Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

Nông thôn và thành thị trong sáng tác của tản đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.94 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGÔ THỊ TUYẾT

NÔNG THÔN VÀ THÀNH THỊ
TRONG SÁNG TÁC CỦA TẢN ĐÀ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGÔ THỊ TUYẾT

NÔNG THÔN VÀ THÀNH THỊ
TRONG SÁNG TÁC CỦA TẢN ĐÀ

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60220121

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Hải Yến

Hà Nội – 2014


2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Ngô Thị Tuyết

3


Lời cảm ơn
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới TS. Trần Thị
Hải Yến, người cô đã định hướng và luôn quan tâm, tận tình hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong khoa văn học, các
phòng, khoa của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, gia đình, bạn
bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Học viên

Ngô Thị Tuyết

4



M cl c
MỞ Đ U……………………………………………………………………..7
1.

Lí do chọn đề tài……………………………………………………7

2.

Lịch sử vấn đề………………………………………………………8

2.1. Lịch sử nghiên cứu, đánh giá Tản Đà…………………………...8
2.2. Lịch sử sưu tầm tác phẩm Tản Đà……………………………...10
3.

M c đích nghiên cứu……………………………………………...11

4.

Phạm vi nghiên cứu……………………………………………….11

5.

Phương pháp nghiên cứu…………………………………………11

6.

Đóng góp của đề tài……………………………………………….11

7.


Cấu trúc của luận văn…………………………………………….11

NỘI UNG
Chương 1: KHÔNG GIAN XÃ HỘI TRONG SÁNG TÁC VĂN
HỌC VIỆT NAM TRƯỚC TẢN ĐÀ……………………………………...13
1.

Nông thôn và thành thị trong cấu trúc xã hội Việt Nam thời

trung đại…………………………………………………………………….13
1.1.1. Nông thôn trong cấu trúc xã hội Việt Nam thời trung đại…...13
1.1.2. Đô thị trong cấu trúc xã hội Việt Nam thời trung đại………..17
1.2. Thực tại và thực tại trong quan niệm sáng tác văn học Việt
Nam thời trung đại…………………………………………………………19
1.3. Không gian xã hội trong tác phẩm văn học Việt Nam trước
Tản Đà………………………………………………………………………30
1.3.1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIV…………………….30
1.3.2. Giai đoạn từ thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XVIII…………...34
1.3.3. Giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX…………43
Tiểu kết……………………………………………………………….54

5


Chương 2: TẢN ĐÀ VÀ KHÔNG GIAN XÃ HỘI VIỆT NAM
NHỮNG NĂM Đ U THẾ KỈ XX…………………………………………56
2.1. Cuộc đời và sự nghiệp Tản Đà trong môi trường xã hội Việt
Nam đầu thế kỉ XX…………………………………………………………56
2.1.1. Cuộc đời Nguyễn Khắc Hiếu – Tản Đà………………………56

2.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Tản Đà……………………………….58
2.2. Thành thị và nông thôn Việt Nam trong quá trình thực dân
hóa đầu thế kỉ XX…………………………………………………………..59
2.2.1. Sự chuyển biến ở nông thôn…………………………………..60
2.2.2. Thành thị phát triển và sự xuất hiện những sinh hoạt mới,
tầng lớp mới…………………………………………………………………61
Tiểu kết………………………………………………………….……68
Chương 3: KHÔNG GIAN XÃ HỘI TRONG SÁNG TÁC CỦA
TẢN ĐÀ……………………………………………………………………..70
3.1. Không gian nông thôn trong sáng tác của Tản Đà……………70
3.2. Không gian đô thị trong sáng tác của Tản Đà………………...82
3.3. Không gian s ng qua nghệ thuật viết của Tản Đà……………94
3.3.1. Không gian thực, tiên mộng và cõi lòng tác giả……………...94
3.3.2. Nghệ thuật dụng ngôn của Tản Đà………………………….100
Tiểu kết……………………………………………………………...103
KẾT LUẬN………………………………………………………………..105
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..107

6


MỞĐ U
1. Lí do chọn đề tài
Trong tiến trình vận động và phát triển của lịch sử văn học Việt Nam,
Tản Đà giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Ông vừa là người sống ở giai đoạn
giao thời của hai thế kỉ, vừa là giao thời của hai thời đại văn học. Một số nhà
nghiên cứu đã coi Tản Đà như một dấu nối giữa hai hệ hình văn học, giữa văn
học truyền thống và văn học hiện đại. Ông được coi là “nhà nho tài tử lỗi lạc
cuối cùng trong lịch sử văn học Việt Nam, cùng với Phan Bội Châu khép lại
cả một thời đại văn học, đồng thời cũng tạo ra những tiền đề tối cần thiết cho

một sự tiếp tục của một thời đại văn học mới”[34, tr. 325]. Có thể nói, Tản Đà
đã thổi “một cơn gió lạ” vào văn đàn với những quan niệm và phong cách
sáng tác mới mẻ “Đem văn chương đi bán phố phường” hay “Nôm na phá
nghiệp kiếm ăn xoàng”. Với vai trò là “gạch nối văn chương”, người đặt ra
những nền móng cơ bản, tạo tiền đề, bước đệm ban đầu cho quá trình hình
thành và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại sau này, Tản Đà - con
người của “thế giới c ” - đã có những cách tân, phá rào độc đáo.
Tản Đà là một nhà nho sinh ra vào buổi suy tàn của chế độ phong kiến
và Nho học, các giá trị truyền thống nằm trong trật tự lâu dài giờ đây bị đảo
lộn. Công cuộc khai thác thuộc địa và khai hóa văn minh của thực dân Pháp
trên đất An Nam tạo ra nền kinh tế hàng hóa, làm cho giá trị của đồng tiền lấn
át mọi giá trị luân thường đạo lý. Đó là thời đại “chữ nghĩa Tây” bắt đầu xuất
hiện và nở rộ. Vừa ra đời nó đã dần xác lập vị trí chủ đạo, làm cho chữ “Tàu”
tồn tại hàng ngàn năm ở xã hội phong kiến nông nghiệp lạc hậu này bị dồn
đẩy vào bước đường suy tàn. Đây là thời buổi mà các nhà nho gọi là “Gió Á
mưa Âu”, buổi giao thời giữa hai nền văn hóa. Sống trong hoàn cảnh môi

