Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Tư tưởng triết học về con người trong thơ ca việt nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.84 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
---------------------------------------------------

PHẠM THỊ THU PHƢƠNG

TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON
NGƢỜI TRONG THƠ CA VIỆT NAM
TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIX

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHẠM THỊ THU PHƢƠNG

TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC VỀ CON
NGƢỜI TRONG THƠ CA VIỆT NAM
TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIX
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : Triết học
Mã số

:60220301


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

TS. Vi Thái Lang

HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN!
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban chủ nhiệm khoa Triết học,
Phòng Đào tạo sau đại học, các Quý Thầy Cô giáo đã giảng dạy, trang bị
những kiến thức quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt
quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin đƣợc bày tỏ lời cảm ơn tới
thầy giáo, TS. Vi Thái Lang - ngƣời đã khuyến khích và tận tình chỉ dẫn cho
tôi trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu này.
Xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu và tập thể đồng nghiệp nơi tôi
công tác - Trƣờng THPT Sóc Sơn - đã luôn tạo điều kiện tốt cho tôi học tập
trong toàn khóa học.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình và bạn bè đã luôn động viên,
hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2015
Tác giả

Phạm Thị Thu Phương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn
trích dẫn và số liệu sử dụng trong luận văn đều đƣợc dẫn nguồn và có độ

chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 12 tháng 11 năm 2015
Tác giả

Phạm Thị Thu Phương
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

UNDP:

United Nations Development Programme

HDI:

Human Development Index


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề....................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................. 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.................................................................................. 7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu................................................................. 7
6. Đóng góp của luận văn.......................................................................................................... 7
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn................................................................... 8
8. Kết cấu của luận văn............................................................................................................... 8

Chƣơng 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM THƠ CA VIỆT
NAM TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIX....................................................... 9
1.1. Điều kiện, tiền đề cho sự ra đời tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong
thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX................................................... 9
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội......................................................................................... 9
1.1.2. Điều kiện chính trị.................................................................................................... 12
1.1.3. Tiền đề văn hóa - tƣ tƣởng.................................................................................. 14
1.2. Đặc điểm thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.................24
1.2.1. Một số quan niệm về “thơ” và “thơ ca”...................................................... 24
1.2.2. Sự phát triển của thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế
kỷ XIX............................................................................................................................................ 28
Chƣơng 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌCVỀ CON
NGƢỜI TRONG THƠ CA VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ
KỶ XIX................................................................................................................................................ 31
2.1. Tƣ tƣởng về sự sinh thành và bản tính con ngƣời.......................................... 31
2.1.1. Về sự sinh thành con ngƣời................................................................................. 31


2.1.2. Về bản tính con ngƣời............................................................................................ 36
2.2. Tƣ tƣởng về mối quan hệ giữa con ngƣời và thế giới.................................. 39
2.3. Tƣ tƣởng về đối nhân xử thế...................................................................................... 43
2.3.1. Tƣ tƣởng về mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời..................43
2.3.2. Tƣ tƣởng nhân nghĩa.............................................................................................. 47
2.3.3. Tƣ tƣởng vô sự.......................................................................................................... 52
2.4. Một số giá trị của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca ViệtNam

từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX..................................................................................... 57
2.4.1. Những giá trị tích cực của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ

ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX........................................................ 57

2.4.2. Những hạn chế của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca
Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.............................................................. 60
2.4.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy những giá trị tích cực và khắc
phục những mặt tiêu cực của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca

Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đối với quá trình xây dựng con
ngƣời mới Việt Nam.............................................................................................................. 62
KẾT LUẬN........................................................................................................................................ 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................ 70


