghiên cứu của
luận văn này).
Tuy nhiên, cho đến nay dường như trong giới khoa học đã chấp nhận một quan
điểm phân chia truyện cười làm ba loại là truyện khôi hài (bao gồm những truyện bông
đùa, mua vui, không đả kích một đối tượng cụ thể nào cả), truyện châm biếm (dùng để
châm biếm các thói hư tật xấu khá phổ biến ở tầng lớp nhân dân), truyện đả kích (dùng để
đả kích các đối tượng là kẻ thù của nhân dân). Và trong quá trình nghiên cứu của mình,
chúng tôi cũng dựa trên cách phân chia này để phân loại tài liệu. Theo đó, trong số 75
truyện trạng được tập hợp trong cuốn sách Chuyện trạng xứ Nghệ của Trần Hữu Thung
có 37 truyện khôi hài (chiếm tỷ lệ 49,3%), 22 truyện châm biếm (chiếm tỷ lệ 29,3%) và
16 truyện đả kích (chiếm tỷ lệ 21,3%); cuốn Gánh bưởi qua sông (Ninh Viết Giao) có
145 truyện cười gồm 72 truyện khôi hài (chiếm tỷ lệ 49,7%), 41 truyện châm biếm
(chiếm tỷ lệ 28,3%), 32 truyện đả kích (chiếm tỷ lệ 22%). Còn trong 344 truyện cười
(314 truyện cười lẻ, 5 truyện Cố Bờ Ao, 3 truyện Chắt Vạn, 5 truyện Mân Nhuỵ và 17

13


truyện Phan Điện) của Kho tàng truyện kể dân gian xứ Nghệ, Tập 3 (Ninh Viết Giao), có
172 truyện khôi hài (chiếm tỷ lệ 50%), 107 truyện châm biếm (chiếm tỷ lệ 31,1%) và 65
truyện đả kích (chiếm tỷ lệ 18,9%).
1.2.3 Truyện trạng xứ Nghệ trong kho tàng truyện cười nói chung - Những nhận
diện bước đầu
Trước hết, truyện cười là một loại hình tự sự dân gian lấy tiếng cười làm phương

tiện nhằm mua vui, đả kích và châm biếm, trong khi truyện trạng xứ Nghệ cũng sử dụng
biện pháp gây cười một cách hồn nhiên nhằm mua vui, hài hước và giải trí. Về mặt tên
gọi loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian phổ biến này, người dân xứ Nghệ gọi là truyện
trạng. Cũng có người gọi là chuyện trạng, nhằm chỉ những câu chuyện tồn tại trong các
buổi nói trạng như Trần Hữu Thung trong Chuyện trạng xứ Nghệ. Có thể, về mặt câu chữ,
hai cách gọi tên này sẽ có sự “vênh nhau” giữa nội hàm từ “truyện” và từ “chuyện”
nhưng ở đây đều dùng để chỉ loại hình sinh hoạt đặc sắc có nguồn gốc từ nói trạng của
người Nghệ. Như vậy, xét ở góc độ văn bản, truyện trạng là một bộ phận của truyện cười
dân gian xứ Nghệ, và lẽ đương nhiên, truyện cười dân gian xứ Nghệ là một bộ phận của
truyện cười dân gian Việt Nam. Theo đó, truyện trạng xứ Nghệ cũng là một bộ phận của
truyện cười dân gian Việt Nam nên mối quan hệ giữa truyện trạng xứ Nghệ và truyện
cười dân gian Việt Nam sẽ là mối quan hệ hai chiều, mà cầu nối trung gian là truyện cười
dân gian xứ Nghệ. Truyện trạng xứ Nghệ sẵn sàng tiếp thu, sử dụng kho tàng truyện cười
để làm chất liệu, trên cơ sở đó nhào nặn, tái tạo để bổ sung thêm vào kho tàng truyện
trạng của địa phương bằng các tình tiết, chi tiết bản địa, nói cách khác là địa phương hoá
các truyện cười trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam để trở thành những truyện
trạng mới bằng cách ghép nối, thêm các chi tiết, tình tiết của địa phương bởi theo Trần
Hữu Thung “Chuyện trạng xứ Nghệ gắn liền với đặc điểm từng vùng, thậm chí có truyện
chỉ kể trong một xóm, một xã mà nếu đưa đi kể ở nơi khác thì ý nghĩa lại nhạt đi vì con
người, sự việc, ngôn ngữ gắn liền với xóm đó, xã đó” [86, tr.7]. Ngược lại, nhiều truyện
trạng cũng có thể gia nhập vào kho tàng truyện cười dân gian bằng cách lược bớt các tình
tiết địa phương, khái quát hoá các chi tiết, điển hình hoá các sự việc và hoàn chỉnh hơn
về mặt cấu trúc. Theo khảo sát riêng của chúng tôi, trong Tổng tập văn học dân gian
người Việt, Tập 8 (Truyện cười) do PGS. Nguyễn Chí Bền chủ biên có tất cả 1.417 truyện
cười (bao gồm 1.019 truyện cười lẻ và 398 truyện cười tập hợp từ 15 làng cười khác
nhau) thì có đến 203 truyện cười (trong tổng số 352 truyện cười xứ Nghệ) trong các tuyển
tập truyện cười của Ninh Viết Giao và Trần Hữu Thung. Có đến 57,7% (tỷ lệ 203/352)
truyện cười xứ Nghệ mà theo PGS. Ninh Viết Giao phần lớn truyện cười xứ Nghệ là
truyện trạng, đóng góp khoảng 14,33% (203/1.417) cho kho tàng truyện cười Việt Nam.


