Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Văn hóa biển trong văn học dân gian truyền thống hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.7 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

NGUYỄN THỊ HÀ ANH

VĂN HOÁ BIỂN TRONG VĂN HOÁ DÂN
GIAN TRUYỀN THỐNG HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NÔỊ - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------

NGUYỄN THỊ HÀ ANH

VĂN HOÁ BIỂN TRONG VĂN HOÁ DÂN
GIAN TRUYỀN THỐNG HẢI PHÒNG
Chuyên ngành
Mã số

: Văn học dân gian

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn:
GS.TS. LÊ CHÍ QUẾ



HÀ NÔỊ - 2010

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

2


MỤC LỤC
Số trang

Mở đầu
Nội dung

Chƣơng 1: Diện mạo thành phố biển Hải Phòng
1.1.
Vị trí địa lí
1.2.
Lịch sử, con ngƣời Hải Phòng
1.3.
Đặc trƣng văn hoá biển Hải Phòng
Chƣơng 2: Văn học dân gian trong các lễ hội tiêu biểu của
Hải Phòng
2.1.
Mối quan hệ giƣƣ̃a Văn hóa dân gian và văn học
2.1.1. Tìm hiểu một số thuật ngƣƣ̃
2.1.2. Mối quan hệ giƣƣ̃a Văn hoá dân gian và văn học dân gian
2.2. Lễ hội chọi trâu (lễ hội “Đấu ngƣu” )
2.2.1. Truyền thuyết dân gian trong lễ hội chọi trâu
2.2.2. Thơ ca dân gian trong lễ hội chọi trâu

2.2.3. Thơ ca hiện đại trong lễ hội chọi trâu
2.2.4. Tín ngƣỡng dân gian trong lễ hội chọi trâu
2.3.
Lễ hội đền Nghe
2.3.1. Nƣƣ̃ tƣớng Lê Chân trong chính sƣƣ
2.3.2. Truyền thuyết Lê Chân trong Thần tích
2.3.3. Truyền thuyết Lê Chân trong lễ hội
Chƣơng 3: Dân ca vùng biển Hải Phòng
3.1.
Hát Đúm (Thủy Nguyên )
3.1.1. Nghệ thuật ngôn tƣƣ̀ của hát Đ úm
3.1.2. Thời gian và không gian nghệ thuật của hát Đúm
3.1.3. Nghệ thuật diễn xƣớng của hát Đúm
3.2.
Ca trù (Thủy Nguyên )
3.2.1. Ca trù – một hồn thơ dân tộc
3.2.2. Hát trong ca trù

Kết luận
Phụ lục
Tài liệu tham khảo

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

3


MỞ ĐẦU
1.


Lí do chọn đề tài:
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, chăm lo phát triển văn hoá

chính là tạo động lực phát triển đất nƣớc. Do vậy với những truyền thống tốt
đẹp của mình, văn hoá dân gian đóng vai trò tích cực trong sự phát triển của
xã hội Việt Nam.
Hiện nay, việc nghiên cứu văn học trong bối cảnh văn hoá đang đƣợc
thịnh hành ở nhiều nƣớc trên thế giới, đặc biệt là ở Việt Nam. Vì vậy, nhiều
nhà nghiên cứu, nhiều nhà khoa học rất quan tâm và đã có những công trình
nghiên cứu về lĩnh vực này.
Ngƣời viết luận văn quê ở Hải Phòng, vừa sinh sống vừa làm việc tại
Hải Phòng cho nên việc nghiên cứu, khảo sát đề tài về Hải Phòng có ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Nó giúp tôi hiểu rõ hơn về văn hoá dân gian của quê
hƣơng mình. Do vậy, tôi muốn dùng tƣ liệu Hải Phòng để minh chứng cho
vấn đề văn hoá biển trong văn học dân gian truyền thống.
Hiện nay, tôi đang giảng dạy cho sinh viên ngành văn hoá du lịch, do
đó đề tài này sẽ góp một phần phục vụ cho công việc dạy , học và nghiên cứu
về văn học dân gian của Hải Phòng .
Với tất cả những lí do đã trình bày ở trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên
cứu Văn hoá biển trong văn học dân gian truyền thống Hải Phòng.
2.

Lịch sử vấn đề:
Hải Phòng là một thành phố biển vùng Duyên hải Bắc bộ có nhiều thuận

lợi về văn hoá, kinh tế, chính trị… của cả nƣớc nên có rất nhiều tài liệu đã viết
về nó. Tiêu biểu nhất là cuốn Địa chí Hải Phòng của hội đồng lịch sử thành phố
Hải Phòng (in năm 1990). Đây là một tài liệu rất có giá trị, đƣợc biên soạn khá
công phu. Tuy nhiên, những vấn đề về văn hoá, tín ngƣỡng, con ngƣời, văn
học… của cƣ dân Hải Phòng đƣợc đề cập tới vẫn mang tính chất


Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51


khái lƣợc. Về sau này ở Hải Phòng, còn có thêm cuốn Địa chí thị xã Đồ Sơn
của Thị uỷ - HĐND – UBND thị xã Đồ Sơn – Trung tâm khoa học xã hội và
nhân văn Hải Phòng (in năm 2003). Đây cũng là một trong những tài liệu
đƣợc biên soạn khá chi tiết và công phu về các vấn đề văn hoá, lễ hội, tín
ngƣỡng, văn học… của cƣ dân biển Đồ Sơn. Tuy nhiên, cuốn sách vẫn mang
tính chất chí chung.
Nói chung, các tài liệu về địa chí đã cung cấp một sự nhận biết khá toàn
diện về quê hƣơng Hải Phòng trên nhiều lĩnh vực từ lịch sử, địa lí, văn hoá,
tín ngƣỡng, đến văn học dân gian… Đó là những cuốn sách đƣợc đánh giá là
có giá trị về mặt tƣ liệu. Tuy nhiên, vì là loại sách chung viết về lịch sử, con
ngƣời, văn hoá… nên tập sách chƣa có điều kiện đi sâu vào những vấn đề của
văn học dân gian.
Nhờ có sự quan tâm của Đảng và Nhà nƣớc, các cơ quan và các ngành
chức năng ở địa phƣơng, nên Hải Phòng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu,
biên khảo, sƣu tầm về đất nƣớc, lịch sử, con ngƣời, văn hoá, văn học… Đó là
các tài liệu: Hải Phòng di tích lịch sử - văn hoá do Trịnh Minh Hiên (chủ biên)
– 1993, Nhân vật lịch sử Hải Phòng – 2000, Văn hoá văn nghệ dân gian Hải
Phòng – 2001, Một số di sản văn hoá tiêu biểu của Hải Phòng (2 tập) – 20012002, Lễ hội truyền thống tiêu biểu Hải Phòng do Trịnh Minh Hiên (chủ biên)
năm 2006… Ngoài ra còn có nhiều công trình nghiên cứu riêng về văn hoá dân
gian của cƣ dân biển Hải Phòng nhƣ: Non nước Đồ Sơn của Trịnh Cao Tƣởng
– 1978, Hát Đúm Hải Phòng của Đinh Tiếp – 1987, Tìm hiểu ca trù Hải
Phòng của Giang Thu – Vũ Thiệu Loan – 1999, Đồ Sơn lịch sử và lễ hội chọi
trâu của Đinh Phú Ngà – 2003,… Nhìn chung, các tài liệu và các tác giả đã tiến
hành giới thiệu khá kĩ lƣỡng về lịch sử hình thành, về một số nhân vật lịch sử
tiêu biểu, những di tích, tín ngƣỡng, phong tục, tập quán, văn hoá văn nghệ,
khảo tả khá chi tiết về các lễ hội… Nhƣng do


Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

5


tính chất sƣu tầm, giới thiệu, chỉ ghi chép để bảo lƣu là chính nên các tác giả
không có điều kiện đi sâu phân tích, đánh giá các loại hình của văn học dân
gian truyền thống.
Bên cạnh đó cũng có nhiều tạp chí văn hoá, văn học ở trung ƣơng và
địa phƣơng đều đề cập đến các di sản văn hoá dân gian, văn học dân gian của
cƣ dân biển Hải Phòng. Các tạp chí đã giới thiệu các bài viết của một số tác
giả nhƣng còn khiêm tốn trên một vài lĩnh vực nhƣ khảo cổ, di tích, thắng
cảnh, quản lí văn hoá… Nhƣng do khuôn khổ và tính chất của tạp chí nên ít
có bài viết thực sự mang tính chất nghiên cứu sâu.
Có thể nói, các công trình nghiên cứu về văn hoá biển của Hải Phòng là
những tài liệu quý, có giá trị, nêu lên đƣợc những nét đặc trƣng của vùng
biển Hải Phòng nói riêng và vùng biển Duyên hải Bắc bộ nói chung. Các tác
giả đã đi sâu phân tích, chỉ ra đƣợc những nội dung, phƣơng thức thể hiện,
những nét đặc sắc riêng… của từng lễ hội, văn hóa dân gian nhƣ chọi trâu,
hát đúm, ca trù…Nhƣng đó là những công trình nghiên cứu riêng chƣa có
đƣợc cái nhìn tổng quan về văn hoá và văn học, chƣa chỉ ra đƣợc những giá
trị của văn học dân gian trong bối cảnh văn hoá.
Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy có một tài liệu rất có giá trị về văn hoá
của các làng ven biển Việt Nam, đó là Văn hoá dân gian làng ven biển do
Ngô Đức Thịnh (chủ biên) – 2000. Tài liệu đã đề cập tới một số vấn đề về
folklore của cƣ dân ven biển và hải đảo ở một số vùng biển tiêu biểu của Việt
Nam nhƣ vùng biển Trà Cổ, làng biển Quan Lạn, vùng biển Đồ Sơn…
Nhƣng đó mới chỉ là những nhận xét bƣớc đầu nhằm định hƣớng cho việc
nghiên cứu lĩnh vực văn hoá biển nói chung. Tài liệu chƣa có điều kiện đi sâu

tìm hiểu các thể loại văn học dân gian miền biển.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu trong nƣớc rất quan tâm, chú ý nhiều
đến vấn đề này. Về văn hoá biển của khu vực Bắc bộ thì ít có tài liệu nghiên

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

6


cứu hơn. Họ tập trung chú ý đến các vùng ven biển Hải Phòng, Quảng Ninh…
Nhƣng phần lớn các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều đến văn hoá biển của khu
vực miền Trung, đặc biệt là các tỉnh Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Bình
Thuận… Họ đã tổ chức đƣợc thành công các cuộc hội thảo và có nhiều công
trình nghiên cứu có giá trị về văn hoá biển miền Trung nhƣ: Văn hoá biển miền
Trung trong mối quan hệ với văn hoá biển Đông Nam Á của GS.TS Mai Ngọc
Chừ; Du lịch văn hoá biển miền Trung – tiềm năng và thách thức của PGS.TS
Lê Hồng Lý; Người Quảng Ngãi nhìn ra biển của TS. Nguyễn Đăng Vũ – Tạp
chí Nguồn sáng dân gian, số 3-2007; Biển Đà Nẵng
– những thách thức về văn hoá của Bùi Văn Tiếng – Tạp chí Văn hoá dân gian
số 4-2007… Các công trình nghiên cứu đã nêu lên đƣợc những nét văn hoá đặc
sắc của cƣ dân các vùng biển, nêu lên đƣợc những tiềm năng và thách

thức về văn hoá trong bối cảnh hội nhập.
Tóm lại, qua tất cả những sách, báo, các công trình nghiên cứu đề cập


trên, có thể nhận thấy rằng, đã có nhiều tài liệu nghiên cứu đến văn hoá dân

gian, văn học dân gian của cƣ dân biển Hải Phòng. Nhƣng chƣa có tài liệu
nào nghiên cứu nó thành một hệ thống, nghiên cứu văn học trong bối cảnh

văn hoá. Nhiệm vụ của chúng tôi là xem xét lại toàn bộ các tài liệu về văn hoá
dân gian của Hải Phòng, nghiên cứu, tìm hiểu văn học dân gian truyền thống
trong các di sản văn hoá đó để phân tích, tổng hợp, đánh giá, khảo cứu, góp
phần bảo lƣu và phát huy giá trị của các hiện tƣợng văn hoá dân gian trong
giai đoạn hiện nay.
3.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tƣợng nghiên cứu là các thể loại văn học dân gian truyền thống của
Hải Phòng, qua đó khám phá những yếu tố của văn hoá biển.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

7


Vì đề tài nghiên cứu khá rộng nên chúng tôi chỉ khảo sát, miêu tả, phân
tích một số hiện tƣợng văn hoá dân gian tiêu biểu của cƣ dân biển Hải Phòng,
nghiên cứu văn học dân gian truyền thống trong các hiện tƣợng văn hoá dân
gian đó, để từ đó nêu một số giải pháp làm giàu và phát huy các giá trị văn
hoá, cụ thể nhƣ: lễ hội chọi trâu, lễ hội đền Nghe, hát Đúm và ca trù.
4.

Những đóng góp của luận văn:
-

Trình bày, bổ sung tƣ liệu về văn học dân gian có liên quan đến các


hiện tƣợng văn hoá dân gian tiêu biểu của cƣ dân biển Hải Phòng.
-

Luận văn góp tiếng nói vào công cuộc bảo tồn, phát huy giá trị văn

hoá dân gian của vùng biển Hải Phòng.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ sử dụng một số phƣơng pháp nghiên

cứu chính trong quá trình phân tích, tổng hợp, nghiên cứu.
-

Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: đứng trên mảnh đất của văn học

dân gian kết hợp với một số tri thức của các ngành khoa học khác nhƣ văn
hoá học, dân tộc học, lịch sử…
-

Ngoài ra, luận văn còn kết hợp giữa phƣơng pháp xử lí văn bản với

phƣơng pháp điền dã thực địa.
6.

Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thƣ mục tham khảo, phụ lục, phần

nội dung chính của luận văn đƣợc chia làm 3 chƣơng.

Chƣơng 1. Diện mạo thành phố biển Hải Phòng
Chƣơng 2. Các lễ hội tiêu biểu của Hải Phòng
Chƣơng 3. Dân ca vùng biển Hải Phòng

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

8


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1

DIỆN MẠO THÀNH PHỐ BIỂN HẢI PHÒNG
1.1. Vị trí địa lí:
Hải Phòng là một thành phố ven biển , nằm phía Đông mi ền Duyên
hải Bắc bộ. Nơi đây cách thủ đô Hà Nội 102km, có tổng diện tích tự nhiên là
152.318,49 ha (số liệu thống kê năm 2001) chiếm 0,45% diện tích tƣƣ̣ nhiên
cả nƣớc .
Về ranh giới hành chính :
Phía bắc giáp tỉnh Quả ng Ninh
Phía nam giáp tỉnh Thái Bình
Phía tây giáp tỉnh Hải Dƣơng
Phía đông giáp biển Đông
Thành phố có tọa độ địa lí :
Từ 20030'39' - 21001'15' Vĩ độ Bắc.
Từ 106023'39' - 107008'39' Kinh độ Đông.
Ngoài ra còn có huyện đảo Bạch Long Vĩnằm giữa Vịnh Bắc Bộ,
0