7


trường xã hội phương Đông đang bị thực dân hóa theo xã hội phương Tây ấy,
Tản Đà đã chịu ảnh hưởng không nhỏ và ông đã chủ trương:
Chữ nghĩa Tây Tàu chót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng.
Trong suốt nửa thế kỉ tận hưởng cuộc sống nơi trần thế thì có tới hơn
nửa cuộc đời Tản Đà sống với nghiệp văn chương. Vốn là người ưa thích chủ
nghĩa xê dịch nên Tản Đà có “thú chơi” nay đây mai đó. Ông hoạt động trong
một không gian khá rộng, từ ắc tới Nam, từ nông thôn đến thành thị. Vì vậy
trong di sản mà ông để lại, chúng ta thấy hiện lên hai môi trường thực của xã
hội Việt Nam lúc bấy giờ là thành thị và nông thôn, trong đó thị thành đang bị

thực dân hóa là một thực tại lần đầu xuất hiện trong văn chương Việt Nam. Và
ngay cả nông thôn, vốn quen thuộc với cả hai mảng văn học viết và văn học
dân gian trước đó, đến lúc này, c ng đã bắt đầu chịu những luồng ảnh hưởng
mới. Thế nhưng đó lại là những khu vực còn trống trong các công trình
nghiên cứu đã có cho đến thời điểm hiện tại về Tản Đà. Chọn hướng khảo sát
sáng tác của Tản Đà từ góc nhìn mới là không gian thành thị và nông thôn,
chúng tôi hy vọng góp thêm vào việc tìm hiểu, nghiên cứu sự nghiệp Tản Đà.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu, đánh giá Tản Đà
Tản Đà bắt đầu xuất hiện trên văn đàn đã mang đến một tiếng nói riêng,
cuốn hút ngay tức thì sự chú ý của độc giả. Từ đó đến nay, đã có nhiều công
trình, bài viết nghiên cứu, phẩm bình, đánh giá về sự nghiệp văn chương của
Tản Đà. ấu mốc đầu tiên là những bài viết của Phạm Quỳnh trên Đông Dương
tạp ch , năm 1917. Tuy nhiên, Tản Đà được tập trung chú ý, đánh giá nhiều
hơn là ở giai đoạn từ sau khi ông qua đời. Nổi bật là các bài viết của Xuân iệu,
V Ngọc Phan, Hoài Thanh, Hoài Chân, Nguy n Tuân... Tiếp đó, sau 1954 có
những công trình nghiên cứu tiêu biểu như:

8


Năm 1964, tác giả Tầm ương cho xuất bản cuốn chuyên luận Tản Đà
khối mâu thuẫn lớn. Đây là một công trình nghiên cứu khá toàn diện, đặt ra
nhiều vấn đề về thơ văn của Tản Đà. Ở đó, tác giả đã nghiên cứu và khảo sát
tư tưởng, lí giải cơ sở xã hội và mâu thuẫn của nó trong thơ văn Tản Đà, trong
đó vấn đề đáng quan tâm nhất là những vấn đề thuộc về kỹ thuật văn chương
của Tản Đà.
Tiếp theo phải kể đến công trình của giáo sư Trần Đình Hượu trong
cuốn Giáo trình văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930 (1988). Tác
giả đã đặt Tản Đà vào giai đoạn chuyển giao Đông Tây, nhưng không phải với

tư cách một cây bút chung chung mà là một tác giả thuộc loại hình nhà nho tài
tử, tức là tìm hiểu cuộc sống của một kiểu tác giả c trong đời sống thực tế mới
- đây là kiểu tiếp cận có ý nghĩa đột phá trong nghiên cứu Tản Đà.
Kế thừa và phát triển ý kiến của tác giả Trần Đình Hượu, năm 1976
trong khóa luận tốt nghiệp Sự thống nhất giữa các mâu thuẫn trong tư tưởng
và trong sáng tác của Tản Đà, Trần Ngọc Vương đã tiếp tục lí giải và làm
sáng rõ căn nguyên, đặc điểm, nội dung, tính chất của sự thống nhất giữa các
mâu thuẫn trong tư tưởng và sáng tác của nhà nho tài tử Tản Đà. Những ý
tưởng đó được tác giả phát triển trong các công trình sau đó như Văn học Việt
Nam dòng riêng giữa nguồn chung, (1999), và chương viết về Tản Đà trong
Giáo trình Văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ, (2010). Ở chương viết
này, Trần Ngọc Vương từ góc độ loại hình tác giả, góc độ chủ đề, đề tài và hệ
thống thể loại để khẳng định “Nhiều sáng tác của Tản Đà đã đạt tới những
thành tựu vượt ra ngoài sự thử thách của thời gian, để trở thành những giá trị
nghệ thuật lâu dài, mang sắc thái cổ điển, phi thời, bất tử”[36, tr. 358].
Kể từ đó, Tản Đà còn trở thành đối tượng tìm hiểu của một số luận văn,
luận án với những phương diện tiếp cận khác nhau như:

9


Năm 2007, Nguy n Ái Học với luận án tiến sĩ Thi pháp thơ Tản Đà đã
chỉ ra cụ thể những nội dung cách tân thi pháp thơ của Tản Đà, và khẳng định,
thơ Tản Đà mở ra một thế giới mới chưa từng có trong thơ ca Việt Nam trước
đây, đồng thời mở ra một bước ngoặt quan trọng, xác lập, khơi dòng cho sự ra
đời và phát triển của thơ ca hiện đại.
Năm 2013, Nguy n Thị Hồng với luận văn thạc sĩ Tản Đà và sự hình
thành đội ngũ k giả - văn nhân chuyên nghiệp giai đoạn giao thời đã khảo sát
phương thức hành xử mới của Tản Đà trước thời cuộc - dấn thân vào địa hạt
báo chí với giấc mơ xác lập công danh bằng con đường mới, góp phần đẩy