14


Đó là chưa kể đến, rất nhiều truyện cười dân gian Việt Nam mà nhà nghiên cứu Nguyễn
Đổng Chi tập hợp và giới thiệu cùng bạn đọc được sưu tầm ở xứ Nghệ.
Mặt khác, nếu đặt truyện trạng xứ Nghệ trong môi trường diễn xướng của nó thì
mối quan hệ giữa truyện trạng xứ Nghệ và Truyệntruyện cười lạidâncógianthểxứnhìnNghệnhận ở một
khía trạng xứ Nghệ

cạnh khác. Có một chút khác biệt về phạm vi nội dung của truyện trạng và sinh hoạt kể
truyện trạng. Trong sinh hoạt truyện trạng, người ta còn kể cả truyện cổ thế sự, truyện
ngụ ngôn, truyện cổ tích, giai thoại, thơ ca, tục ngữ, các loại truyện Trạng Lợn, Trạng
Quỳnh… dưới hình thức biến tấu và gần gũi với truyện trạng. Nói một cách ngắn gọn,
trong môi trường diễn xướng của nó, truyện trạng là một “nồi lẩu thập cẩm” những
truyện trên trời, dưới đất mà nhiều khi nội dung các truyện được kể ra không chứa đựng
yếu tố cái hài mà nụ cười rôm rả, sảng khoái của buổi sinh hoạt truyện trạng lại bắt đầu từ
những yếu tố ngoài nội dung văn bản được kể nhờ nghệ thuật diễn xướng của các tay
trạng dân gian (người kể chuyện). Rõ ràng, sinh hoạt nói, kể truyện trạng cũng là một
hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian ở xứ Nghệ bên cạnh các loại hình sinh
hoạt văn hoá, văn nghệ khác như: chèo, tuồng, kịch nói, hát ví dặm, hát đò đưa… Như
vậy, sinh hoạt kể truyện trạng là một bộ phận của sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian cả
nước mà trong đó, sinh hoạt kể truyện cười nói chung cũng chỉ là một bộ phận. Ở đây,
đường biên của loại hình sinh hoạt truyện cười nói chung đã không đủ rộng để chứa trọn
loại hình sinh hoạt truyện trạng ở xứ Nghệ mà giữa hai loại hình này tồn tại mối quan hệ
giao thoa chứ không phải lúc nào cũng trùng khít và bao chứa lẫn nhau.
1.2.4 Môi trường diễn xướng của truyện trạng xứ Nghệ
Trong cuốn Chuyện trạng xứ Nghệ, Trần Hữu Thung kể một cách cụ thể, ngắn gọn
và cũng khá đầy đủ về môi trường diễn xướng, đời sống thực hành cũng như đời sống
toàn vẹn của truyện trạng xứ Nghệ: “Những đêm ngồi hóng mát trước cổng xóm, những
khi lợp nhà hay ngồi quanh bếp củi nồi bánh chưng của đám cưới nhà ai đó, chuyện trạng

thường nổ ra rôm rả, chuyện trạng thường đến một cách tự nhiên, hầu như không ai có ý
định” [86, tr.7].

Nghệ Tĩnh, sinh hoạt truyện trạng đã thành một tập quán, hình thức sinh hoạt
tinh thần, mang sắc thái bản địa, tuy ở các địa phương khác cũng có song không đậm đà,
đặc thù như ở xứ Nghệ. Đây là loại hình văn nghệ dân gian đơn giản, gọn nhẹ, linh hoạt,
rất đỗi tự nhiên, hết sức phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày và thu hút được đông đảo
quần chúng nhân dân tham dự. Có lẽ chính vì sinh hoạt nói trạng, kể truyện trạng đã trở
thành một phần máu thịt trong đời sống tinh thần của bà con xứ Nghệ nên Ninh Viết
15


Giao, một nhà Nghệ học đã cho rằng xứ Nghệ là quê hương của truyền thống nói trạng và
truyện trạng. Nếp sinh hoạt nói trạng, kể truyện trạng của người dân nơi đây từ già trẻ,
gái trai, là môi trường phát sinh, hình thành, cái nôi phát triển của truyện trạng xứ Nghệ
bởi chính trong cái môi trường diễn xướng sống động ấy, hình hài của các câu chuyện
trạng mới được hình thành. Và sống trong không khí vui vẻ ấy, bản thân mỗi người dân
“thấy đỡ mệt nếu như mình đang lao động vất vả với mọi người. Lúc bấy giờ chỉ thấy
không hề bận bịu trong tâm trí nếu như mình có những băn khoăn, suy nghĩ. Mà cũng
quên nhẹ đi những lo lắng ưu sầu, nếu như mình đang có nỗi buồn phiền” [86, tr.7]. Bà
con ở xứ Nghệ gọi sinh hoạt truyện trạng là cùng nhau ngồi “tầm phào” trên trời dưới đất
“đồng quang sang đồng rậm” để gây cười một cách hồn nhiên, hể hả và thoải mái. “Nói
trạng và cả truyện trạng đều thể hiện tính vui vẻ, thông minh, nhanh trí, dí dỏm, nghịch
ngược… của con người xứ Nghệ” [20, tr.28].
Môi trường diễn xướng của truyện trạng rất đỗi ngẫu nhiên vì truyện trạng diễn ra
hết sức tự nhiên, chỉ cần gặp người gặp cảnh là cứ thế mà “bùng khởi”. Là một loại hình
sinh hoạt văn hoá, văn nghệ phổ biến nhưng khác với các loại hình sinh hoạt khác như
chèo, tuồng, kịch nói, hát dân ca… môi trường diễn xướng của truyện trạng không hề có
nét chuyên nghiệp, nó mang tính chất tự phát với tất cả các thành phần tham gia trong đó,
từ người diễn xướng cho đến những người tham dự. Đồng thời, môi trường diễn xướng

