Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

rút ngắn khoảng cách về kỹ năng đọc giữa trẻ nông thôn và thành thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.95 KB, 6 trang )

BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 6/2011

28




ần bốn năm tham gia công tác
trong tổ chức phi chính phủ hỗ trợ phát
triển dự án thư viện học đường cho một số
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tôi luôn
nhận thấy nhu cầu đọc của các em học sinh
rất lớn, nhưng việc tạo dựng môi trường
đọc cho các em ở vùng miền quê sông
nước này vẫn còn quá nhiều trở ngại. Nếu
các rào cản không được tháo gở nhanh
chóng, thì sự thi
ệt thòi của các em ở lứa
tuổi đang cần rèn luyện thói quen đọc sẽ
càng ngày tụt hậu tạo khoảng cách ngày
càng lớn về kĩ năng đọc giữa trẻ thành thị
và nông thôn. Đó là những rào cản nào và
cần cải thiện ra sao?

1. Trẻ không đọc vì không có
chỗ đọc
Khi tôi dạy môn Thư viện Thiếu nhi
ở Đại học Sài Gòn, ngày đầu tiên tôi cho
sinh viên viết về một thư viện thiếu nhi
tương lai theo sự tưởng tượng của mình.
Đọc các bài viết của các em mà tôi không


cầm được nước mắt. Những ước mơ bay
bổng của các em về một môi trường đọc
hoàn hảo cho các học sinh nhỏ bắt đầu từ
quá kh
ứ tuổi thơ mà không hề biết đến thư
viện (TV) trường là gì. Trên suốt tuyến
đường công tác có các trường thuộc dự án
của tổ chức tôi tham gia thì hình ảnh mà
sinh viên tôi trãi qua cách đây mười mấy
năm vẫn còn tồn tại. Nếu gia đình không
có tiền mua sách thì trung tâm đô thị vẫn
có nhà sách khang trang cho các em chốn
đô thành vào đọc. Còn ở miền quê, một
quầy bán sách báo đã là tìm không ra thì
làm sao có chỗ nào khác để đọc. Đa số các
trường,
đặc biệt là trường tiểu học, TV hầu
như không có dinh cơ riêng biệt mà đều
sống chung với các phòng chức năng khác:
đoàn đội, thiết bị, y tế, vv… trong một
diện tích eo hẹp thì làm sao có chỗ để các
em thoải mái thưởng thức sách báo. Nếu
một số ít trường có dinh thự riêng, thì cách
bố trí, trưng bày, trang thiết bị đặt để trong
TV thì không những không phù hợp với
học sinh mà còn lấn chiếm khá nhiều diện
tích c
ủa phòng TV. Một số TV chỉ có
phòng diện tích 20m2 trong khi có hẳn
siêu thị tuổi thơ rộng và nằm ngay mặt tiền

của cổng vào trường. Ở một số trường, TV
chỉ có 48m2 nhưng đầy kệ, tủ bàn trong
đó, và chỉ còn lại một ít chỗ trống cho HS
và đọc nhưng nhà ăn của trường thì lên
đến cả 200m2. Các trường 200 học sinh
theo học thì TV cũng chỉ có diện tích như
trường có cả h
ơn 2000 học sinh. Không có
văn bản nào quy định rõ ràng về diện tích
thư viện phải tính theo số học sinh (HS)
theo học. Thậm chí chỗ ngồi trong TV, các
trường bám chặt vào văn bản hướng dẫn
của Bộ Giáo dục và tự cho là 25 chỗ tối
thiểu cho HS phải là 25 ghế. Một phòng
TV chỉ có 48m2 mà phải chứa 25 bàn cùng
với ít nhất 5 bàn dài ghép lại thì rõ ràng
còn chỗ nào mà di chuyển để tham gia
hoạt động. Tuy nhiên, việc làm rõ quy
định trên các trườ
ng vẫn chưa được hướng
dẫn kĩ lưỡng. Việc ghép chung chỗ ngồi
đọc của giáo viên với HS cũng là một yếu
tố làm HS thấy ngần ngại vào ngồi đọc mà
trong phòng đang có thầy cô. Trường nào
LÀM THẾ NÀO ĐỂ THU NGẮN KHOẢNG CÁCH VỀ KĨ
NĂNG ĐỌC GIỮA TRẺ THÀNH THỊ VÀ NÔNG THÔN?