0


0

0

có toạ độ từ 20 07'35' - 20 08'36' Vĩ độ Bắc và từ 107 42'20' - 107 44'15'

Kinh độ Đông.
Hải Phòng nằm ở vị trí giao lƣu thuận lợi với các tỉnh trong nƣớc và
quốc tế thông qua hệ thống giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng biển,
đƣờng sông và đƣờng hàng không.
Địa hình Hải Phòng thay đổi rất đa dạng phản ánh một quá trình lịch sƣƣ
địa chất lâu dài và phƣƣ́c tạp . Phía bắc Hải Phòng có dáng dấp của một vùng
trung du với nhƣƣ̃ng đồng bằ ng xen đồi . Trong khi đó phía nam thành phố lại

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

9


có địa hình thấp và khá bằng phẳng của một vùng đồng bằng thuần túy
nghiêng ra biển .
Vùng biển Hải Phòng là một bộ phận thuộc tây bắc vịnh Bắc bộ

. Các

đặc điểm cấu trúc địa hình đáy biển và đặc điểm hải văn biển Hải Phòng
gắn liền với nhƣƣ̃ng đặc điểm chung của vịnh Bắc bộ và biển Đông .
Độ sâu của biển Hải Phòng không lớn . Đƣờng đẳng sâu 2m chạy quanh
mũi Đồ Sơn rồi hạ xuống 5m ở cách bờ khá xa. Ở đáy biển nơi có các cửa sông

đổ ra, do sƣƣ́c xâm thƣƣ̣c của dòng chảy nên độ sâu lớn hơn . Ra xa ngoài khơi ,
đáy biển hạ thấp dần theo độ sâu của vịnh Bắc bộ , chƣƣ̀ng 30 - 40m. Mặt đáy
biển Hải Phòng đƣợc cấu tạo bằng thành phần mịn , có nhiều lạch sâu vốn là

nhƣƣ̃ng lòng sông cũ nay dùng làm luồng lạch ra vào hàng ngày của tàu biển .
Hải Phòng có bờ biển dài trên 125km kể cả bờ biển chung quanh các đảo
khơi. Bờ biển có hƣớng một đƣờng cong lõm của bờ vịnh Bắc bộ , thấp và khá
bằng phẳng, cấu tạo chủ yếu là cát bùn do năm cƣƣa sông chính đổ ra. Trên đoạn
chính giữa bờ biển , mũi Đồ Sơn nhô ra nhƣ một bán đảo , đây là điểm mút của
dải đồi núi chạy ra tƣƣ̀ trong đất liền, có cấu tạo đá cát kết (sa thạch) tuổi Đevon,
đỉnh c ao nhất đạt 125m, độ dài nhô ra biển 5km theo hƣớng tây bắc – đông

nam. Ƣu thế về cấu trúc tƣƣ̣ nhiên này đã tạo cho Đồ Sơn có một vịtríchiến
lƣợc quan trọng trên mặt biển ; đồng thời cũng là một thắng cảnh nổi tiếng .
Dƣới chân nhƣƣ̃ng đồi đá cát kết có bãi tắm , có nơi nghỉ mát nên thơ và khu
an dƣỡng có giá trị. Ngoài khơi thuộc địa phận Hải Phòng có nhiều đảo rải rác
trên khắp mặt biển, lớn nhất có đảo Cát Bà, xa nhất là đảo Bạch Long Vĩ.
Biển, bờ biển và hải đảo đã tạo nên cảnh quan thiên nhiên đặc sắc của
thành ph ố Duyên H ải. Đây cũng là một thế mạnh tiềm năng của nền kinh t ế
địa phƣơng .
1.2. Lịch sử, con ngƣời Hải Phòng :

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

10


Hải Phòng là một vùng đất nhanh nhạy , đi đầu trong nhiều việc và giàu
truyền thống đấu tranh . Kể tƣƣ̀ nhƣƣ̃ng ngày nƣƣ̃ tƣớng Lê Chân chiêu mộ dân
lành lập làng Vẻn . Bà là ngƣời đã khai phá đầu tiên một vùng nơi đầu sóng

ngọn gió . Tiếp theo đó, phải kể đến những chiến công của Bạch Đằng lịch sử
lƣƣ̀ng lẫy non sông . Hai lần đế quốc Pháp xâm lƣợc nhƣng Hải Phòng vẫn đi

đầu cả nƣớc tƣƣ̀ chống pháo th uyền trên đất bắc đến mở đầu tác chiến trong
thành phố . Trong kìm kẹp của hậu địch sâu , cả nội ngoại thành đã vùng lên
giành chiến thắng để cuối cùng có “Biển lửa Cát Bi” phối hợp tuyệt đẹp
với toàn quốc làm nên chiế n thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu .
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩcƣƣ́u nƣớc , Hải Phòng đã đánh trả
quyết liệt và lập bến mở “Đƣờng Hồ ChíMinh trên biển” . Cùng với thủ đô
Hà Nội và một số các tỉnh khác , Hải Phòng vừa phòng ngự vừa tiến công đập
tan chiến dịch tập kích đƣờng không lập nên chiến thắng Điện Biên Phủ trên
không. Bên cạnh đó, các cuộc đấu tranh xã hội khác cũng khá nhiều . Đặc biệt
là cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân chống lại triều đình phong kiến nhƣ cuộc
khởi nghĩa của Quận He Nguyễn Hƣƣ̃u Cầu (1740 - 1750) lập căn cƣƣ́ Đồ Sơn

quyết chiến cùng quan quân . Có lúc , cuộc khởi nghĩa mở rộng ra cả miền
Đông, làm rung động kinh thành Thăng Lo ng thời vua Lê , chúa Trịnh .
Nhƣ vậy, truyền thống đấu tranh ch ống giặc ngoại xâm bảo vệ T ổ
quốc, ngƣời Hải Phòng đã góp phần xứng đáng , có mặt trên tuyến đầu của tất
cả các thời điểm nóng bỏng của lịch sƣƣ . Nhiều đình chùa, đền miếu thờ các
tiên công, các danh tƣớng, danh thần…ở khắp nơi trong thành phố .
Đến thời cận hiện đại , dƣới sƣƣ̣ lãnh đạo của Đảng , vai trò đóng góp của

ngƣời Hải Phòng càng nổi bật trong nhƣƣ̃ng cuộc chiến chống

kẻ thù xâm

lƣợc ,

xƣƣ́ng đáng là một thành phố “Trung dũng


– quyết thắng” . Càng tự hào với

truyền thống ta càng yêu quý mảnh đất đã cống hiến nhiều công sƣƣ́c làm
nên lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam anh hùng .

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

11


Trong đấu tranh giai cấp , đấu tranh dân tộc của thời kìcận hiện đại ,
giai cấp công nhân Hải Phòng đƣợc hình thành sớm , Đảng bộ cộng sản thành
lập năm 1929. Nhiều cuộc đấu tranh quyết liệt nổ ra liên tiếp chống chế độ thƣƣ̣c
dân phát triển mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng . Qua nhƣƣ̃ng phong trào

này, rất nhiều cán bộ của trung ƣơng và địa phƣơng đã đƣợc đào tạo

, ren

luyện có xuất thân tƣƣ̀ lao động và công nhân .
Hòa bình lập lại , đặc biệt là sau ngày 13-5-1955, Hải Phòng đã nhanh
chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội , phát triển kinh tế . Làm kinh tế bƣớc đầu ,
“Sóng Duyên Hải” dâng cao trên trận địa công nghiệp , tổ đá nhỏ ca A - nhà
máy xi măng xây dựng tổ lao động xã hội chủ ng hĩa. Đầu những năm 80, khi
quản lí nông nghiệp còn nhiều lúng túng , nông nghiệp Hải Phòng lại là một
nơi đi đầu trong việc tháo gỡ khó khăn . Do vậy , nông nghiệp Hải Phòng đã
tiến lên một bƣớc mới đáng k ể.
Nhƣ vậy , Hải Phò ng là một thành phố nhanh nhạy với cái mới , giàu
truyền thống đấu tran h, “Trung dũng , quyết thắng” .