nhanh sự hình thành lớp người viết mới.
Ngoài ra còn những bài viết lẻ tẻ của một số tác giả khác, như: Nguy n
ách Khoa, Lê Xuân ột, Phạm Xuân Thạch...
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về tác giả Tản Đà đã đề cập đến
nhiều vấn đề cơ bản. Đặc biệt, các nhà nghiên cứu, phê bình đã tập trung tìm
hiểu Tản Đà trên phương diện một tác giả văn học có tài năng độc đáo và có
vị trí dấu nối giữa hai thời kỳ lớn của văn học dân tộc. Riêng việc nhìn nhận
Tản Đà từ một không gian xã hội văn hóa tuy đã được một số nhà nghiên cứu
đề cập tới nhưng đó mới chỉ là những nhận x t mang tính đơn lẻ nằm trong
những nghiên cứu với hướng nghiên cứu riêng. Nói cách khác, cho tới nay
chưa có một công trình riêng biệt nào nghiên cứu về vấn đề trên. o đó, công
trình của chúng tôi là công trình đầu tiên tìm hiểu về thành thị và nông thôn
trong sáng tác của Tản Đà. Vì vậy đây là một hướng tiếp cận khá mới mẻ, hứa
hẹn nhiều điều thú vị nhưng c ng vô cùng khó khăn, phức tạp.
2.2. Lịch sử sưu tầm tác phẩm Tản Đà
Tính từ khi Tản Đà qua đời, đã có một số công trình tuyển chọn các tác
phẩm của ông, nhưng dày dặn nhất phải kể đến là công trình sưu tập của
Nguy n Khắc Xương gồm 5 tập (Tản Đà toàn tập, Nhà xuất bản Văn học, Hà

10


Nội 2002). Tuy chưa phải là tất cả di sản của Tản Đà nhưng đó là nguồn tư
liệu đầy đủ nhất cho đến nay về sáng tác của Tản Đà.
3. M c đích nghiên cứu
Từ những khảo sát cụ thể các sáng tác của Tản Đà về hai môi trường:
thành thị, nông thôn, đặt chúng trong những đối sánh với các sáng tác trước
đó của văn học trung đại Việt Nam về cùng đề tài, luận văn muốn tìm hiểu
thêm tính kế thừa, n t riêng biệt trong các sáng tác của Tản Đà và cố gắng lý
giải chúng từ góc độ văn học sử c ng như tiếp cận lịch sử xã hội.

4.

Phạm vi nghiên cứu
-

Về nguồn tư liệu: Như đã nói ở trên, bộ tuyển tập do nhà nghiên cứu

Nguy n Khắc Xương thực hiện đã bao gồm gần như trọn vẹn những sáng tác
quan trọng nhất của Tản Đà, nên những khảo sát của chúng tôi s dựa vào
chính công trình này.
-

Với hướng tiếp cận là không gian xã hội - văn hóa, đề tài đi vào khảo

sát các hình ảnh, sinh hoạt và những nhân vật của Tản Đà trong hai môi
trường sống: thành thị và nông thôn.
5.

Phương pháp nghiên cứu
o đối tượng và phạm vi nghiên cứu quy định, phương pháp chủ yếu

của luận văn là vận dụng kết hợp giữa tiếp cận văn học sử và liên ngành để
giải quyết vấn đề. Hai phương pháp trên được chúng tôi sử dụng song song
trong tất cả các phần của đề tài, và được cụ thể hóa thành các thao tác: phân
tích, tổng hợp, so sánh...
6. Đóng góp của đề tài
Với đề tài này, chúng tôi thử nghiệm một cách nhìn mới với sáng tác
của Tản Đà là khảo sát từ không gian xã hội - văn hóa, nhằm góp phần bổ
sung cho những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Tản Đà.
7. Cấu trúc của luận văn


11


Ngoài phần MỞ ĐẦU, K T LUẬN, và danh mục TÀI LI U THAM
KHẢO, luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Không gian xã hội trong sáng tác văn học Việt Nam trước
Tản Đà
Chương 2: Tản Đà và không gian xã hội Việt Nam những năm đầu thế
kỷ XX
Chương 3: Không gian xã hội trong sáng tác của Tản Đà

12


Chương 1
KHÔNG GIAN XÃ HỘI TRONG SÁNG TÁC VĂN HỌC VIỆT
NAM TRƯỚC TẢN ĐÀ
1.1. Nông thôn và đô thị trong cấu trúc xã hội Việt Nam thời trung đại
1.1.1. Nông thôn trong cấu trúc xã hội Việt Nam thời trung đại
Như nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra, cơ cấu xã hội Việt Nam thời trung
đại căn bản là cộng đồng làng xã, gắn liền với sản xuất nông nghiệp. Nó vượt
qua mọi bão giông của những thay đổi từ các chính thể và triều đại, từ các
cuộc chiến tranh và li tán để làm nên những đặc trưng của xã hội, văn hoá
Việt Nam, các chuẩn mực và giá trị sống của con người Việt Nam.
X t về mặt tổ chức xã hội, làng xã và quốc gia Việt Nam là hai đối
tượng quan trọng nhất đối với người Việt và được tổ chức chặt ch nhất. Chính
vì thế, trong cách nói thông thường của người Việt, làng với nước thường đi
đôi với nhau. Nếu coi tổ chức nông thôn theo huyết thống là bước phát triển
thứ nhất thì tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú là bước phát triển tiếp theo

để hình thành nên làng và xóm, đơn vị tổ chức quan trọng nhất của nông thôn
Việt Nam như nhận định của G. Condominas: “Trong các không gian xã hội
không lớn và nhất là ở vùng nông thôn, người ta dùng các từ về quan hệ họ
hàng để xưng hô với tất cả các cá nhân thuộc một thế hệ khác với mình, cho
dù họ có họ hàng với mình hay không, đúng là các nhu cầu giúp đỡ lẫn nhau
đã củng cố tình thân mật vốn do người ta cùng sống trên một mảnh đất” [2,
tr.50].
Suốt nhiều thế kỷ, làng là đơn vị tụ cư lâu đời ở nông thôn và là nhân tố
cơ sở cho hệ thống nhà nước quân chủ tại Việt Nam [37, tr.481, t1]. Làng
truyền thống điển hình thời trung đại là một tập hợp những người có thể có
cùng huyết thống, cùng phương kế sinh nhai trên một vùng nhất định. Là một