NGUYỄN TẤN THANH TRÚC,
MS.


Quản lí thư viện – Trường Quốc tế Anh Việt (British Vietnamese International School)
Giảng viên Khoa Thư viện-Thông tin Trường Đại học Sài Gòn
G
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 6/2011

29
cũng cố gắng có 1 tủ mục lục chễm chệ đặt
ngay vị trí dễ nhìn nhất, nhưng tôi tự hỏi
suốt cả năm học, ai sẽ là người tra cứu tủ
mục lục này, vậy mà cái tủ ấy vẫn phải đâu
tư dù rất tốn tiền và tốn công để làm phích
thẻ mục lục. Theo một phỏng vấn nhỏ
được một thầy hiệ
u trưởng cho biết, tủ
cũng đã tốn hơn 1,4 triệu cộng với chi phí
mua giấy cứng và in phích thẻ cũng ngót
hơn 5-7 triệu tùy theo sổ bản sách mà TV
có. Không ai sử dụng nhưng những chiếc
tủ ấy vẫn nghiễm nhiên chiếm chỗ đọc của
HS trong TV. Ai cũng biết nhưng không ai
dám thay thế bằng máy tính có phần mềm
quản lí TV có chức năng tra cứu mục lục
vì lo không đạt chuẩ
n kiếm tra TV. Một số
trường cải tiến bằng mô hình TV treo, TV
lớp. Tuy nhiên tất cả dường như chỉ là
phong trào theo thời gian thì các chai lọ
treo sách hầu như không còn sách, các bệ
xi măng cho các em ngồi đọc dưới cái
nắng gay gắt mỗi năm nóng hơn thì không

phải là chỗ ngồi đọc thoải mái cho các em
nữa. Các TV lớp èo uột vài cuốn sách treo
trên một sợi dây căng, hay để trong thùng
nhựa, hay để trên một cái kệ nhỏ không
phải là nơi thu hút các em đến đọc hàng
ngày vì quá ít sách để đọc suốt cả một năm
học. Sự cập nhật kiến thức về quy hoạch
TV trường học, trang thiết bị cơ sở vật
chất, tự động hóa trong TV trường học đã
đến lúc phải có một quyết định đầu tư vật
chất bằng văn bản hướng dẫn cụ thể và
trang b
ị kiến thức cho lãnh đạo nhà trường
và thủ thư.

2. Trẻ không đọc vì không có gì
để đọc
Trong một cuộc vận động sáng tác
phát động cho 5 tỉnh Đồng bằng Sông Cửu
Long dành cho thiếu nhi viết về quyển
sách mà em yêu thích nhất, ban giám khảo
rất đỗi ngạc nhiên vì gần như 80% bài dự
thi viết về quyển sách giáo khoa mà các
em đang học. Kết quả đó phản ánh tình
trạng các em đói sách và khát thông tin mà
không ai bù đắp cho các em. Đa phần kinh
phí bổ sung tập trung vào đồ dùng trang
thiết bị
dạy học, nhưng không có tiền bổ
sung sách. Và việc mua sách chỉ ưu tiên