cũng hết sức cơ động, linh hoạt và vô cùng đơn giản, không hề cần đến sự chuẩn bị về
sân khấu, trang phục cũng như kịch bản của buổi diễn. Đặc điểm này của không gian
thực hành quy định những đặc tính của truyện trạng, các truyện trạng được kể không hề
tuân theo một kịch bản có sẵn nào hoặc là không có một kịch bản dài hơi, người kể
chuyện có thể nói là bạ đâu kể đấy, nhớ đến đâu kể đến đó, thích gì kể nấy… và miễn sao
là gây cười, cười rôm rả là được. Chính vì thế, trật tự các truyện trạng được kể trong buổi
sinh hoạt cũng mang tính chất ngẫu hứng, ngẫu nhiên, có sự tiếp nối logic về một mặt
nào đó hoặc không hề logic hay tuân theo bất kỳ một quy tắc hay trình tự nào cả giống
như môi trường diễn xướng của nó vậy. Đồng thời, các truyện trạng được kể ra thường là
các câu chuyện lẻ, vắt chéo nhiều chủ đề khác nhau… Tuy nhiên, dù có thế nào đi nữa, kể
bất cứ cái gì, kể như thế nào… thì hầu hết các câu chuyện trạng cũng gắn liền với thời sự,
gắn liền với chuyện xảy ra trong vùng của người kể chuyện và người nghe. Điều đó cho
thấy, mặc dù diễn ra có thể nói là tuỳ tiện nhưng truyện trạng không phải là một ví dụ
ngoại lệ của sự kết hợp giữa cái chung và cái riêng. Một mặt, truyện trạng giống các thể
loại văn học khác là hình thành và phát triển đều chịu sự quy định của môi trường thực
hành (truyện trạng hình thành trong môi trường sinh hoạt nói trạng). Trong khi kể truyện
trạng, nhiều nguồn tư liệu dân gian khác (truyện cổ tích thế sự, cổ tích các loài vật, giai
thoại…)

16


lại tham gia vào việc tạo ra các truyện trạng mới. Đồng thời, nhờ không ngừng bổ sung
và phát triển, đến lượt mình, truyện trạng tác động biến đổi đến môi trường thực hành
thông qua sự biến tấu trong phong cách diễn xướng của người kể chuyện. Mặt khác,
chính vì gắn với tính thời sự của địa phương nên truyện trạng lại chịu sự chi phối của
những yếu tố trong môi trường địa - văn hoá địa phương (xứ Nghệ) và một hệ quả tất yếu
là mang màu sắc bản địa rõ nét. Đó cũng chính là mối quan hệ biện chứng, sự tác động
qua lại giữa tác phẩm văn học dân gian và môi trường thực hành nói chung và mối quan
hệ mật thiết giữa môi trường sinh hoạt truyện trạng và truyện trạng ở xứ Nghệ nói riêng.

Hệ quả của sự tác động này làm nên nét độc đáo của truyện trạng xứ Nghệ mà khó có thể
lẫn với sản phẩm ở các vùng khác.
Theo chúng tôi, nếu khu biệt truyện trạng trong môi trường văn hoá xứ Nghệ, nhìn
nhận nó dưới một góc độ hẹp thì có thể coi đây là một bộ phận của truyện cười xứ Nghệ
còn nếu đặt truyện trạng vào môi trường diễn xướng sinh động (hiểu truyện trạng ở góc
độ rộng hơn) thì nó còn bao quát trong đó cả những tiểu loại khác của truyện cười, truyện
cổ thế sự, giai thoại… các loại truyện kể dân gian khác. Trong cái nôi sinh hoạt truyện
trạng ấy, người ta có thể khai thác đủ mọi thể loại đề tài để gây cười, biến mọi thứ thành
tiếng cười sảng khoái.
Tóm lại, trong sinh hoạt kể truyện trạng, người ta có thể nói, kể đủ thứ nhưng
trong luận văn này, đối tượng mà chúng tôi hướng đến chủ yếu là những truyện trạng với
tư cách là truyện cười mua vui, mục đích chính là để vui cười. Và có lẽ nhờ những tiếng
cười truyện trạng đó mà người dân xứ Nghệ đã trường kỳ đi qua bao nhiêu khó khăn,
những năm tháng khổ cực, lầm than và cay đắng trong lao động sản xuất cũng như công
cuộc bảo vệ đất nước. Quả thực, tiếng cười qua những câu truyện trạng đã góp phần tăng
thêm sức mạnh cho họ. Sinh hoạt truyện trạng là nơi mà mọi người dân xứ Nghệ có thể
thoải mái nói cười, yêu ghét một cách tự nhiên và như Trần Hữu Thung nói “Tâm lý và tư
tưởng của quần chúng xưa được thể hiện một cách sắc đọng. Qua truyện trạng, chúng ta
hiểu rõ được những ưu điểm và cả những nhược điểm của nhân dân lao động. Vì ở truyện
trạng, không hề có sự câu thúc, kiềm chế, sự kiêng dè né tránh. Có thể nói, truyện trạng
phản ánh đầy đủ tinh thần tự do kiểu nông dân hay nhân dân lao động” [86, tr.27].

* Tiểu kết chƣơng 1
Trong môi trường văn hoá giàu có với đủ mọi thể loại văn học và nhiều tập quán
phong phú của xứ Nghệ, truyện trạng là một hình thức sinh hoạt văn hoá hết sức đặc sắc,
có nguồn gốc từ nói trạng (vui đùa, bông phèng). Ở truyện trạng có một sự kết hợp độc
đáo giữa cái chung và cái riêng, vừa tuân theo những quy luật thẩm mỹ trong sáng tạo
của tác phẩm folklore, vừa bảo lưu và phát triển những nét văn hoá đặc thù của bản địa.