13


thiết chế xã hội của nông thôn Việt, có cơ cấu tổ chức phong phú nhưng chặt
ch , có tính cộng đồng và tự trị cao, làng Việt ở mặt trái, mang tính kh p kín,
bản vị. Song nó lại chính là nơi lưu giữ, bảo vệ một thứ văn hoá bản địa chống
lại sự xâm lăng, đồng hoá của văn hoá ngoại lai. Nói như Trần Đình Hượu
“làng là một đợn vị có kinh tế riêng, có ch nh quyền riêng, có tôn giáo riêng,
có võ trang và tư pháp riêng” [37, tr.484, t1]. Còn theo G. Condominas, ở
Việt Nam “làng thật sự là một xã hội có tôn ti rất nặng thống trị” [2, tr.69].
Như chúng ta biết, Việt Nam là một đất nước nông nghiệp. Nhà nước
phong kiến Việt Nam tồn tại và vận hành thông qua sự đóng góp tô thuế của
các cộng đồng làng xã (chứ không phải sự đóng góp của các lãnh chúa phong
kiến như ở châu Âu). Nó bảo vệ quyền lợi của các cộng đồng làng nói chung,
chứ không bảo vệ quyền lợi của các địa chủ. Vì thế mà nhà nước thi hành
chính sách trọng nông nên dù “thủ công nghiệp phát triển rộng khắp nhưng
không tách khỏi hẳn nông nghiệp, mà phát triển trong qui mô làng xã” [37,
tr.78, t1]. Chính điều này đã tạo nên một cơ cấu xã hội thật đặc biệt gồm có ba

bộ phận cơ bản sau:
Thứ nhất, người nông dân sống trong các gia đình có kinh tế riêng biệt,
canh tác trên ruộng của cộng đồng làng xã trên nguyên tắc công điền, công
thổ.
Thứ hai, các cộng đồng làng tồn tại biệt lập và có tính tự quản cao.
Thứ ba, bộ máy hành chính của Nhà nước tồn tại trên cơ sở tô thuế
đóng góp của các hộ gia đình nông dân thông qua các cộng đồng làng xã.
Chính chế độ công điền, công thổ dựa trên tính tự quản của các cộng
đồng làng xã đã làm giảm bớt phần nào những sự đối kháng quyết liệt trong
xã hội, là cơ sở cho một xã hội dựa trên những mối quan hệ thật đặc biệt quan hệ cộng đồng, đặt lợi ích cộng đồng lên trên hết. Vì thế khi nghiên cứu

14


về không gian xã hội ở Việt Nam, G. Condominas đã nhận định: “Tầng lớp
nông dân ở dưới đáy của cái xã hội tổng thể rất có tôn ti ấy, nên phải chịu sự
đè nặng của xã hội ấy, song, ở cấp độ làng, họ lại có một cuộc sống kiểu dân
chủ: những quyết định liên quan đến tập thể không phải do ý muốn của người
đứng đầu mà do thảo luận tập thể theo nguyên tắc nhất trí” [2, tr.63].
Từ thế kỷ X đến giữa thế kỷ XIII (từ thời Đinh đến giữa thời Trần), chế
độ sở hữu nhà nước về ruộng đất chiếm ưu thế trong xã hội. Đại bộ phận
ruộng đất là công điền, công thổ của làng xã; bên cạnh đó còn có ruộng quốc
khố của triều đình và ruộng của nhà chùa. Từ giữa thế kỷ XIII trở đi, nền kinh
tế dựa trên phương thức sản xuất phong kiến Á châu đã hình thành do chính
sách khuyến khích việc mua bán, trao đổi ruộng đất, trong đó có các điền
trang với phương thức bóc lột nông nô pha màu sắc của phương thức bóc lột
nô lệ. Sự xuất hiện của kinh tế công thương nghiệp và sự gia tăng của trao đổi
hàng hoá làm cho tầng lớp địa chủ càng ngày càng giữ vai trò to lớn trong đời
sống xã hội, chi phối nhiều mặt hoạt động của xã hội về kinh tế và chính trị.
Khi đó, tầng lớp quý tộc có xu hướng rút về củng cố điền trang của mình, phát

triển kinh doanh ruộng đất và điều này làm xuất hiện nguy cơ phân tán về mặt
chính trị, dẫn đến khuynh hướng tăng cường bộ máy quan liêu, đề cao Nho
giáo, đưa nho sĩ vào nắm dần các chức vụ chủ chốt trong triều đình. Từ giữa
thế kỷ XIII, kết cấu giai cấp lãnh đạo trong xã hội đã có sự thay đổi. Nếu
trước đây tầng lớp quản lý nhà nước bao gồm quý tộc, công thần, quan liêu,
cao tăng thì từ đây, kết cấu tầng lớp quản lý nhà nước bao gồm hai bộ phận rõ
rệt: thành phần quý tộc nắm giữ những chức vụ cao nhất trong triều, có nô lệ,
ruộng phong, trang ấp riêng…; và thành phần nho sĩ quan liêu đông đảo
không phải là quý tộc đóng vai trò thừa hành trong bộ máy quản lý nhà nước.
Chính những chuyển biến về sở hữu ruộng đất trong kinh tế và những biến đổi
trong kết cấu giai cấp xã hội đã tạo điều kiện cho Nho giáo thâm nhập một