cho sách giáo viên. Có nhiều trường một
năm kinh phí 500,000 đồng mua sách cũng
không biết xoay xở từ đâu bây giờ. Hầu
hết các trường không thể trả lời câu hỏi
một năm nhà trường dành ra tỉ lệ kinh phí
bao nhiêu để mua sách cho HS. Nhiều
trường cùng phát động phong trào “Góp
một quyển sách để đọc ngàn quyển sách”
thực tế là hầu hết các trường ch
ỉ thu được
sách truyện tranh rẻ tiền trôi nổi trên thị
trường không kiểm soát được nội dung.
Các dãy kệ của TV cũng đầy sách, nhưng
hầu hết là sách GK và sách dành cho giáo
viên, sách truyện đọc và thông tin cho các
em quá ít ỏi. Có nhiều trường sách vàng ố,
giòn nát vẫn chiếm kệ tạo một mùi mốc
ẩm trong TV nhưng Ban giám hiệu vẫn
không dám chỉ đạo thanh lí, vì nếu thanh lí
thì không có kinh phí để bổ sung thay thế .
Điều này sẽ ảnh hưởng đến
điểm công
nhận chuẩn TV nếu không đảm bảo số
lượng sách. Trong TV, một tờ báo dành
riêng cho tuổi nhi đồng hay thiếu nhi thì
không phải trường nào cũng có. Trong khi
các em ở thành thị có thể mua mỗi em một
tờ báo thì cả trường các vùng quê cũng
không có được 1- 2 tờ dành cho các em.
Đa số các trường không muốn HS mượn

sách về nhà đọc, vì lo các em chân tay dơ
bẩn, nhà thì không có chỗ cất sách đàng
hoàng và sách sẽ dễ bị mất hay rách hoặc
b
ị dơ bẩn. Nhà không có sách, TV địa
phương cũng không có sách, trường không
có sách thì làm sao các em làm quen với
sách báo, với con chữ tốt được. Sự đói
sách của các trường đã đến mức báo động,
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 6/2011

30
đã đến lúc cần có chuẩn mực kiểm tra mới,
không chỉ dựa vào con số 2.500 bản sách
tổng số, mà phải dựa vào số sách mới được
bổ sung hàng năm là bao nhiêu, chiếm tỉ lệ
bao nhiêu kinh phí hoạt động nghiệp vụ
của trường. Trong số sách bổ sung mới
hàng năm, tỉ lệ cơ cấu mua là bao nhiêu
cho sách hỗ trợ giảng dạy, sách GK, sách
thông tin và sách truyện cho các em học
sinh. Kiến thức về cách ch
ọn sách cho
thiếu nhi, hiểu biết về các thể loại văn học
thiếu nhi, xu hướng xuất bản sách thiếu
nhi trên thị trường đối với thủ thư hầu như
là con số không. Trường có cái gì cho HS
đọc là cần thiết và đem đến cái hay cái đẹp
cho các em đọc lại càng quan trọng hơn
nữa. Chính vì vậy, tập huấn đào tạo thủ

thư có kiến thức và kĩ năng chọn sách là
điều ưu tiên và điều chỉnh các chuẩn công
nhận thư viện đạt chuẩn.

3. Trẻ không đọc vì thiếu thời
gian để đọc
TV trường cũng chỉ mở cửa phục vụ
theo giờ các em đi học, nên thực sự các em
học hai buổi thì cơ hội đến TV đọc có thể
là được 30 phút mỗi ngày; tuy nhiên đa số
các trường miền quê cũng chỉ học một
buổi, nên thực tế các em chỉ có thể đọc tại
TV 15 phút/ ngày. Thời gian đọc quá ít ở
trường thì làm sao trách các em chỉ thích
đọc truyện tranh. Không có sách từ ba mẹ
hay bà con cho, không có sách trường cho
mượn về thì thời gian rảnh rỗi của trẻ hầu
như không phải là dành cho việc đọc sách.
Cá biệt có trường phản ánh là phụ huynh
không đồng ý cho TV cho trẻ mượn sách
đọc ở nhà chỉ vì con họ cần nhiều thời gian
để học thêm, học năng khiếu, và không
phải phụ huynh nào cũng biết được là đọc
cũng là một cách họ
c tốt. Trong khi các
trường quốc tế đều có nhiều góc đọc sách
khác nhau, có nhiều giờ tự đọc, tự tìm hiểu
thông tin , giờ đọc sách có hướng dẫn, thì
trong thời khóa biểu của các em học sinh
hầu như khái niệm giờ đọc tự do, hay đọc