17



Điều này khiến cho truyện trạng phát triển theo hai xu hướng mà nhìn bề ngoài có vẻ như
là trái ngược nhau. Chịu tác động của quy luật sáng tạo folklore, truyện trạng sẽ phát triển
theo hướng hoà nhập và mức độ di chuyển ngày càng lớn. Tuy nhiên, cho đến nay, dường
như truyện trạng vẫn là một thứ đặc sản của người dân Nghệ Tĩnh bởi tính độc đáo và đặc
sắc của văn hoá bản địa in rất đậm trong truyện trạng khiến cho loại hình sinh hoạt này
không thể trộn lẫn và giống bất kỳ một loại hình sinh hoạt văn hoá nào ở xứ Nghệ nói
riêng và cả nước nói chung.
Hiện nay, truyện trạng vẫn đang trong quá trình vận động, biến đổi và chưa đạt
đến độ phát triển ổn định nên rất khó định hình trong một khuôn cố định và dường như
đó cũng là điểm chung của tác phẩm văn học dân gian cũng như các loại hình sinh hoạt
văn hoá dân gian đang “sống” một cách đích thực.
Truyện trạng rất điển hình cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những đặc trưng của
tác phẩm văn học dân gian gồm tính nguyên hợp, tính truyền miệng, tính tập thể và tính
thực hành. Trên phương diện văn bản, truyện trạng có mối quan hệ hết sức mật thiết với
truyện cười xứ Nghệ mà như Ninh Viết Giao nhận định “đa số truyện cười ở xứ Nghệ là
truyện trạng” [20, tr.32]. Trong khả năng của mình, chúng tôi cũng chưa có thể phân định
thành một đường biên cụ thể là tỷ lệ truyện trạng trong kho tàng truyện cười xứ Nghệ là
bao nhiêu bởi vì công việc phân định này tương đối phức tạp và khó có thể chính xác và
tránh khỏi những nhận xét chủ quan. Trong quá trình nghiên cứu của mình, mặc dù không
thể đồng nhất truyện trạng với truyện cười xứ Nghệ, song trên phương diện văn bản,
người viết vẫn ngầm hiểu và chấp nhận truyện trạng là bộ phận chủ đạo của truyện cười
xứ Nghệ. Tuy nhiên, giá trị và đời sống toàn vẹn của truyện trạng không phải là những
mẩu truyện trên giấy mà nó diễn ra một cách sống động trong sinh hoạt truyện trạng. Đặt
truyện trạng trong bối cảnh môi trường diễn xướng thì sẽ đem lại một cái nhìn khác về
mối quan hệ giữa truyện trạng với truyện cười và sinh hoạt truyện cười ở xứ Nghệ. Là
một loại hình sinh hoạt văn nghệ tự túc, truyện trạng là một bộ phận của sinh hoạt văn
hoá dân gian xứ Nghệ bên cạnh hát ví, hát dặm, hát dân ca… không ngoại trừ trong đó có
cả sinh hoạt truyện cười. Vì thế, sinh hoạt truyện trạng và truyện cười vẫn là hai loại hình

sinh hoạt văn hoá dân gian, chứ không phải là một mặc dù giữa chúng có nhiều điểm
chung. Trong trường hợp này thì nội hàm của truyện cười cũng như sinh hoạt truyện cười
không đủ lớn để có thể bao chứa toàn bộ nội hàm của truyện trạng và sinh hoạt truyện
trạng.

18


CHƢƠNG 2: TRUYỆN TRẠNG XỨ NGHỆ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
NỘI DUNG
2.1 Truyện trạng phản ánh bức tranh phong tục của nông thôn xứ Nghệ
Truyện trạng là bức tranh toàn diện, đầy đủ và phản ánh một cách toàn vẹn, sinh
động về nông thôn xứ Nghệ. Môi trường nông thôn là nguồn cảm hứng bất tận, là kho
chất liệu phong phú của truyện trạng.
Qua những truyện trạng, đời sống ở nông thôn xứ Nghệ được phản ánh trong thế
đa dạng, nhiều cung bậc từ những sinh hoạt đời thường, diễn ra một cách thường nhật
đến những phong tục tập quán riêng, cũng như bộ mặt, cơ cấu xã hội… Mô hình quản lý
ở nông thôn xứ Nghệ cổ truyền thường được khuôn theo một thiết chế trật tự của xã hội
phong kiến xưa: dưới là tầng lớp nhân dân lao động, trên có các cụ hương, cụ lý (đây là
quan hệ xã hội điển hình nhất, cơ bản nhất ở nông thôn, mối quan hệ này bị ràng buộc bởi
các luật lệ, quy ước địa phương riêng như: lệ làng, hương ước…), kế đến là chánh tổng,
trên chánh tổng có quan huyện, trên quan huyện là cụ tuần, trên nữa là cụ thượng…
(trong các truyện trạng: “Cái ấy của làng”, “Rồng ỉa vào đâu”, “Ẻ đầu vua”…). Rồi qua
những truyện như “Đái mau đưa vô”, “Có lẽ giống”… thì ta lại biết được tục lệ phạt của
làng trong xã hội nông thôn truyền thống là nếu không có chồng mà có thai (chửa hoang)
thì sẽ bị những người đứng đầu làng là ông hương, ông lý đến tra hỏi, xử phạt…, thường
thì phải nộp tiền hoặc phải nộp các lễ vật (rượu thịt) để làng đánh chén. Đồng thời, truyện
trạng cũng phản ánh những quy định khác ở nông thôn xứ Nghệ như việc nghiêm cấm
người lạ vào làng dưới thời Xô Viết Nghệ Tĩnh. Truyện “Gậy ông đập lưng ông” kể về
việc vì xã Châu Sơn (Hưng Nguyên - Nghệ An) được coi là một chiến khu đồng bằng nên