15


cách mạnh m vào xã hội trong thời kỳ này. Sống trong môi trường đó “nhà
nho, ngoài việc học và tin theo học thuyết Nho giáo, còn thuộc về một đẳng
cấp xã hội: đẳng cấp sĩ phu. Trong xã hội họ có thể làm quan với triều đình
hay làm thân sĩ, làm thầy ở làng xã” [37, tr.126, t1].
Vào thế kỉ XV, dưới triều Lê chế độ phong kiến đã được xác lập vững
vàng và chuyển sang mô hình Nho giáo với chế độ quân chủ tập quyền mang
tính chất chuyên chế và quan liêu ngày càng nặng nề. Từ thế kỉ XVI trở đi,
đặc biệt là thế kỉ XVIII, XIX thiết chế cổ truyền dựa trên quan hệ cộng đồng
của làng - nước bị suy yếu, nhưng một thiết chế mới xây dựng dựa trên cơ sở
phát triển mạnh m của kinh tế hàng hóa, gắn liền độc lập dân tộc và thống
nhất quốc gia với một thị trường dân tộc thống nhất lại chưa có điều kiện hình
thành. Mặc dù “việc buôn bán ở một số đô thị khá sầm uất, nhưng kinh tế
hàng hóa không thu hút được nền sản xuất ở các làng xã, không dẫn tới thay
đổi tổ chức sản xuất, thay đổi chính trị, xã hội, văn hóa. Chế độ chuyên chế
chồng lên các làng xã tự trị, đóng kín với tổ chức xã hội vua quan và tứ dân

vẫn dựa vào công điền” [37, tr.129, t1].
Như vậy có thể nói, trước khi có sự can thiệp của phương Tây, xã hội
Việt Nam chủ yếu là một cộng đồng làng xã.“Trong xã hội đó, con người
sống gắn bó với làng xóm. Họ hàng nội ngoại không những gắn bó với nhau
bằng tình máu mủ mà bằng cả một tổ chức có thứ bậc chặt chẽ, bằng cả đạo
lý có tính chất tôn giáo. Họ hầu như thành đơn vị của làng xã. Làng xã có
ruộng đất riêng, thành hoàng riêng, phong tục luật lệ riêng [8, tr.11]. Sống
trong xã hội đó, có bốn tầng lớp: sĩ, nông, công, thương, trong đó quan trọng
nhất về số lượng c ng như về vai trò kinh tế là nông dân, còn người dẫn đạo
tinh thần lại là đẳng cấp sĩ - nhà nho [37, tr.119, t1].

16


1.1.2. Đô thị1 trong cấu trúc xã hội Việt Nam thời trung đại
Như nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh, trong lịch sử Việt Nam, từ
thời trung đại, đô thị đã được hình thành trên cơ sở những trung tâm văn hóa hành chính của nhà nước phong kiến: kinh đô và những phủ lỵ ở địa phương.
Đến các thế kỉ XVII, XVIII, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, dù ở
mức độ còn hết sức sơ khai, sự phát triển của các đô thị được đẩy mạnh thêm
một bước. Đô thị thời kỳ này là nơi tập trung những cơ quan hành chính văn
hóa của triều đình phong kiến, những phường thợ thủ công và các cơ sở
thương mại dịch vụ, vui chơi giải trí. Đồng thời để phục vụ nhu cầu giải trí
của một số tầng lớp cư dân đô thị, những tụ điểm giải trí đã hình thành những
hình thức sinh hoạt văn hóa ở ngoài khuôn khổ cung đình và c ng không hề
tồn tại trong phạm vi làng xã. Thành phần cư dân của đô thị ngày càng phát
triển phong phú gồm quý tộc, quan lại phong kiến, nho sĩ, thương nhân, thợ
thủ công, ca kỹ... với lối sống thường là đi ra ngoài chuẩn mực của xã hội cổ
truyền Khổng giáo. Tất nhiên, tính chất trọng nông của nền kinh tế c ng như
nền tảng văn hóa - xã hội Nho giáo đặc thù của Việt Nam đã không cho phép
những đô thị như Thăng Long, Phố Hiến hay Hội An, Gia Định có thể phát

triển thành những đô thị lớn như ở Nhật ản, Trung Quốc hay các nước phương
Tây. Tuy vậy tại các trung tâm buôn bán đó, những tầng lớp thương nhân, thợ
thủ công… bắt đầu xuất hiện. Sinh hoạt giao thương đã dần tách khỏi quan hệ
sản xuất phong kiến. Các thương nhân có sinh hoạt, tập quán
1 “Đô thị” và “thành thị” là hai thuật ngữ không phải bao giờ c ng chỉ những thực thể
tương đồng. Chúng khác nhau theo không gian (phương Đông - phương Tây), và ngay ở
một địa vùng phương Đông cụ thể là Trung Hoa, “đô thị” hay “thành thị” c ng biến đổi
theo lịch sử. Việc trình bày những dị biệt như vậy rất thú vị nhưng vượt quá khung khổ của
một luận văn.
Trong tiểu luận này, chúng tôi sử dụng cả hai khái niệm nhưng với cùng một nghĩa, theo
cách trình bày của Từ điển tiếng Việt (do Trung tâm từ điển học biên soạn, Nxb Đà N ng ấn
hành năm 2007): là nơi tập trung cư dân đông đúc, là trung tâm thương nghiệp và có thể cả
công nghiệp, sinh hoạt văn hóa phong phú; phân biệt với nông thôn - nơi cư dân chủ yếu
sống bằng nghề nông.

17


của người thị dân, còn non yếu, không đủ để tạo thành một sức mạnh kinh tế
mới và c ng chưa đủ sức tạo lập riêng một giai cấp mới có ảnh hưởng rộng
khắp cả nước. Như các nhà nghiên cứu đã chứng minh, chính sự có mặt của
tầng lớp thị dân c ng như sự phát triển của các đô thị phong kiến thời kỳ này ở
Việt Nam là mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và là một trong
những nhân tố trực tiếp tạo môi trường phát triển cho một nền văn học phi
truyền thống, văn học của nhà nho tài tử với nhiều yếu tố đi ra ngoài khuôn
khổ của văn học quan phương, như khẳng định của cố tác giả Trần Đình
Hượu: “Khi đô thị đã phát triển mạnh, những nhà nho nghệ sĩ quen sống cuộc
sống đô thị, tìm hạnh phúc và lạc thú theo một hướng khác (...) là những nhà
nho tài tử” [37, tr.119, t1].
Một thực tế rõ ràng là ở Việt Nam, không gian đô thị khởi nguyên và tổ