độc lập không hề có khái niệm trong nhà
trường. Sổ liện lạc của các trường quốc tế
trên các trang đầu tiên để có những thông
điệp về tầ
m quan trọng của chương trình
đọc sách ở nhà cho các em, hướng dẫn phụ
huynh biết cách đọc cùng con cái và tạo
không gian, thời gian cho con em mình
đọc sách ở nhà như thế nào. Trong các văn
bản hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ Giáo
dục-Đào tạo về công tác phục vụ đọc sách
hè cũng đã có được nhắc đến, nhưng có
trường nào làm được chuyện đó. Gần hai
tháng nghỉ hè, không có sách vở, mất hai
tháng nhìn vào con chữ, c
ấu trúc câu, sẽ là
một cản trở lớn đến việc rèn kĩ năng đọc bị
ngắt quãng hàng năm của các em. Thời
gian đọc sách của các em rất quan trọng
trong suốt quãng đời cho đến cả sau này và
đó là một yếu tố quan trọng tối cao để các
em trở thành người học tập suốt đời.
Không có thói quen sử dụng thời gian rỗi
để đọc, không có nhận thức mỗi ngày 15
phút để
đọc, không có nhận thức được đọc
không chỉ đọc sách giáo khoa, đọc không
chỉ là để học thi cử mà đọc để mở mang
kiến thức, để cập nhật thông tin, để thư
giãn giải trí; không có ai để nhắc nhở các

em hôm nay có đọc sách chưa, đã đọc cái
gì và đọc hiểu ra sao thì không thể nào
trách được vì sao người Việt Nam không
có thói quen hay văn hóa đọc sách như ớ
các nước phương Tây. Các trường phải
tạo thờ
i gian đọc sách tự do trong thời
khóa biểu, phải tạo điều kiện kho sách có
đủ và đa dạng và đừng lo mất sách hay dơ
sách để tạo cho các em có cơ hội thêm thời
gian đọc sách ở nhà, nên có chương trình
phục vụ đọc sách hè hay trong các dịp nghỉ
lễ dài ngày để các em giữ được thói quen
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 6/2011

31
sử dụng thời gian rỗi cho việc đọc và
không mất đi các kĩ năng đọc tốt.

4. Trẻ không thích đọc vì không
có ai hướng dẫn đọc
Học sinh Việt Nam sẽ gặp khá nhiều
thiệt thòi, vì suốt các chương trình học từ
cấp 1 đến cấp 3, các em không được chú
trọng hướng dẫn học và thực hành các kĩ
năng đọc. Các giờ tập đọc của các em hồi
cấp 1 chủ yếu sẽ bám vào các bài tập đọc/
kể chuyện trong sách giáo khoa. Khác biệt
hẳn với môi trường ấ
y, các em học trường

quốc tế sẽ được tham gia rất nhiều hoạt
động đọc lí thú hấp dẫn. Các em có góc
TV lớp để có thể đọc bất cứ lúc nào muốn
từ truyện tranh, sách thông tin đến sách
truyện sáng tác. Và các sách trong thư viện
lớp phải được chọn lọc đánh giá theo các
tiêu chí để trở thành là “the best ones”
trong tất cả các thể loại đọc. Các em được
đọc theo yêu cầu thông tin liên quan đến
các bài học để thực hi
ện các đề án nhỏ.
Các em được học cấu trúc của các loại
sách, đặc biệt là sách tra cứu tham khảo và
biết cách sử dụng hiệu quả. Các em được
học, phân tích và trãi nghiệm sáng tác, viết
các thể loại văn bản mà các em thường gặp
trong cuộc sống từ truyện ngụ ngôn, cổ
tích, thần thoại, kịch bản sấn khấu, kịch
bản báo chí, sách thông tin, từ điển, thông
tin điện t
ử…Các em có những bộ sách
phân loại theo trình độ đọc để mượn về
nhà đọc và được đánh giá lại trình độ đọc
theo những bài kiểm tra quan sát của các
giáo viên môn ngôn ngữ. Các em có những
giờ đọc tự do theo hướng dẫn của giáo
viên để theo dõi sự lưu loát, đọc hiểu
thông thạo nội dung của các loại sách khác
nhau. Các nhật kí đọc sách là yêu cầu bắt
buộc của nhà trường đối với gia đình, để