giấy huyện ra lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, tên mật thám ở tỉnh về rình mò để bắt
cán bộ Đảng, dân làng biết nhưng cứ dựa vào tờ lệnh của huyện cho tên mật thám và
đồng bọn một vố đau mà không làm gì được.
Bên cạnh đó, truyện trạng còn phản ánh đời sống tâm linh, tinh thần cũng như các
phong tục tập quán của người dân Nghệ Tĩnh như tục rước ông Táo (một nghi thức đón
thần bếp trở về sau khi lên thiên đường báo cáo tình hình trong năm dưới hạ giới với
Ngọc Hoàng được nhân dân tiến hành vào ngày 23 tháng chạp âm lịch hàng năm), tục thờ
thổ công (trong tín ngưỡng Á Đông, thổ công là vị thần cai quản đất đai), hay như việc cứ
ngày rằm và mồng 1 (âm lịch) hàng tháng, nhiều người dân trong làng lại bày biện rượu,
chuối để thắp hương ở đền làng. Tuy nhiên, khác với địa chí, hương ước, các văn bản
nghiên cứu khác, truyện trạng nói riêng và truyện cười nói chung có cách phản ánh về
các phong tục tập quán rất hóm hỉnh, hài hước và đây cũng chính là nét đặc thù của từng
thể loại văn học trong việc tiếp cận, phản ánh hiện thực đời sống. Truyện “Rước ông
Táo” kể

19


về việc người chồng vì mê cờ bạc mà quên cả việc rước ông táo, khi cả làng đã làm xong
lễ rước ông táo, vợ vào thúc giục thì ông chồng lý luận “Những ông Táo khôn người ta
rước hết rồi. Bây giờ còn rặt những ông Táo dại, tôi không rước về đâu” [86, tr.49]. Còn
truyện “Hai ông thổ công” lại là một cái nhìn dí dỏm, trí tưởng tưởng phong phú của
nhân dân xứ Nghệ về những ông thổ công, ông thần cai quản đất đai trong tín ngưỡng của
nhân dân rồi đến việc dân làng biện lễ be rượu, nải chuối để thắp hương ở đền làng vào
các dịp rằm và mồng một hàng tháng (mỗi làng thường có một cái đền để thờ vị thần
được nhân dân coi là người sáng lập ra làng ấy).
Đồng thời, truyện trạng còn tái hiện những sinh hoạt đời thường, diễn ra hàng
ngày, hàng giờ ở nông thôn xứ Nghệ như việc xử kiện (truyện “Giữa thì nục nận”), tế bố
vợ (ở xứ Nghệ, khi bố vợ mất, các chàng rể vẫn hay khóc thương người quá cố bằng các
bài văn tế (“Ba chàng rể tế bố vợ”). Và người Việt nói chung và người Nghệ Tĩnh nói

riêng có phong tục ăn Tết Nguyên Đán. Đây là cái Tết lớn nhất, thậm chí là duy nhất
trong môi trường nông thôn truyền thống và gần như cả năm, mọi người dù giàu sang hay
nghèo khổ thì cũng cố gắng chuẩn bị để có một cái Tết đầy đủ. Vì vậy, đến Tết Nguyên
Đán cũng cố gắng để có mâm cỗ bày biện, vì vậy đến ngày 29, 30 tháng mười hai âm lịch
là nhà nào cũng chuẩn bị cá, thịt, bánh chưng… để ăn Tết. Hai truyện “Lòng gan đâu”,
“Mới ba mươi mà đã rượu”… là những mẩu chuyện lém lỉnh, “nghịch ngược” của nhân
dân xứ Nghệ. Qua những truyện như “Cối rút”, “Mẹo thầy cúng”, “Đóng oản”… thì lại
phản ánh một nét phổ biến, một thói quen trong đời sống tâm linh của người dân ở nông
thôn xứ Nghệ là khi có một người trong nhà ốm, người thân sẽ lo liệu đi tìm thầy cúng,
bày biện cỗ, lễ vật để cúng giải hạn. “Cối rút” là nụ cười trào lộng mà nhân dân dùng để
chế giễu ông chồng tham ăn, bị vợ bắt quả tang, cuối cùng đành phải “lợi dụng” việc mời
thầy cúng vì bị “cối rút” (cối là vật dụng mà ở nông thôn người dân dùng để giã nhỏ các
loại nông sản, thường thì giã gạo) để thoát ra khỏi cái bẫy do mình tạo ra, “chữa thẹn”
với vợ vì cái thói tham ăn của mình.
Đặc biệt, kho tàng truyện trạng xứ Nghệ có khá nhiều truyện tập trung phản ánh
một cách đa dạng việc vận dụng chữ nghĩa (chữ Nho) trong cuộc sống thường nhật như
“Bây giờ nó mới ló đầu ra”, “Xuân hoá thung”, “Ăn theo bằng trắc”, “Trời sinh ra thế”,
“Ắt là ngũ”, “Con cú cành mai”, “Quan dốt”… Phải chăng là do xứ Nghệ là đất ham học,
được coi là “nhà Nho ho ra chữ” nên thói quen vận dùng câu chữ vào cuộc sống đời
thường rất thường xuyên, không bị người dân coi là bị bệnh học đòi, “mọt sách” (chữ
dùng hiện đại), “xấu hay nói tốt, dốt hay nói chữ” mà thậm chí còn làm sang cho người
nói, dù họ là ai đi chăng nữa (truyện “Dốt mà giỏi” kể về việc một anh nông dân nọ một
chữ Nho cắn đôi cũng không biết nên hay bị người trong nhà vợ coi thường, bữa nọ vô