Vị trí địa lí của vùng đất đã tạo cho Hải Phòng trở thành một đầu mối
giao thông quan trọng , một trung tâm công nghiệp , thƣơng mại và là một
Cảng biển có tiếng tăm ở Viễn Đông .
Bên cạnh lịch sƣƣ vẻ vang , hào hùng đó , con ngƣời đóng vai trò rất quan
trọng. “Bản chất con ngƣời là tổ ng hòa các mối quan hệ xã hội’, tƣƣ̀ vịtrícon
ngƣời làm nên lịch sử và là tr ung tâm của lịch sƣƣ , chúng ta thử xem xét nhiều
khía cạnh con ngƣời Hải Phòng , thành viên của cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Con ngƣời Hải Phòng có nhƣƣ̃ng đặc tính chung của con ngƣời Việt Nam, do
tác động củ a thiên nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể của một vùng
nên có nhƣƣ̃ng nét riêng . Cái chung và cái riêng đó thống nhất một cách biện
chƣƣ́ng với nhau.

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

12


Nói đến con ngƣời , ngƣời ta thấy con ngƣời nằm trong ba tiềm năng về
đất đai, ngành nghề và lao đ ộng. Lao động ở Hải Phòng l à lao động có trí tuệ ,

có khoa học, có kĩ thuật và rất quý giá. Lƣƣ̣c lƣợng lao động xa xƣa ở đất này
phổ biến là trồng trọt , chăn nuôi và săn bắt . Sau hàng trăm nă m ren luyện
trong nền kinh tế khá tổng hợp , nhiều mặt chuyên dùng , ba dạng lao động
trên vẫn là nhƣƣ̃ng lƣƣ̣c lƣợng chủ yếu của thành phố Cảng .
Hải Phòng có 80 vạn dân sống ở nông thôn . Đây là lực lƣợng lao động
khá hùng hậu . Cùng với khoa học kĩ thuật trong nông nghiệp , con ngƣời bớt
lam lũ hơn, đấu tranh với thiên nhiên miền biển có hiệu quả hơn

, đóng góp


nhiều mặt cho xã hội ...
Bên cạnh đó lao động tríóc , đại học, trên đại học có trên một vạn ngƣời
so với số lƣợng cũ thời Pháp thuộc . Lƣƣ̣c lƣợng lao động thủ công nghiệp đƣợc
phát triển nhảy vọt làm đủ các mặt hàng cơ khí tiêu dùng , xuất khẩu phục vụ
nông nghiệp . Sƣƣ́c mạnh tổng hợp của lƣƣ̣c lƣợng lao động t hể hiện rõ đã dùng
trí tuệ , tài năng , kĩ thuật, truyền thống tay nghề giải quyết đƣợc nhiều khó

khăn. Vậy mà có lúc tƣởng chừng không thể khắc phục nổi trong cải tạo , xây
dƣƣ̣ng, chống thiên tai , đối phó với chiến tranh , khôi phục kinh tế sau chiến
tranh, trong tiếp thu k ĩ thuật mới của thời đại .
Khi nói đến con ngƣời Hải Phòng , trƣớc hết phải nói tới đức tính d
ũng cảm, có dũng mà lại thông minh , đa mƣu sáng tạo . Ngƣời Hải Phòng
chống hàng loạt kẻ thù đầu sỏ , chống thiên tai , bão lũ, chống cƣớp biển , tàu
ô… góp phần xây dƣƣ̣ng và bảo vệ đất nƣớc .
“Có thể tóm lại trong đấu tranh với thiên nhiên

, trong sản xuất , đấu

tranh dân tộc và xã hội , qua tranh luận lâu d ài đã ren luyện nên con ngƣời ở
đây có đức tính hăng hái , tháo vát , dũng cảm , năng động , sáng tạo , nhạy bén
và ứng phó nhanh vói tình hình mới , có tinh thần tập thể của nhữ ng ngƣời làm
công nghiệp , khi cần biết dƣƣ̣a vào nhau để tiến công trong sản xuất và chiến

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

13


đấu… Lí tƣởng lòng tin và nhân sinh quan cách mạng ; trí tuệ và năng lực ,

tấm lòng và trách nhiệm là những vấn đề thời sự gắn bó hữu cơ đang thử
thách quyết liệt ngƣời Hải Phò ng trong lúc đổi mới tƣ duy , đổi mới phong
cách , lấy dân làm gốc , xây dƣƣ̣ng con ngƣời mới ”[11, tr 20].
Đổi mới tƣ duy nhất là tƣ duy kinh tế , xã hội chuyển động , với bản
lĩnh vốn có, con ngƣời Hải Phòng sẽ bắt nhanh tốc độ , theo kịp tình hình ,
phát huy thế mạnh , hạn chế dần nhƣƣ̃ng yếu kém . Chắc chắn họ sẽ làm nên
những kì tích trong việc xây dựng thành phố xã hội chủ nghĩa để xứng đáng
với lịch sử và vị thế của nó .
1.3. Đặc trƣng văn hóa biển Hải Phòng :
1.3.1. Nhƣƣ̃ng vấn đề về văn hóa biển :
Theo quan niệm truyền thống , Việt Nam đƣợc phân thành “Tam sơn ,
tƣƣ́ hải, nhất phần điền” . Nghĩa là có ba phần núi , bốn phần biển và một phần
ruộng. Nƣớc ta lại giàu tài nguyên thiên nhiên, có “Rừng vàng, biển bạc”. “Và
cũng là một trong các quốc gia có bờ biển dài , nối tƣƣ̀ Móng Cái (phía bắc ) tới
Hà Tiên (phía nam), bao bọc ba mặt phía đông , nam và một phần phía tây
đất nƣớc, dài khoản g trên 3000 km. Theo Công ƣớc quốc tế về Luật biển
(1992,1994), thì Việt Nam có chủ quyền trên một diện tích khoảng
2

1.000.000km ”. [32, tr 9]. Nhƣ vậy , nếu xét cả về diện tích và nguồn tài
nguyên… thìbiển giƣƣ̃ vai trò quan trọ ng trong sƣƣ̣ nghiệp xây dƣƣ̣ng và bảo vệ
đất nƣớc cũng nhƣ trong sƣƣ̣ nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc.

Đối với Việt Nam , cƣ dân và truyền thống lịch sƣƣ là nhƣƣ̃ng nhân tố
quan trọng nhất tạo nên diện mạo văn h oá biển. Tƣƣ̀ hàng vạn năm nay , môi
trƣờng sống quen thuộc của cƣ dân biển Việt Nam là môi trƣờng sông nƣớc ,
với một hệ thống sông ngòi dày đặc và một hệ thống biển bao quanh . Chính
môi trƣờng sông nƣớc này đã để lại nhƣƣ̃ng dấu ấ n sâu đậm trong văn h oá
của Việt Nam.


Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

14


Các nhà nghiên cứu , các nhà khảo cổ học nƣớc ta đã phát hiện các di
chỉ khảo cổ học nằm dọc bờ biển và hải đảo . Đó là các văn h oá khảo cổ nhƣ :
Hạ Long (Quảng Ninh ), Hoa Lộc (Thanh Hóa), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi ),
Tràng Kênh (Hải Phòng )… Mỗi một di chỉkhảo cổ nhƣ vậy mang nhƣƣ̃ng nét
đặc sắc của vùng biển Việt Nam . Và ở đây cũng minh chứng cho sự hiện diện
của cƣ dân biển và hải đảo . Đặc biệt là di chỉ khảo cổ Tràng Kênh (Hải
Phòng). Đây là một trong các di chỉhiếm hoi thuộc thời đại đồng thau sơ kìở
ven biển đông bắc nƣớc ta . Ngƣời Tràng Kênh điển hình cho giao lƣu giƣƣ̃a
văn hoá biển và nội địa . Họ vừa làm nông nghiệp v ừa đánh bắt cá biển và đi
lại trên biển .
Trong quá trình phát triển của mình , ngƣời Việt đã “Lấn biển” do vậy
cái “Chất biển” trong văn h oá của họ ngày càng tăng . Với truyền thống lịch
sƣƣ và thƣƣ̣c tế khai thác biển hiệ n nay của ngƣời Việt , các nhà nghiên cứu đã
chia ngƣời Việt ở dọc duyên hải tƣƣ̀ Móng Cái đến Hà Tiên thành hai bộ phận .

Bộ phận thƣƣ́ nhất là ngƣời Việt tƣƣ̀ Móng Cái đến Nghệ Tĩnh . Yếu tố
biển trong văn h oá truyền thống của họ chƣa thật đậm nét . Việc khai thác tài
nguyên biển chƣa mạnh . Ngƣời ta thấy có sƣƣ̣ kết hợp giƣƣ̃a nông nghiệp và
ngƣ nghiệp trong tƣƣ̀ng cộng đồng dân cƣ . Tất cả nhƣƣ̃ng đặc điểm trên có thể là
do vùng biển vịnh Bắc bộ là biển nông , biển nội địa do vậy cá không có

nhiều . Hoặc nguồn gốc của cƣ dân ven biển ở đây chủ yếu là dân nông
nghiệp… Chính điều này đã tạo nên sƣƣ̣ khác biệt đối với cƣ dân ven biển
của ngƣời Việt tƣƣ̀ Nghệ Tĩnh trở vào nam. Đây chính là bộ phận thƣƣ́ hai .
Truyền thống biển trong văn hóa của ngƣời Việt ở bộ phận thƣƣ́ hai đậm

nét hơn so với bộ phận thứ nhất . Hơn nƣƣ̃a , các làng ngƣ nghiệp ở vùng này
cũng thuần nhất hơn . Việc khai thác thủy s ản chiếm tỉ lệ cao hơn so với nông
nghiệp . Có thể là do vùng biển nơi đây sâu hơn , có hải lƣu nóng và lạnh đi qua
nên có nhiều hải sản . Ngoài ra , ngƣời Việt nơi đây đã tiếp thu truyền

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

15


thống khai thác biển của ngƣời Chăm và v ùng biển nơi đây gần nhƣ là
vùng độc chiếm của ngƣời Việt .
Nhƣ vậy , cƣ dân đồng bằng Bắc bộ và Nam bộ là cƣ dân nông nghiệp
kết hợp với khai thác nguồn thủy sản . Còn cƣ dân Duyên Hải miền T rung lại
khai thác mạnh nguồn lợ i thủy sản trên biển . Có thể nhận thấy rằng , nhƣƣ̃ng

điều kiện về địa lí , đặc điểm kinh tế biển khác nhau đã tạo nên nhƣƣ̃ng yếu
tố văn hoá biển khác nhau của hai bộ phận kể trên .
Do truyền thống dân cƣ và định hƣớng khai th ác đa dạng nên Việt Nam

xƣa kia cũng nhƣ ngày nay không có một nền văn h oá biển điển hình . Mà ở
đây chỉlà “Nhƣƣ̃ng yếu tố văn h oá biển đan xen với văn h oá nông nghiệp tạo
nên một sắc diện văn h oá đặc thù của cƣ dân ven biển” . [32, tr 69]. Tất cả
góp phần làm phong phú và đa dạng hơn văn h oá Việt Nam.
1.3.2. Văn hoá biển Hải Phòng tƣƣ̀ truyền thống đến hiện đại :
Vùng biển Hải Phòng là một bộ phận thuộc tây bắc vịnh Bắc bộ . Các
đặc điểm cấu tr úc địa hình đáy biển và đặc điểm hải văn biển Hải Phòng gắn
liền với nhƣƣ̃ng đặc điểm chung của vịnh Bắc bộ và biển Đông . Chính vì v ậy,
văn hoá biển Hải Phòng cũng mang những nét văn h oá của ngƣời Việt từ
Móng Cái đến Nghệ Tĩnh .

Hải Phòng là vùng đất có bề dày lịch sử với những sự kiện, những nhân
vật, những thời kì phát triển rất sinh động và độc đáo. Đây là vùng đất mà
trong suốt tiến trình lịch sử của mình vừa mang những nét cổ xƣa vừa trẻ
trung sôi động. Là một vùng đất cửa sông, ven biển, Hải Phòng có sự giao
thoa rất đậm nét giữa văn hoá nông nghiệp với các yếu tố văn hoá biển. Hải
Phòng là một “Đầu mối giao thông”, là một “Cửa chính ra biển” của quốc gia
trên địa bàn Bắc bộ nên rất giàu có về văn hoá.
Đảo Cát Bà là một hòn đảo lớn và đẹp nhất trong quần thể Hạ Long .
Trong đó có di chỉ nổi tiếng thế giới Cái Beo, phản ánh rõ nét đời sống lao

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

16


động sáng tạo của ngƣời Việt cổ xƣa. Đó là nền văn hoá Hạ Long mang đậm
nét biển khơi.
Thuỷ Nguyên, vùng đất cổ xƣa, nay vẫn còn lƣu giữ nhiều di tích văn
hoá độc đáo. Di chỉ Tràng Kênh - một công xƣởng chế tác đồ đá có quy mô
lớn và đạt trình độ kĩ thuật tinh xảo bậc nhất của ngƣời xƣa. Mộ cổ Việt Khê
với những đồ đồng đẹp và tinh xảo. Đặc biệt là tiếng hát Đúm ở Th ủy
Nguyên đã cuốn hút nam thanh nƣƣ̃ tú khắp nơi đua nhau về đây trẩy hội . Tiếp
đến là tiếng hát ca trù Đông Môn nổi tiếng thu hút nghệ nhân các tỉnh về lễ
tiên sƣ , tiên thánh . Vì có thể nơi đây có truyền thống lâu đời và là một nơi
gốc nghề của miền Bắc .
Vĩnh Bảo, một vùng đất vẫn còn bảo lƣu nhiều nét của nông thôn cổ
xƣa với những di sản văn hoá đầy ấn tƣợng nhƣ: Đền thờ Nguyễn Bỉnh
Khiêm – danh nhân văn hoá của đất nƣớc; làng nghề tạc tƣợng Bảo Hà đậm
nét bản sắc dân gian; một Cổ Am đất học khoa bảng mà nay vẫn tiếp tục đƣợc
nhƣ xƣa…

Ngoài ra phải kể tới Đồ Sơn - một khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng, mang
nhiều nét văn hoá biển độc đáo của Hải Phòng. Đây là nơi có nhiều di tích,
nhiều truyền thuyết tín ngƣỡng đậm màu sắc địa phƣơng. Và chọi trâu là một
lễ hội đặc sắc của cƣ dân biển Hải Phòng.
Đặc điểm tổ chức xã hội của cƣ dân ven biển Hải Phòng: Cƣ dân ven
biển Hải Phòng có thành phần và nguồn gốc khá phức tạp, do vậy cơ cấu tổ chức
làng xã cũng rất đa dạng. Phần lớn ngƣ dân ven biển sinh sống, định cƣ trên đất
liền thành các thôn làng, một hình thức tổ chức xã hội cơ bản nhƣ phần lớn cƣ
dân nông nghiệp khác. Cƣ dân các làng vẫn còn lƣu giữ hồi ức là họ từ một nơi
nào đó tới đây lập cƣ ở đây, có ngƣời từ biển vào nhƣng cũng có gia đình, dòng
họ lại từ Hải Dƣơng hay các tỉnh khác trong đồng bằng đi ra. Nói chung, đối với
họ nơi đang sống là nơi đất mới khai khẩn. Bên cạnh