phụ huynh giúp đỡ các bé hoàn thành việc
đọc ở nhà. Rèn luyện kĩ năng đọc cho học
sinh là yếu tố quan trọng để giúp các em
làm quen với tất cả các loại văn bản, và
đọc và hiểu ý nghĩa, cấu trúc, từ ngữ, và
các hướng dẫn hay hàm ý trong đó. Thư
viện là môi trường hướng dẫn các em về
cách sử dụng thông tin thông thạo, các giờ
đọc sách to, kể chuyện theo suốt thời đi
học của các em t
ừ lớp mầm đến hết cấp 1.
Các em còn được hướng dẫn các nguồn
thông tin điện tử và trực tuyến, biết cách
định vị, khám phá thông tin, biết cách so
sánh, đối chiếu phân tích thông tin và cách
tổng hợp trình bày thông tin hiệu quả. Sự
tổng hòa chương trình hướng dẫn đọc là
môi trường bền vững giúp các em tự tin
trở thành người đọc độc lập và có khả
năng tự học trong tương lai. Ở đ
ây chúng
ta chỉ ước sao, giá như học sinh miền quê
mình cũng được hưởng lợi ít nhất một hoạt
động trong số đó.

5. Trẻ không đọc vì không có ai
khuyến khích đọc
Nếu các em ở thành thị đi ra đường
sẽ rất dễ dàng bắt gặp một quầy/ sạp báo
nhỏ, đó cũng là hình ảnh để giúp các em

hiểu ra nhu cầu đọc báo là hằng ngày của
mọi người dân. Nhưng hình ảnh ấy khó có
thể tìm được ở chốn nông thôn. Nếu các
em ở thành thị có cơ hội cuối tuần hay sau
giờ họ
c được ba mẹ ông bà đưa đến các
nhà sách lớn thì hẳn như các em sẽ làm
quen với tất cả sự diễn biến của mọi mặt
hàng sách. Các em cũng chứng kiến và
quan sát tất cả khách hàng trong nhà sách
ấy từ cụ già, đến các chú bác, hay các anh
chị và các bạn đồng trang lứa hày các em
nhỏ quây quần bên các người bạn sách. Ở
các miền quê tìm ra được ở trung tâm một
nhà sách là quý hóa lắm rồi, làm gì có đến
2-3 nhà sách để giúp các gia đình thuận
ti
ện đến hơn. Những bảng quảng cáo bảng
hiệu lớn ngập tràn hình ảnh và con chữ
BẢN TIN THƯ VIỆN - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÁNG 6/2011

32
giăng trên các con đường hay trong các
siêu thị cũng là cơ hội cho các bé mới tập
đọc vui vẻ thích thú khi thấy mình có thể
tự đọc được. Các tựa báo ở thành thị cũng
phát hành phong phú hơn ở miền quê, nên
việc một gia đình có thu nhập thấp ở thành
phố cũng dễ dàng tìm cho con một món
quà cuối tuần là một tờ báo, còn ở nông