20


tình học lỏm được hai câu thơ chữ Hán của hai anh chàng học trò mà từ đó mọi người
không dám coi thường anh nữa). Qua các truyện trạng cho thấy, người Nghệ có thể chế
giễu thói lai căng những thứ khác như trong truyện “Củ này củ gì” (người xứ Nghệ lai

căng giọng Bắc) nhưng không hề có thái độ chế giễu những chàng nông dân chân đất mắt
toét hay những cậu bé vắt mũi chưa sạch mà đã tập toẹ chữ của thánh hiền. Những truyện
này thể hiện việc vận dụng chữ nghĩa khá đa dạng, xuất hiện trong nhiều tình huống của
cuộc sống như việc đi đòi nợ trong truyện “Bây giờ nó mới ló đầu ra”; vợ chồng ghen
nhau trong truyện “Xuân hoá thung”; việc ra đề thi trong truyện “Quan dốt”; việc tiếp đãi
bạn trong truyện “Ăn theo bằng trắc”; việc kén rể trong truyện “Xem thơ kén rể”; việc
dạy học trong truyện “Tệ”; ra câu đối “Câu đối dân gian”; khóc người thương qua đời
“Chữ hiếu”…
Ngoài ra, việc hôn nhân cũng được phản ánh ở các góc độ khác nhau trong nhiều
câu truyện trạng và xoay quanh đề tài này nhân dân đã tìm cách khai thác nhiều câu
chuyện nực cười. Có lẽ, không chỉ riêng người xứ Nghệ mà ở các vùng khác cũng vậy,
hôn nhân là một phần quan trọng tất yếu trong đời người nên “hậu trường” quanh nó có
rất nhiều việc phải bàn như vấn đề tảo hôn, kén rể, sính lễ cưới, đến cả những sinh hoạt
đời thường của những cặp vợ chồng trẻ... Truyện trạng đã tái hiện một cách khá trung
thành, vừa hài hước, vừa dí dỏm lại hết sức sâu sắc về tình trạng tảo hôn ở xứ Nghệ dẫn
đến những truyện dở cười dở mếu như trong truyện “Có ai thủng bụng không”, “Con
cười cái gì”, “Chàng rể bé”, “Đôi củ”, “Ngồi mâm trên”, “Buồng vợ chồng mới cưới”,
“Cậu đánh ngũ liên lên cho”… Tất cả những truyện trạng đó tuy đề cập ở các góc độ
khác nhau nhưng đều phản ánh một điều là những chàng trai đi làm rể từ lúc tuổi còn quá
nhỏ, chưa có những hiểu biết tối thiểu về quy tắc ứng xử xã hội cũng như kiến thức về
sinh lý, sinh hoạt vợ chồng. Truyện “Đôi củ” kể về việc chàng rể trước lúc đến nhà bố mẹ
vợ được bố đẻ dặn là chỉ ăn đôi củ (một vài củ) để giữ phép lịch sử vì ông bố sợ con
mình còn dại, đến bên ngoại cũng ăn uống bỗ bã như ở nhà thì người ta cười cho. Nào
ngờ, chàng rể nọ chưa đủ lớn để hiểu được điều đấy, lại tư duy một cách máy móc đôi là
hai, đôi củ nghĩa là ăn hai củ một lúc. Một mảng khác của đề tài hôn nhân là kén rể cũng
thu hút được sự quan tâm của nhân dân qua nhiều truyện như “Xem thơ kén rể”, “Chọn rể
nhác”, “Chọc tức bố vợ”, “Kén rể”, “Hòn đá bạc”, “Con cú cành mai”… Trong các câu
chuyện kén rể này, bố vợ bao giờ cũng muốn thử tài, là người ra điều kiện và là người
cầm cân nảy mực trong việc chọn rể. Vì thế, bố vợ thường là cửa ải khó khăn mà chỉ
những chàng trai nào thông minh, lém lỉnh và sắc sảo mới có thể vượt qua được. Trong

nhiều chuyện, nhờ các “chiêu thuật” riêng mà các chàng trai đã khiến cho các ông bố vợ
tương lai phải giật mình, ngạc nhiên và thán phục nên rút cuộc các chàng đều lấy được