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

17


đó, kết cấu nghề nghiệp của cƣ dân trong làng cũng rất đa dạng, họ vừa đánh
bắt cá vừa làm nông nghiệp, nghề muối, buôn bán…Tuy hình thức bề ngoài
làng ngƣ dân có một chút khác biệt so với các làng của nông dân, nhƣng cách
thức phân chia thành xóm, phe giáp, phƣờng, các công trình kiến trúc công
cộng cũng giống nhƣ ở một làng nông nghiệp có đình, đền… Cƣ dân làm
nghề biển Đồ Sơn tập trung sinh sống ở bát vạn chài : Vạn Lê , Vạn Bún , Vạn
Ngang, Vạn Tác , Vạn Hoa, Vạn Hƣơng , Vạn Thủ . Tám vạn chài đó nay
đƣợc chia thành các phƣờng : Ngọc Hải, Vạn Hƣơng .
Ngoài ra, chúng ta còn thấy trong các làng của ngƣ dân vẫn sử dụng
Hƣơng ƣớc nhƣ một loại luật tục của làng xã.
Về tín ngƣỡng, tôn giáo: Đối với ngƣ dân, tín ngƣỡng tôn giáo chiếm
vị trí rất quan trọng trong đời sống tinh thần. Có lẽ bởi điều kiện sống và lao

động của họ trong môi trƣờng biển cả vừa giàu có, ƣu ái con ngƣời vừa thách
thức, đe doạ tới tính mạng của họ. Do vậy, họ luôn có niềm tin vào lực lƣợng
siêu nhiên trƣớc biển cả bao la, hùng vĩ.
Ngƣời dân biển Hải Phòng cũng giống nhƣ ngƣời Việt đồng bằng Bắc
bộ, có tín ngƣỡng dân gian nhƣ họ thờ cúng ông bà, tổ tiên. Họ lập bàn thờ
nơi trang trọng nhất trong nhà và tiến hành cúng lễ vào dịp giỗ và các ngày lễ
trong năm. Ngoài ra, họ còn thờ Thần thánh và Thành hoàng làng, thờ Thuỷ
thần… Nhƣ ở Đền Nghe - Đồ Sơn thờ Thần biển là Thần Điểm Tƣớc đồng
thời cũng là vị Thành Hoàng chung của cƣ dân cả vùng Đồ Sơn. Và Đồ Sơn
còn nhiều địa điểm thờ cúng nhƣ Đình Ngọc, đền Vừng, đền Dáu…
Bên cạnh đó , các tín ngƣỡng tôn giáo nhƣ đạo Gia Tô , đạo Tin lành ,
đạo Hồi, đạo Phật… du nhập vào Hải Phòng phát triển mạnh mẽ . Đạo Gia Tô
vào đầu tiên ở huyện Tiên Minh (Tiên Lãng ) hai, ba trăm năm trƣớc rồi phát
triển ra các vùng ven sông . Nội thành có các nhà thờ lớn , nhỏ… khác nhau .
Đặc biệt đạo Phậ t là tôn giáo thâm nhập ở Đồ Sơn sâu sắc nhất . Một số nhà

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

18


nghiên cƣƣ́u cho rằng Phật giáo du nhập vào Việt Nam tƣƣ̀ Ấn Độ bằng đƣờng
biển qua Đồ Sơn. Chùa Hang Đồ Sơn tƣơng truyền là nơi nhà sƣ ở Thiên Trúc
đến trụ trì từ th ế kỉ III (trƣớc công nguyên ). Hải Phòng còn lƣu lại nhiều chùa
đƣợc xếp hạng di tích lịch sƣƣ nhƣ chùa Dƣ Hàng , chùa Đông Khê , chùa Vẽ…

Nhƣƣ̃ng năm gần đây , hệ thống chùa chiền , tƣợng tháp ở Hải Phòng tƣƣ̀ng
bƣớc đƣợc chú trọng xây dƣƣ̣ng .
Về tri thƣƣ́c, phong tục tập quán có liên quan đến nghề biển : Cƣ dân ven
biển Hải Phòng đã sống và lao động cần cù trên mảnh đất quê hƣơng . Họ đã


khai thác mọi thế mạnh của vùng đất quê mình để

xây dƣƣ̣ng cuộc số ng tƣƣ̀

trong nhƣƣ̃ng công việc bình thƣờng giản dịcủa nghề nông , nghề đánh bắt cá
hoặc chăn nuôi hải sản . Mỗi khi ra khơi , ngƣ dân thƣờng có sƣƣ̣ chuẩn bịrất chu
đáo nhƣ xem thời tiết , cầu khấn Lão Đảo thần vƣơng và Hà bá th ủy quan,

ông sông bà lạch để mọi sƣƣ̣ bình an khi đi biển . Họ còn có những hành động
kiêng kịđể mong gặp nhƣƣ̃ng điều may mắn , tránh mọi sự rủi ro . Nhƣ ở Đồ
Sơn trƣớc mỗi mùa đi biển khoảng thời gian sau ngày rằm , ngƣ dân thƣờng
làm lễ tại nhà , sau đó ra lễ tại đình Nghe cầu khấn thành hoàng phù hộ mọi sƣƣ̣

yên ấm trong gia đình và có nhƣƣ̃ng mùa cá bội thu

. Khi ra khơi , ngƣ dân

thƣờng cập bến vào Miếu Cụ trên đảo Dáu để vái Đƣƣ́c Nam Hải thần vƣơng –
thần bảo trợ cho nhƣƣ̃ng ngƣời đi biển . Điều này có tác động tâm lírất tốt đối với
ngƣời dân chài Đồ Sơn . Họ thƣờng không ra biển vào những ngày lẻ hoặc

nhƣƣ̃ng ngày sát chủ vìhọ quan niệm vào nhƣƣ̃ng ngày ấy không gặp rủi ro thì
sản lƣợng cá cũng ít . Đặc biệt , ngƣời đi biển rất kiêng kịra ngõ gặp đàn bà
con gái , nhất là phụ nƣƣ̃ có mang . Để chuẩn bịcho chuyến ra khơi , phụ nữ
mang thai không đƣợc mang lƣới xuống thuyền , không tiễn chân, không đi
qua mũi thuyền… Nếu chẳng may phạm phải nhƣƣ̃ng điều đó thìhọ phải đốt
vía, giải vía bằng cách đốt lá dƣƣ́a để át vía độc . Ngƣời dân đi biển còn kiêng
không gặp nhƣƣ̃ng ngƣời có tang . Nhƣƣ̃ng ngƣời đang chịu tang không đƣợc


Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

19


bƣớc xuống thuyền của họ . Thậm chí, nhƣƣ̃ng ngƣời đi dƣƣ̣ đám tang về , phải

tắm rƣƣa , thay quần áo sạch sẽ mới đƣợc xuống thuyền…Tất cả đều thể hiện
phong tục tập quán của cƣ dân vùng biển Hải Phòng .
Nhƣƣ̃ng tri th ức dân gian của ngƣ dân về thời tiết , về biển rất phong phú
và sinh động . Họ có thể xem thời tiết dựa vào các hiện tƣợng tự nhiên . Để biết
trƣớc đƣợc nhƣƣ̃ng cơn bão sắp tới , ngƣời ta thƣờng nhìn vào các hiện tƣợng
của mặt trời: nếu mặt trời khi lặn có tua hình dẻ quạt , hoặc gió nam thổi , mặt
trời có mống ở đằng đông , hay ráng ở đằng tây đỏ rƣƣ̣c , vệt xanh chạy ngang

qua mặt trời đỏ (then cài) thì có nghĩa biển sắp có động . Họ cũng nhì n biển
để có thể đoán định đƣợc thời tiết . Chẳng hạn : để biết trời có dông mƣa hay
không, ngƣời ta thƣờng xem bọt nƣớc biển . Nếu bọt biển màu trắng thìkhí
hậu bình thƣờng . Còn nếu bọt biển có màu xám , nƣớc biển sủi bọt, kiến bò ra
thì có nghĩa trời sẽ nổi dông , dông mƣa sắp kéo đến . Ngoài ra, nếu thấy nƣớc

biển đang trong xanh bỗng thấy đục ở dƣới chân là sắp có bão

, sóng biển

cuộn hơn bình thƣờng , nƣớc vẩn đục , kéo lên thấy có n hiều bùn đất lẫn
rong rêu thì cũng báo trƣớc ngày biển động …
Nói chung, vùng biển của Hải Phòng hiếm thấy có các bài hò ve đi biển
nhƣ một số vùng biển ở miền Trung mà ở đây chỉcó sƣƣ̣ phong phú của truyện
kể dân gian, đời sống tâm linh với các hình thƣƣ́c tín ngƣỡng đa dạng .

Về lễ hội: Hải Phòng có rất nhiều lễ hội mang nét văn hóa truyền thống
của dân tộc đồng thời cũng thể hiện nét văn hóa đặc sắc của vùng biển xứ Đông.
Đó là lễ hội Đền Nghe , lễ hội chọi trâu… tôn vinh ngƣời anh hùng dân tộc và
vịThành hoàng làng . Đặc biệt, hiếm có vùng biển nào lại có một lễ hội đặc sắc
mang tính chất toàn quốc nhƣ lễ hội chọi trâu . Ngoài ra còn có hội h át Đúm,
hội ca trù Đông Môn, hội bơi thuyền Cát Hải… góp phần làm giàu thêm kho
tàng văn h oá dân gian của cả dân tộc . Hội he, đình đám phát triển mạnh cả về
số lƣợng và chất lƣợng nhƣ rƣớc thần , múa sƣ tử , chọi gà , hát cheo…,

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

20


sau này thêm cải lƣơng Nam bộ , leo cầu phao… Hội Tây thìcó rƣớc thánh ,
có ken đồng, xiếc…, sân khấu Tây có các loại cổ điển , câm bi, hài kịch… Tất
cả nhƣƣ̃ng cái đó đều thể hiện văn hoá phong phú, đa dạng của Hải Phòng..
Hải Phòng có số lƣợng ngƣời Hoa du nhập vào đây rất nhiều . Vì vậy họ
cũng mang theo những nét vă n hoá của mình . Nơi đây có hội quán Hoa Kiều ,
có trƣờng dạy chữ Hán Kiều Tiểu , Kiều Trung , có câu lạc bộ thƣơng mại ,

kiến trúc lợp ngói máng .
Đến thời cận hiện đại , Hải Phòng có sự ti ếp xúc giữa nền văn hoá
truyền thống và trào lƣu văn h oá phƣơng Tây. Văn hoá phƣơng Tây phát triển
mạnh ở nội thành và ngày càng mở rộng giao tiếp . Đầu tiên là tín ngƣỡng tôn
giáo nhƣ đạo Gia Tô , đạo Tin lành , đạo Hồi… du nhập vào Hải Phòng phát
triển mạnh mẽ . Nhiều câu lạc bộ Hội âm nhạc , câu lạc bộ thể thao nhƣ bóng
đá, bóng bàn, quần vợt , bơi lội… thu hút đƣợc giới t rẻ tập luyện phù hợp với

tốc độ của xã hội công nghiệp . Các phong trào này từng có tiếng vang và

giành đƣợc nhiều giải thƣởng lớn trong nƣớc và quốc tế .
Hàng loạt kĩ thuật hiện đại ra đời từ sản xuất công nghiệp
dịch vụ đến nay đã thành truyền thống . Do ảnh hƣởng của văn h
Tây nên kiến trúc đô thịmang ánh sáng nhập chủ yếu tƣƣ̀ nƣớc Pháp
thuật xây dƣƣ̣ng công viên , trồng tỉa cỏ hoa đƣợc phổ biến khắp nơi
là cây hoa phƣợng đã trở thành một biểu trƣng của thành phố cảng mà âm
hƣởng của nó còn vang mãi trong bài ca “Thành phố Hoa phƣợng đỏ” .

Ngoài ra , lĩnh vực báo chí ở đây cũng là nơi có tiếng với nhiều tạp chí
trong nƣớc và quốc tế. Bên cạnh sách báo tuyên truyền văn h oá phƣơng
Tây , đế quốc mị ngu dân có sách báo tuyên truyền cách mạng , sách văn nghệ
dân gian, văn học phát triển với các tác phẩm nổi tiếng nhƣ “Bỉ Vỏ” , hay
“Cƣƣa biển” của Nguyên Hồng .

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

21


Với phƣơng châm phát huy truyền thống , xây dƣƣ̣ng nền văn h oá xã hội
chủ nghĩa , phong trào văn h oá văn nghệ trong quần chúng phát triển mạnh . Tƣƣ̀
gốc với chi hội văn nghệ, chi hội địa phƣơng và là cơ sở của Hội liên hiệp

văn học nghệ thuật thành phố có tiếng nói là tạp chí “Cửa biển” . Một số tác
giả là công nhân , lao động . Họ đã có nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có
giá trị, ngày càng đổi mới tƣ duy , khám phá cuộc sống c ủa giai cấp công
nhân và con ngƣời đất cảng .
Ngoài ra nếp sống văn minh lịch sự đƣợc phát động đã đem đến những
tiến bộ đáng mƣƣ̀ng trong gia đình và xã hội .
Con ngƣời đất cảng rất thân thiện , mến khách và là nhƣƣ̃ng ngƣời “Ăn

sóng nói gió” . Họ cũng biết “Ăn chơi” . Cách ăn mặc của ngƣời dân nơi đây
vẫn giƣƣ̃ bản sắc riêng , dù có lúc hòa đồng nhƣng khi giao tiếp thì phân biệt rõ

tầng lớp, địa phƣơng, dân tộc. Mặc thìphải đúng mốt và “sành điệu”. Còn các
món ăn thì mang những nét đặc thù, đặc sắc của miền biển với đa dạng hải
sản. Đặc biệt là món bánh đa cua của Hải Phòng rất thơm ngon và có hƣơng
vị riêng . Ở Hải Phòng , ngoài các món ăn hải sản còn có thêm các món ă n
Tàu với đủ sơn hào hải vị . Ăn Tây thìkhông nhiều món nhƣng rƣợu quý ,
khách sạn bàn ghế lại rất sang trọng .
Tuy nhiên , trên mặt trận văn h oá vẫn còn nhiều biểu hiện tiêu cƣƣ̣c , tệ
nạn xã hội phát triển nghiêm trọng. Nhƣng dù sao đó vẫn là nhƣƣ̃ng hiện tƣợng
nhất thời . Nếu nhìn về quá khƣƣ́ , nhìn về bản chất và hiện tƣợng , nhìn về lí

luận và thƣƣ̣c tiễn , nhìn về nhịp sống phù hợp với văn minh thời đại

, Hải

Phòng có nhiều tiền đề và điều kiện để trở thành một trung tâm văn h oá lớn ở
miền biển . Sƣƣ̣ vận động nội tại chủ quan của nó đảm bảo hƣƣ́a hẹn và quyết
định thành công . Tuy nhiên quá trình đó không thể loại trƣƣ̀ nghiêm khắc
trong cuộc đấu tranh với các miền văn h oá khác.