thôn việc phát hành báo cho thiếu nhi cũng
là điều hiếm hoi. Nếu thành thị các em còn
được s
ự hỗ trợ các mạng lưới thư viện địa
phương từ thư viện trung tâm đến thư viện
huyện hay các tủ sách khu phố văn hóa,
hay các thư viện của các nhà thiếu nhi từ
thành phố đến quận huyện, thì chúng ta
hãy đi tham quan một vòng để biết khoảng
cách giữa các cấp độ thư viện cộng đồng ở
các tỉnh thành, thế mới biết khoảng cách
thiệ
t thòi của trẻ nông thôn chịu đựng là
lớn đến mức nào. Các phong trào văn
nghệ, thi học sinh giỏi toán, Anh văn,
Olympic, dũng sĩ kế hoạch nhỏ được phát
động và hưởng ứng sôi động, thế nhưng
các nhà trường hầu như đều không hề có
phong trào Sao đọc sách. Các phần thưởng
cuối năm hầu như không phải là món quà
là sách như những năm của thời học sinh
chúng tôi vẫn mê tít, mà chỉ là món quà
như
cặp, tập, sách giáo khoa,.. các hội thi
vẽ tranh theo sách, kể chuyện theo sách,
tuyên truyền giới thiệu sách hầu như các
tỉnh đầu tư không dưới 20 triệu, thế nhưng
sân chơi ấy dành cho ai? Thực tế, sân chơi
ấy chỉ cho một số ít em có sẵn năng khiếu
hội họa, biểu diễn,vv ... Thực ra các em đã

được người lớn dạy cách nói của người
lớn, vẽ theo cách suy nghĩ của người l
ớn.
Nếu một cuộc thi thực sự thì phải là đề tài
tự do phải được nhận ngay tại chỗ. Đọc-
Cảm thụ-Rung động và xuất tác thành thơ,
thành bài viết hay thành tác phẩm mĩ thuật
thì mới thật là sân chơi cho tài nghệ đọc và
sáng tạo đúng nghĩa. Hơn nữa, sân chơi ấy
nhiều khi năm này qua năm khác cũng chỉ
có chừng đó số ít các em tham gia. Vấn đề

đây là làm sao hoạt động đọc và sáng tạo
ấy đi vào nề nếp thường xuyên và phục vụ
cho các em đủ mọi lứa tuổi tham gia và
tiền đầu tư cho các cuộc thi đó được đổi
thành kinh phí đầu tư việc bổ sung sách
cho thiếu nhi ở các thư viện địa phương
hay trường học thì sẽ hay biết bao! Hình
ảnh ba mẹ, ông bà đọc sách báo ở nhà,
thầy cô đọc sách ở trường sẽ là thông đi
ệp
tuyệt vời để các em mong muốn và làm
theo thói quen như vậy. Những lời dặn dò
của thầy cô đầu hay sau giờ học hay trong
giữa giờ có nhắc đến các câu chuyện đi từ
các quyển sách cũng sẽ là chất xúc tác
mạnh mẽ đế thôi thúc các em tìm đến
những quyển sách ấy mà thưởng thức.
Những giờ sinh hoạt dưới cờ năm xưa của

chúng tôi đôi khi cả sân trường l
ặng đi vì
thầy hiệu trưởng hay cô hiệu phó kể lại
một câu chuyện từ sách và sau đó là lời
khuyên nhủ chúng tôi hãy rèn thói quen
đọc sách. Lời nói ấy vang lên từ chính ban
giám hiệu sẽ có sức mạnh của lòng yêu
thương và quan tâm đến con trẻ của các
lãnh đạo nhà trường, nó có sức thôi thúc
rất lớn đối với học sinh.
Dạy các em có kĩ năng đọc tốt, không
phải việc dễ làm. Tập các em có thói quen
đọc không phải ngày m
ột ngày hai theo
phong trào và chúng ta tự yên tâm nghĩ
rằng chúng ta có làm rồi. Cần có sự bền bỉ,
quyết tâm, làm và đánh giá, thay đổi cách
làm để phù hợp hơn. Tôi chỉ tự nghĩ việc
giúp các em thành người đọc tốt là sự
nghiệp rất quan trọng của xã hội Việt Nam
ngày nay nếu chúng ta muốn tiến tới một
thế hệ công dân thuộc về xã hội thông tin.
Tôi xin mượn lời “Đời các em thay đổi khi
chúng ta thay đổi”. Vấ
n đề là khi nào
chúng ta sẵn sàng, sẵn lòng và dám thay
đổi.

×