21


vợ. Nói đến hôn nhân, không thể không nói đến một khâu quan trọng là thách cưới.
Truyện “Ông “tới” thì tôi “lui””, “Con xin chín chục”… là những mẩu truyện trạng hài
hước về tục thách cưới. Không ít tình huống trong cuộc sống, những hệ lụy không tốt do
tục thách cưới gây ra như phía gia đình người con gái thách cưới quá nặng, dẫn đến việc
nhà chàng trai không đáp ứng được mâm cao cỗ đầy, lễ vật mà mất vợ, đôi lứa phải chia
lìa. Nhiều truyện trạng đã đề cập đến vấn đề này dưới góc độ hài hước và sâu sắc. “Ông
“tới” thì tối “lui”” kể về việc người nọ đi hỏi vợ cho con, bố cô gái tên là Tới, ông này lại
thách cưới quá nặng. Biết là khó lòng đáp ứng được, ông này bèn thả giọng trạng “Ông
tới thì tôi xin lui” cũng là một cách ám chỉ để phê phán điều đó.
Có thể nói, truyện trạng gần như là một cuốn nhật ký ghi chép tường tận mọi ngóc
ngách trong đời sống sinh hoạt của nhân dân xứ Nghệ từ việc mua bán ở chợ “Quan rẻ
thối”; cuộc sống riêng của vợ chồng “Rèn”, “Buồng vợ chồng mới cưới” đến cả việc em
gái chăm sóc chị gái khi đẻ “Của dì dì giữ”, ma chay “Cúng giỗ”, cưới hỏi, từ việc sinh
đẻ cho đến tang ma đến một thói quen sinh hoạt khác là bói Kiều…
Cùng là sống ở nông thôn nhưng mỗi người, mỗi một làng quê, nhóm người có
một nghề khác nhau, một công việc hàng ngày khác nhau và có những câu chuyện trạng
khác nhau. Việc phản ánh một cách sinh động nhiều ngành nghề khác nhau đã tạo nên
tính đa dạng trong đề tài của truyện trạng xứ Nghệ. Theo thống kê riêng của người viết,
có khoảng 20 nghề, nhóm nghề khác nhau được truyện trạng xứ Nghệ đề cập đến là nghề
thầy thuốc, nghề dạy học, nghề đi cày, nghề đi rừng (săn bắn, bứt củi), nghề thợ xẻ, nghề
thợ mộc, nghề thầy bói, nghề thầy cúng, nghề kép hát, nghề lên đồng, nghề địa lý, nghề
đan lát thủ công, nghề lái đò, nghề ăn trộm, nghề đi tu, nghề lính gác, nghề phó cối, nghề
quỷ sứ, nghề ở rể, nghề chọi gà.
Tuy nhiên, trong số các nghề trên thì có lẽ nghề dạy học vẫn là tâm điểm của nhiều

truyện trạng ở xứ Nghệ. Qua một loạt các truyện như: “Lời rao”, “Tệ”, “Sĩ diện”, “Ăn vắt
đỗ”, “Ngáp phải ruồi”, “Hóc búa”, “Nói phải cho có đầu có đuôi”, “Mít nác gì”, “Tết
thầy”, “Hai thầy đồ”, “Vô phép”, “Thôi chừa đến chết”, “Bảng xuân”, “Đường lên trời ở
mô”, “Bài học đầu năm của một thầy đồ”, “Chúc thầy sống lâu trăm tuổi”… thì bức tranh
muôn màu về cái nghề gõ đầu trẻ truyền thống của xứ Nghệ đã hiện lên rất sinh động ở
nhiều cung bậc khác nhau. Có lẽ đây là nghề “điển hình” nhất của xứ Nghệ đã đi vào văn
chương, giai thoại và tâm thức của nhiều người. Câu chuyện về con cá gỗ của thầy đồ xứ
Nghệ đã trở nên rất phổ thông đối với người dân cả nước và như một nhận xét hài hước
cho tính hà tiện, tiết kiệm thái quá của người Nghệ. Trong số 352 truyện cười của xứ
Nghệ mà chúng tôi khảo sát, có đến 35 truyện về các ông thầy đồ hoặc liên quan đến thầy
đồ. Tuy nhiên, trong số đó rất hiếm hoi có nhân vật thầy đồ mang yếu tố tích

22


cực, chân dung của các thầy đồ hiện lên với rất nhiều nhược điểm, thậm chí có thể nói là
không có tật xấu nào của thầy đồ mà không được đề cập đến: ăn nhiều, dạy học trò thì
dốt, không đứng đắn, có máu đàn bà (truyện “Lời rao”, “Đường lên trời ở mô”, “Thôi
chừa đến chết”…); tham lam, tham ăn tục uống (truyện “Mít nác gì”, “Đóng oản”…); bị
bệnh sĩ (truyện “Sĩ diện”); hay trách vặt (truyện “Tệ”); đạo đức giả nhưng hay lên mặt
dạy đời, dạy vẹt (truyện “hiếu”); hay đố kỵ ghen tỵ lẫn nhau (truyện “hai thầy đồ”)...
Nhiều người sẽ đặt câu hỏi là nghề dạy học rất thịnh hành và được trọng vọng ở xứ Nghệ,
đất Nghệ là đất học, nổi tiếng là hiếu học thì lẽ đương nhiên là phải kính thầy “nhất tự vi
sư, bán tự vi sư” (một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy) mà tại sao đối tượng của
tiếng cười khôi hài, châm biếm, thậm chí là đả kích lại xoay quanh nhân vật thầy đồ
nhiều đến thế. Ngạn ngữ Nga có câu “Hãy nói cho tôi biết bạn cười cái gì, tôi sẽ nói cho
bạn biết bạn là người như thế nào”. Phải chăng tiếng cười ở đây có ý nghĩa thanh lọc,
tống khứ những nét tiêu cực mà có thể ở đâu đấy, không phổ biến nhưng vẫn tồn tại trong
một vài cá nhân thầy đồ. Và góc độ ý nghĩa đó còn lớn hơn việc phản ánh trung thực,
toàn diện bộ mặt thật của tầng lớp thầy đồ ở vùng nông thôn xứ Nghệ mà như Mác từng