chức phần nhiều không phải do sự vận động tự thân của kinh tế. Đô thị ra đời
phụ thuộc chặt ch vào những thay đổi chính trị. Vào đầu thế kỷ XI khi nhà Lý
định đô tại Thăng Long, thì Hoa Lư của hai triều Đinh - Lê dần dần tàn lụi.
Đầu thế kỷ XIX khi nhà Nguy n định đô tại Huế thì Thăng Long c ng suy
thoái.
Tổ chức hành chính và xây dựng cơ bản của đô thị đều do chính quyền
chi phối. Phiên chế dân cư của đô thị c ng bị chính quyền chi phối. Trước hết
có quý tộc, quan lại, sĩ phu, thương nhân, các tầng lớp lao động là nông dân,
thợ thủ công và một số ít nhà sư. Thợ thủ công và thương nhân trong các phố
phường Thăng Long đa số từ nhiều nơi khác tới, nhưng họ không cắt đứt với
quê làng c , một số không ít chỉ cư trú tạm thời, coi kinh đô là nơi kiếm ăn
theo các mùa, theo tháng mà thôi. Tại Thăng Long, họ tái lập những hình thức
sinh hoạt và kiểu cư trú theo làng c . Và nếu định cư, họ lại lập xóm, giáp, xây
đình, chùa và nhà thờ họ. Người Thăng Long - Hà Nội cho đến giữa thế kỷ
XIX vẫn không cắt đứt với quê hương c và sinh hoạt kiểu làng xã vẫn còn

18


đậm n t.

o vậy đô thị không phải là khu vực kinh tế - xã hội riêng biệt mà

lại kết hợp với nông thôn thành một thể thống nhất. Có chăng, điểm phân biệt
với nông thôn ở chỗ đô thị là đầu não của chính quyền quân chủ nên chi phối
nông thôn về chính trị. Đô thị Việt Nam không có công xã tự do thoát khỏi sự
khống chế của chính quyền quân chủ phong kiến; mà ngược lại, với nền kinh
tế không phát triển cao lại bị chính quyền phong kiến và ý thức hệ Nho giáo
chi phối nên nền văn hoá Thăng Long và Huế căn bản là văn hoá cung đình
chính thống, lực lượng sáng tạo đa số là nho sĩ, quan lại.

Về văn hóa, nông thôn có một nền văn hoá độc đáo, bền vững. Trong
khi văn hoá đô thị bị chính quyền thống trị chi phối thì văn hoá nông thôn lại
phát triển tự do hơn. Ở đây, văn hóa dân gian được bổ sung thêm bằng văn
hoá “kẻ sĩ”, nhiều sáng tác thơ ca dân gian là sản phẩm của chính bộ phận
này. Đó là nền văn hoá dân gian mang đậm màu sắc địa phương nhưng ít
nhiều lại pha trộn màu sắc bác học, và ngược lại những yếu tố, mô thức của tư
duy dân gian đã “đổ ngược” vào các sáng tác bác học.
Nhìn chung trong chiều dài lịch sử, chợ làng và hoạt động buôn bán ở
nông thôn dù có được mở rộng c ng vẫn không đủ sức tạo ra đô thị tự do ở
giữa nông thôn; mà trái lại nó rút bớt nhựa sống của đô thị, làm cho đô thị hoà
vào nông thôn. Vì vậy, đô thị Việt Nam cho đến cuối thế kỷ XIX vẫn chịu sự
chi phối của nông thôn về kinh tế. Cho nên “đời sống văn hóa, công chúng
văn học của Việt Nam gắn chặt với một thực tế là không gian nông thôn bao
la, trong đó có hai nhân vật chủ yếu vừa là người sáng tác vừa là công chúng
là nông dân và nhà nho” [14, tr.494].
1.2. Thực tại và thực tại trong quan niệm sáng tác văn học Việt Nam thời
trung đại
Như đã nói ở trên, nông thôn và đô thị là hai thực tế của người Việt,
trong đó nông thôn là không gian rộng lớn và quan trọng hơn hẳn. Vậy chúng
đã hiện diện trong văn hóa, văn chương theo cách nào?

19


Nhiều thập kỉ trước, do ảnh hưởng của những quan niệm hiện đại,
nhiều nghiên cứu văn chương đã đi tìm một chủ nghĩa hiện thực trong thời
trung đại, nhưng trên thực tế công việc đó đã gặp không ít những khó khăn,
những cản trở từ chính đối tượng nghiên cứu và bản thân người nghiên cứu:
“Mọi người tốn công đi tìm sự hiện diện của chủ nghĩa hiện thực nhưng chỉ
tìm được ở khắp nơi những khuynh hướng, những yếu tố hiện thực chủ nghĩa

và chưa gặp ở đâu ch nh chủ nghĩa hiện thực cả. (...) Con đường tìm kiếm
chủ nghĩa hiện thực (...) cho đến nay t hứa hẹn triển vọng (...) [14, tr.414].
Như chúng ta biết, văn học trung đại Việt Nam thường được hình dung
một cách tổng quan là thời kỳ quan niệm nghiêng về văn dĩ tải đạo, thi ngôn
chí. Đây là quan niệm đậm chất Nho giáo. Trên thực tế, văn học viết Việt Nam
được coi là khởi đầu chính thức từ thế kỷ X, song đây lại chưa phải là thời kỳ
Nho giáo ảnh hưởng mạnh. Năm thế kỷ đầu tiên (từ thế kỷ X đến hết thế kỷ
XIV) thường được coi là giai đoạn tam giáo đồng nguyên, Phật giáo, Nho
giáo và Đạo giáo cùng ảnh hưởng; thậm chí thời kỳ Lý Trần, Phật giáo còn
được coi là quốc giáo. Vì thế văn học, chủ yếu là các sáng tác của các thiền
sư, phản ánh những tư tưởng, tình cảm, quan niệm nhân sinh của con người
với một thái độ tích cực, lạc quan trước cuộc sống. Nó bao gồm nhiều tác
phẩm viết về cảm hứng Phật giáo, trong đó có các bài thơ, phú, kệ, minh do
các sư tăng trí thức viết, bàn về các khái niệm sắc - không, tử - sinh, hưng vong, quan hệ giữa Phật và Tâm, đạo và đời, con người và thiên nhiên, phản
ánh sự minh triết và niềm lạc quan của cá nhân trong cuộc sống và thời đại.
Một trong những tác giả tiêu biểu là sư Mãn Giác. Nhà thơ để lại những câu
thơ nổi tiếng với một quan niệm mới mẻ về l sống, một thái độ lạc quan coi sự
sống là bất diệt vượt lên cao hơn triết lý tuần hoàn:
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”

20


(Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai)
ên cạnh đó, một số nhà vua và quý tộc đã biên soạn những tác phẩm
thuyết giải về giáo lý nhà Phật như các cuốn Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam
của Trần Thái Tông, Thiền lâm thiết chủy ngữ lục của Trần Nhân Tông, Tuệ
trung thượng sĩ ngữ lục của Trần Tung... Trong Khóa hư lục (tập bài giảng về

l

hư vô) của Trần Thái Tông nội dung chủ yếu là giảng giải về l sắc không.