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

22


Tiểu kết
Hải Phòng là một thành phố ven biển , nằm phía Đông miền Duyên hải
Bắc Bộ, có vị trí giao lƣu thuận lợi với các tỉnh trong nƣớc và quốc tế thông qua

hệ thống giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng biển, đƣờng sông và đƣờng
hàng không. Biển, bờ biển và hải đảo đã tạo nên cảnh quan thiên nhiên đặc sắc
của thành phố Duyên Hải . Đây cũng là một thế mạnh tiềm năng của nền kinh tế
địa ph ƣơng và phát triển văn h oá. Nhiều đình chùa , đền miếu thờ các tiên công
, các danh tƣớng , danh thần…ở khắp nơi trong thành phố . Nhƣ
vậy, Hải Phòng là một thành phố nhanh nhạy với cái mới , giàu truyền thống đấu
tranh, “Trung dũng , quyết thắng” . Trong sản xuất , đấu tranh dân tộc và xã hội,
con ngƣời ở đây có đƣƣ́c tính hăng hái , tháo vát , dũng cảm , năng động , sáng
tạo , nhạy bén và ứng phó nhanh vói tình hình mới , có tinh thần tập thể

của những ngƣời làm công nghiệp . Và Hải Phòn g là một thành phố có nhiều
tiền đề và điều kiện để trở thành một trung tâm văn h oá lớn ở miền biển . Đây
là một trong những nơi phát triển văn h oá sớm nhất ở nƣớc ta . Vùng biển đã
để lại trong kho tàng văn h oá dân tộc nƣớc ta nhƣƣ̃ng di sản vô cùng quý giá .

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

23


CHƢƠNG 2

VĂN HỌC DÂN GIAN TRONG CÁC LỄ HỘI
TIÊU BIỂU CỦA HẢI PHÒNG
2.1. Mối quan hệ giƣƣ̃a văn h oá dân gian và văn học dân gian :
2.1.1. Tìm hiểu một số thuật ngữ :
Tƣƣ̀ lâu, văn hoá dân gian đã đƣợc giới khoa học coi là một nghệ thuật .
Các nhà nghiên cứu đã có nhiều quan niệm khác nhau về văn h oá dân gian và
văn học dân gian . Một nhà khoa học ngƣời Anh W .J.Thoms lần đầu tiên đã sƣƣ


dụng thuật ngữ folklore trong b

ài báo Folklore đăng trên tạp chí

The

Atheneum số 982 ngày 22/8/1946 xuất bản tại Luân Đôn . Ông đã cho rằng :
“Folklore dùng để chỉnhƣƣ̃ng di tích của nền văn h oá vật chất và chủ yếu là
nhƣƣ̃ng di tích của nền văn h oá tinh thần c ủa nhân dân có liên quan với nền
văn hoá vật chất nhƣ phong tục , đạo đƣƣ́c, việc cúng tế, dị đoan, ca dao, cách
ngôn… của các thời trƣớc” .
Theo giáo sƣ Đinh Gia Khánh thì thuật ngƣƣ̃ “ Văn hoá dân gian” có
hai ý nghĩa tƣơng đƣơng vớ i hai thuật ngƣƣ̃ quốc tế: folk culture và folklore .
Khi tƣơng ƣƣ́ng với folk culture , thuật ngƣƣ̃ “Văn hoá dân gian” chỉtoàn

bộ văn hoá vật chất và tinh thần của dân chúng , nó liên quan tới mọi lĩnh vƣƣ̣c
của đời sống dân chúng . Nhƣ vậy, văn hoá dân gian sẽ đƣợc hiểu theo ý nghĩa

rộng. Còn khi tƣơng ứng với folklore thì ý nghĩa của nó lại hẹp hơn và chỉ
một mặt nào đó, hoặc một bộ phận nào đó của folk culture . Ở đây văn hoá dân

gian chính là sƣƣ̣ thể hiện của folk culture trên một bình diệ n riêng : bình diện
thẩm mĩ.
Nhƣ vậy , khi tìm hiểu đến tính chất thẩm mĩcủa nhƣƣ̃ng hiện tƣợng
trong folk culture , ngƣời ta thƣờng đề cập tới văn nghệ dân gian và nhƣƣ̃ng
nguồn gốc sâu xa của nó t rong văn hoá vật chất và ti nh thần của dân chúng .

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

24



Nghĩa là ngƣời ta sẽ đề cập tới tất cả các hiện tƣợng có liên quan chặt chẽ với
nhau gọi chung là folklore . Hiện nay , giới nghiên cƣƣ́u và bạn đọc nƣớc ta

quen dùng thuật ngƣƣ̃ văn h oá dân gian có nội dung tƣơng ƣƣ́ng với thuật
ngƣƣ̃ quốc tế F olklore. Và nhƣ vậy , thuật ngƣƣ̃ văn h oá dân gian sẽ đƣợc
hiểu theo cả nghĩa rộng, nghĩa hẹp .
Theo giáo sƣ Đinh Gia Khánh : “Văn hoá dân gian đƣợc quan niệm r
ất khác nhau trong giới nghiên cứu văn h oá dân gian quốc tế . Theo chúng tôi
, văn hoá dân gian bao gồm toàn bộ văn h oá tinh thần của nhân dân đƣợc tiếp
cận dƣới giác độ thẩm mĩ. Nhƣ vậy, văn hoá dân gian bao gồm chủ yếu là
văn nghệ dân gian đƣợc nhận thƣƣ́c trong mối quan hệ hƣƣ̃u cơ và nguyên hợp
với toàn bộ hoạt động thực tiễn của nhân dân và mặt khác lại bao gồm cả mọi
hiện tƣợng trong hoạt động thƣƣ̣c tiễn này mà còn chƣƣ́a đƣƣ̣ng cảm xúc thẩm
mĩ”.
Còn văn học dân gian theo giáo sƣ Chu Xuân Diên đƣợc hiểu là “ Sáng
tác tập thể , truyền miệng của nhân dân lao động , ra đời tƣƣ̀ thời kìcông xã
nguyên thủy , trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội có
giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại hiện nay” .
Hay giáo sƣ Hoàng Tiến Tựu cho rằng : “Văn học dân gian là một bộ
phận của sáng tác dân gian , là nghệ thuật ngôn từ , sinh thành , phát triển
trong đời sống của nhân dân the o phƣơng thƣƣ́c truyền miệng và tập thể” .
2.1.2. Mối quan hệ giƣƣ̃a văn hoá dân gian và văn học dân gian :
Văn hoá dân gian là một loại hình nghệ thuật nguyên hợp
nguyên hợp đó đƣợc thể hiện trên ba bình diện chủ yếu

. Tính

: một l à, trong mối


quan hệ rất chặt chẽ giƣƣ̃a nghệ thuật và thƣƣ̣c tiễn trong quá trình sáng tạo văn
hoá dân gian. Hai là, trong mối quan hệ giƣƣ̃a các thành tƣƣ̣u thẩm mĩkhác nhau

của những thời đại khác nhau và của những địa phƣơn

g khác nhau . Ba là,

trong mối quan hệ giƣƣ̃a các thành tố của folklore trong việc tạo nên giá trị

Nguyễn ThịHà Anh – Cao học Văn K51

25


×