viết “Giai đoạn cuối cùng của một hình thái lịch sử, chính là tấn hài kịch của nó... và điều
đó là cần để cho loài người rời bỏ quá khứ một cách vui vẻ” [73, tr.142]. Sau nghề dạy
học, có lẽ nghề thầy thuốc cũng là một nghề thú vị, “mảnh đất màu mỡ” để các truyện
trạng khai thác như “Thuốc gió”, “Bài thuốc bắc kỳ lạ”, “Kinh nghiệm làm thầy thuốc”,
“Quan nhà chú dốt như bò đực ấy”, “Xắn mấn một tý là xong”… Tuy nhiên, khi khai thác
mảng đề tài này, người Nghệ chủ yếu tập trung vào các yếu tố hài hước, bông đùa mà ít
có sắc thái châm biếm, đả kích. Bên cạnh đó, còn có một số ca ngợi phẩm chất của người
thầy thuốc, nhân dân xứ Nghệ đã “mượn vai” thầy thuốc để cho bọn quan lại, trọc phú
đương thời những đòn đánh thâm hiểm như trong truyện “Quan nhà chú dốt như bò đực
ấy”, “Thuốc gió”...
Ởxứ Nghệ, có một nghề cũng khá “thịnh hành” và đặc biệt là nghề đi ở rể. Gọi
đi
ở rể là nghề nghe có vẻ buồn cười, lạ tai nhưng không biết bao nhiêu truyện trạng xứ
Nghệ tập trung “cày xới”, có thể nói là “thâm canh tăng vụ” trên địa hạt này. Mỗi truyện
trạng khai thác một kiểu hài hước riêng với một cách nhìn riêng, thế mà bao nhiêu
chuyện xảy ra vẫn chưa cạn đề tài, chủ đề mà dường như càng ngày càng được mở rộng
thêm giới hạn, không hề bị nhạt, bị bớt mất tính thời sự. Chân dung của những anh chàng
hành nghề ở rể hiện lên vừa buồn cười, vừa tội nghiệp, có không biết bao câu chuyện
cười ra nước mắt vì thói ngô nghê, ngớ ngẩn của những chàng trai “hành nghề” này. Song
thái độ mà người nghe, người đọc thưởng thức những câu chuyện này chỉ ở mức độ cười
cợt cho vui, nếu có thì cũng chế giễu nhẹ nhàng chứ chưa ở mức độ châm biếm hay

23


đả kích bởi vì cuộc sống đã đẩy những anh chàng tuổi còn bé tý, thậm chí ở nhà còn thèm
sữa mẹ đã phải đi ở rể nên tránh sao khỏi bị rơi vào những tình thế oái oăm. Những
truyện “Đôi củ”, “Ngồi mân trên”, “Có ai thủng bụng không”, “Liếm đĩa”… đều cười cợt
những chàng rể bé ngây thơ, gần như chưa biết gì về cuộc đời, về những điều tối thiểu
trong cuộc sống như cha dặn “đến nhà vợ chỉ ăn đôi củ thôi, không người ta cười cho” thì

lại hiểu đôi củ là hai củ và cứ ăn hai củ một lúc… Và có lẽ sở dĩ đề tài này được viết
nhiều, khai thác sâu bởi tình trạng tảo hôn ở nông thôn truyền thống xứ Nghệ là rất phổ
biến.
Ngoài ra, truyện trạng xứ Nghệ cũng đề cập khá sinh động và sâu sắc chân dung
của những ông làm nghề thầy tu (sư sãi, tiểu, vãi) qua nhiều truyện như “Qua một chuyến
đò”, “Sư tre đè sư mít”, “Sư và quan đều bị mắc cỡ”, “Thanh tịnh”, “Chuyện trong chùa”,
“Hỏi thăm sư”… Theo đó, hàng loạt các tật xấu của những vị tu hành này đã bị phơi trần
và bộc lộ như ghẹo gái, mê gái, uống rượu và ăn thịt chó… Tương tự, nghề thầy bói, thầy
cúng cũng là đối tượng hài hước và châm biếm của tiếng cười Nghệ Tĩnh như qua các
truyện “Ngáp phải ruồi”, “Tài đoán số” (Cười vào sự bất tài của những ông làm nghề
thầy bói đã dẫn đến “bẫy hài” của cuộc sống); “Mẹo thầy cúng”, “Ông thầy cúng”… (Đả
kích những kẻ trá hình nghề thầy cúng để vơ vét, bóc lột nhân dân). Ở xứ Nghệ có một
nghề đặc biệt là nghề ăn trộm, nghề này tuy không thu hút nhiều truyện trạng song ý
nghĩa mà các truyện đề cập đến lại khá sâu sắc như truyện “Trộm cái dây thừng”, “Mẹo
kẻ trộm”, “Lòng gan đâu”. Điều đáng nói ở đây là thái độ của nhân dân đối với nghề này,
khác với suy nghĩ thông thường, nghề ăn trộm chắc chắn là nghề không đàng hoàng, tử
tế, là nghề xấu nên có châm biếm, đả kích thì cũng lẽ đương nhiên. Tuy vậy, ở đây lại có
thái độ cười đùa, bông phèng cho vui, thậm chí một số truyện còn thể hiện cái nhìn
thương hại như “Trộm cái dây thừng”, “Lòng gan đâu”, “Ngốc đi ăn trộm”; thậm chí có
truyện mà qua đó, nhân dân truyền đạt nhau bài học về triết lý sống ở đời là làm nghề gì
cũng cần phải có sự tâm huyết, nhanh trí, lòng dũng cảm và sự xả thân, ngay cả nghề ăn
trộm. Riêng có một nghề mà nhân vật chính của nó lại được truyện trạng đề cập đến với
thái độ đề cao và đầy tính cảm thông là nghề thầy địa lý qua chùm truyện Cố Bờ Ao.
Chùm truyện này đã khẳng định khả năng và tài năng của nhân vật Cố Bờ Ao và đó cũng
là sự khác biệt giữa truyện trạng với các truyện cười về các thầy địa lý của cả nước (thái
độ của người dân là cười cợt và phê phán, kiểu “Hòn đất mà biết nói năng/Thì thầy địa lý
hàm răng không còn”).
Đồng thời, truyện trạng xứ Nghệ còn khai thác các góc cười từ các nghề khác nhau
như: nghề đi cày (truyện “Bò say mật”, “Nói to nói nhỏ”, “Cày xong thì bừa”); nghề thợ
mộc (truyện “Bào vưa cưa ngắn”; “Thợ kéo một be, thợ đè một hũ”); nghề lên đồng


24


×