Với tư cách là một người hành đạo, một người tuyên truyền cho một giáo chỉ
bằng những hình thức tư duy cụ thể và sinh động, tác phẩm đã thể hiện một
cách nhận thức giản dị về mọi nỗi khổ có thực ở đời, về cái ngắn ngủi có thực
của đời người. Trần Thái Tông đã kêu gọi mọi người diệt khổ nhưng không
phải theo cách chối bỏ cuộc đời mà chủ yếu là giữ cho thân tâm thanh tĩnh,
hướng tâm vào việc thiện, vào việc cứu độ chúng sinh. Ngoài ra ông c ng đề
cập đến những hình thức thông tục hơn như việc giữ gìn giới hạnh hàng ngày:
về rượu, về sắc... Trong Khóa hư lục, Trần Thái Tông còn bộc lộ mong muốn
phối hợp Phật giáo với Nho giáo để tạo ra một hệ tư tưởng thích hợp với đời
sống, văn hóa của đất nước Đại Việt lúc bấy giờ, vừa có những quy tắc xử thế
hợp lý vừa có cái nhìn sâu sắc về bản thể, thỏa mãn cả đòi hỏi của cộng đồng
lẫn nhu cầu cá nhân.
Thêm nữa, cuộc chiến tranh xâm lược Nguyên Mông c ng đã hướng
văn chương vào chủ đề mang tính sử thi: phản ánh cuộc kháng chiến toàn dân
chống xâm lăng. òng thơ văn yêu nước này c ng đã giữ một vị trí rất quan
trọng trong thơ văn Lý - Trần. Nó phản ánh tinh thần bất khuất, anh d ng
chống giặc, lòng trung quân ái quốc c ng như lòng tự hào dân tộc qua những
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, làm vẻ vang sử sách, mang hào khí Đông
A. Tinh thần ấy đã được ghi lại bằng những n t sâu đậm trong nhiều tác phẩm
văn thơ của thời đại. Từ Thiên đô chiếu của Lý Thái Tổ đến Nam quốc sơn hà

21


tương truyền là của Lý Thường Kiệt, rồi Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn,
hay Phú sông Bạnh Đằng của Trương Hán Siêu và Thuật hoài của Phạm Ng

Lão, hoặc những bài thơ của vua tôi nhà Trần trong cuộc kháng Nguyên đều
bộc lộ một niềm tin, một tinh thần quyết thắng và một ý chí sắt đá vào sự bền
vững muôn đời của xã tắc giang sơn như 2 câu thơ nổi tiếng của Trần Nhân
Tông:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Non sông ngàn thuở vững âu vàng)
Từ thế kỉ XV, khi Nho giáo bắt đầu chiếm lĩnh vai trò chủ đạo trong
nhà nước Việt Nam, văn học chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo. Đa số các
nhà văn, nhà thơ thời kì này chủ yếu là các trí thức đã thấm nhuần những tư
tưởng “cửa Khổng sân Trình”. Do vậy các sáng tác của họ bao giờ c ng thiên
về biểu đạt thế giới chủ quan của mình theo quan niệm “thi dĩ ngôn chí” hay
“văn dĩ tải đạo”. Cảm hứng chủ đạo của văn học giai đoạn này là khẳng định
nền độc lập, khẳng định nhà nước phong kiến. Vì thế các tác giả văn học duy
trì cái nhìn lý tưởng về xã hội theo mô hình Nho giáo, nghĩa là đặt ngôi vua
lên vị trí chí tôn, đồng thời c ng đòi hỏi các bậc vua chúa phải chí thân, chí
thiện, hướng tới một xã hội lý tưởng, thái bình thịnh trị, vua sáng tôi hiền nên
trong văn chương ta thường thấy những mô típ Nghiêu - Thuấn, nhân nghĩa,
trung quân. Do đó, quan niệm con người giai đoạn này là mẫu hình con người
thánh nhân. Ta bắt gặp nhân vật trong thơ văn là con người hướng về lí tưởng,
làm chủ thân và tâm. Quan niệm này thể hiện rất đậm nét trong thơ văn Nguy
n Trãi. Ông và những nhà nho cùng thời với ông vốn có một niềm tin vững
chắc vào Nho giáo, một học thuyết đạo đức chính trị có thể vận dụng để

22


tổ chức một xã hội thái bình thịnh trị. Chính niềm tin ấy đã khẳng định quan
niệm Nho giáo chính thống về chức năng văn học:

Văn chương chép lấy đòi câu thánh
Sự nghiệp tua gìn, phải đạo chung
Trừ độc trừ tham trừ bạo ngược
Có nhân có trí có anh hùng
( ảo kính cảnh giới, bài 5 - Nguy n Trãi)
Quan niệm thi ngôn chí vẫn còn tiếp tục tồn tại đến Nguy n ỉnh Khiêm
và Phùng Khắc Khoan. Ở Nguy n ỉnh Khiêm chí thường được gắn với sự tu
dưỡng nhân cách đạo đức của nhà nho, gắn liền thi ca với tác dụng của nó.
Cho nên trong tập thơ Bạch Vân Am ông viết: “Mỗi khi được thư thả lại đứng
dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp của sơn thủy hoặc là tức
sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí”[16, tr.23]. Còn
Phùng Khắc Khoan không chỉ là vận dụng thi ngôn chí vào sáng tác văn
chương mà ông còn có cả một tập thơ lấy đầu đề là Ngôn chí thi tập, và trong
ông lúc nào c ng thường trực cái chí:
Tự cổ đại tài ưng đại dụng
Trượng phu khẳng dữ thế phù trầm
(Xưa nay đại tài nên được đại dụng
Tài trai sao chịu nổi chìm theo thế nhân)
(Vi n ký hữu nhân)
Nói chí trong văn chương nhà nho c ng là một cách tự tu dưỡng, tự
động viên khuyến khích, nhắc nhở về đạo đức nhằm hướng tới con người lý
tưởng, con người thánh nhân quân tử. Như thế xét cho cùng cảm thụ văn
chương, nhận thức thực tế đã bị thay bằng xúc cảm có tính công thức. Đây
chính là căn nguyên khiến cho văn học trung đại Việt Nam đã không phát
triển theo chủ nghĩa hiện thực: “Hướng vào thực tại bằng tâm ch không dẫn

23


dắt văn học đến con đường hiện thực.” [14, tr.430]. ởi vì các tác giả “không

quan sát với nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu các quy luật hoạt động của thực tại
xã hội nhằm đưa ra các kiến giải riêng của mình, họ chỉ đơn thuần mượn
thực tại ấy để diễn đạt các tư tưởng sẵn có. Một cung cách tiếp cận và phản
ánh hiện thực như vậy không thể tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa hiện
thực trong văn học” [31, tr.142].
Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, ra đời trong
giai đoạn chế độ phong kiến đi vào con đường khủng hoảng bế tắc. Đội ng trí
thức nhà nho trước một thực tế đất nước ba bè bảy mối đã rơi vào một tâm
trạng hoang mang, hoài nghi về vai trò xây dựng và cố kết xã hội của Nho
giáo. Khi đã mất đi sự tự tin vào vai trò xã hội của mình, nhiều nhà nho không
thể hứng thú với quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “thi ngôn chí” nữa mà đã hướng
tới một xã hội hiện thực của những điều trông thấy. Lê Quí Đôn quan niệm
làm thơ phải có ba điểm: “Một cảnh, hai tình, ba sự. Tình là người, cảnh là
trời, sự là hợp cả trời đất mà quán thông”[28, tr.85]. Như vậy ngoài yếu tố
thuộc về chủ quan con người là “tình” ra, thì thơ còn phải thể hiện “cảnh” và
“sự” chính là thiên nhiên và xã hội, là hiện thực khách quan. Ngô Thì Nhậm
lại cho rằng: “Làm thơ phải gửi cả tâm tình vào sự vật”[28, tr.84]. Nhữ Bá Sĩ
thì nhấn mạnh: “Văn chương là cái hiện trạng một thời làm nên nó”[28, tr.83].
Như vậy, các nhà nho bằng cách này hay cách khác, đã gặp nhau ở quan điểm
văn học không phải chỉ chuyên đi truyền thụ đạo đức mà trước hết phải gắn
bó với cuộc đời. Cùng quan điểm này, Phan Huy Chú chủ trương nhà văn
không chỉ đọc sách sâu rộng mà còn phải đi sâu nghiên cứu cuộc sống. Nhưng
những thay đổi trong quan niệm nghệ thuật như vậy mới chỉ đưa văn học về
gần với cuộc sống của đông đảo quần chúng lao khổ, thực hiện đúng chức
năng của nó là phản ánh hiện thực chứ chưa thay đổi được phương pháp phản
ánh, chưa thay đổi được quan niệm mĩ học phong kiến. Cho nên ta

24



hiểu vì sao mà Phạm Đình Hổ, Lê Hữu Trác... trong các tác phẩm của họ mặc
dù đã phản ánh một cách trung thực lịch sử c ng như hiện thực xã hội lúc bấy
giờ, nhưng cái thực trong các tác phẩm ấy thường gắn với những chứng kiến
chủ quan cá nhân. Nói như Trần Đình Sử thì “hiện thực trong văn học không
hề là bức tranh khách quan thuần túy bên ngoài cảm nhận chủ quan của tác
giả. Con đường hướng tới hiện thực và chủ nghĩa hiện thực không phải là
một. Trong văn học trung đại khi miêu tả một sự việc như thực người ta
thường chỉ muốn chứng tỏ việc ấy có thực như tinh thần “thực lục” của sử
mà thôi” [28, tr.107]. Mặc dù với các tác phẩm ký, tùy bút người viết có
quyền bộc lộ cảm xúc chủ quan của mình trước hiện thực, nhưng cảm xúc
trong các sáng tác thời kỳ này chủ yếu vẫn lấy những khuôn thước của đạo
nho làm gốc để lên tiếng đau xót trước thế thái nhân tình, trước sự đổi thay
tang thương của xã hội. Thậm chí nhiều người còn thể hiện tính chất bảo thủ
trước hiện thực. Rõ ràng họ đã lấy cái chủ quan của mình lấn át cái khách
quan của sự vật, chứ không phát hiện được qui luật phát triển nội tại của nó.
Đối với họ, hiện thực chỉ là cái cớ để bộc lộ, thể hiện nỗi lòng, tâm sự và cảm
quan cá nhân chứ không phải là phản ánh nó. Thực tế này là cơ sở cho nhà
nghiên cứu Trần Nho Thìn nhận xét: “Họ thường viết về những điều mắt thấy,
tai nghe. Nhìn qua rất dễ có ảo tưởng là văn thơ nhà Nho giàu chất liệu hiện
thực, có khả năng tiếp cận chủ nghĩa hiện thực. Song phải thấy thực tại được
đưa vào văn chương nhà nho tuy là có thực (sở kiến) nhưng lại là thứ thực tại
công thức. Trên cái nền công thức khuôn sáo của tư duy, sự sáng tạo của các
tác giả chỉ có thể hoạt động trong một khuôn mẫu xác định. Các nhà thơ khác
nhau về mức độ, tính chất của cảm xúc bộc lộ trước cuộc sống đau khổ của
dân; khác nhau về cái nhìn thực tại (quan tâm đến các chi tiết cụ thể hay đến
một bức tranh toàn cảnh) và khác nhau về cách bình luận chính trị (kín đáo,

25



×