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con ngƣời là vấn đề trung tâm của mọi nghiên cứu khoa học. Qua
nghiên cứu, các nhà khoa học đã phát hiện ra rất nhiều điều lý thú về con
ngƣời. Trong quá khứ, hiện tại và mãi mãi về sau, con ngƣời vẫn là một đề tài
phong phú, hấp dẫn cho mọi lĩnh vực nghiên cứu, nhất là triết học và các khoa
học nhân văn.
Trung Quốc và Ấn Độ đƣợc coi là cái nôi của văn minh nhân loại. Đồng
thời, đây cũng là trung tâm ra đời những tƣ tƣởng triết học về con ngƣời.
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà tƣ tƣởng có nghiên cứu về thế giới tự
nhiên, nghiên cứu về quỷ thần.v.v. nhƣng cũng chỉ nhằm mục đích lý giải
cuộc sống và số phận con ngƣời trong thế giới này với tất cả những hạnh
phúc, đau khổ, niềm tin, khát vọng của chính con ngƣời. Việt Nam là quốc
gia chịu ảnh hƣởng nhiều từ hai nền văn minh Trung Quốc và Ấn Độ, do đó,
cũng đã kế thừa đƣợc khá nhiều thành tựu trong lĩnh vực văn hóa, tƣ tƣởng.
Trƣớc đây, Việt Nam có truyền thống văn, sử, triết bất phân. Triết học ở
Việt Nam chƣa giữ vai trò là một môn khoa học độc lập. Các tƣ tƣởng, các
học thuyết triết học chủ yếu ẩn chứa bên trong các tác phẩm văn học, sử
học.Vì vậy, việc tìm hiểu vấn đề quan niệm triết học về con ngƣời trong thơ

ca là một trong những góc độ nghiên cứu nhằm làm nổi bật lên tƣ tƣởng của
các bậc tiền bối, giúp thiết lập đƣợc chiếc cầu nối giữa ngƣời xƣa và ngƣời
sau.
Quan niệm về con ngƣời trong thơ ca, tuy không đồng nhất với con
ngƣời trong triết học nhƣng lại có những ảnh hƣởng nhất định. Con ngƣời
trong thơ ca là hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời, nó khác với con ngƣời
theo quan niệm của triết học. Thế nhƣng, xét trong tính tổng thể, cả triết học
và văn học đều là những hình thái ý thức xã hội nên không thể không có

1


những nguồn gốc tƣơng đồng. Vì thế, những quan niệm về con ngƣời trong
thơ ca Việt Nam luôn chịu sự quy định của các quan niệm chính trị, xã hội và
tƣ tƣởng triết học đƣơng đại.
Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu, rộng với quốc tế, vấn đề văn
hóa, lối sống của con ngƣời Việt Nam đang bị tác động, lay chuyển nhanh
chóng cả về những mặt tích cực và những yếu tố tiêu cực. Những giá trị nhân
văn truyền thống hàng ngàn năm của con ngƣời Việt Nam đang có nguy cơ bị
biến dạng, bị mai một theo năm tháng. Một số giá trị thực dụng, chạy theo lối
sống thiên về vật chất tầm thƣờng đang đƣợc hình thành;.v.v. Vì lẽ đó, những
giá trị về đạo đức làm ngƣời, đạo lý Thánh hiền;.v.v. cần đƣợc tìm hiểu, khơi
dậy để đánh thức và đƣa con ngƣời trở lại với “con ngƣời” nhân văn phƣơng
Đông và đặc thù Việt Nam.
Từ trƣớc đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề con ngƣời ở
các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề quan niệm về con ngƣời trong thơ
ca đƣợc xem xét dựa trên cơ sở tƣ duy triết học vẫn còn khá mới mẻ và chƣa
đƣợc tập hợp quy mô, hoàn chỉnh. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Tư tưởng triết học
về con người trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX” làm
đề tài nghiên cứu nhằm đạt đƣợc những kết quả mới có ý nghĩa.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
Con ngƣời luôn là đề tài hấp dẫn đối với mọi khoa học. Vấn đề quan niệm
về con ngƣời ngày càng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới. Theo thời gian, số lƣợng các công trình nghiên cứu ngày càng tăng lên. Giá
trị ẩn chứa trong các quan niệm về con ngƣời vì thế cũng ngày càng đƣợc khám
phá dƣới nhiều góc độ. Điều này tạo cơ hội cho những ngƣời đi sau có một nền
tảng kiến thức vững chắc để kế thừa. Song, nó cũng đặt ra thách thức là phải làm
sao để không dẫm lên lối mòn khoa học của ngƣời đi trƣớc.

Xung quanh vấn đề quan niệm về con ngƣời, đã có nhiều công trình

2


khoa học trong nƣớc và cả nƣớc ngoài nghiên cứu.Trong khuôn khổ luận văn
này, tác giả chỉ chọn những công trình gần với đề tài nghiên cứu để phân tích,
xem xét và kế thừa.
-

Trong cuốn“Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam”của Trần

Đình Sử ở phần “Sự vận động và phát triển của con ngƣời trong thơ Việt
Nam trung đại”, ông cho rằng, qua các giai đoạn văn học, dƣới ảnh hƣởng của
tƣ tƣởng chính thống và hoàn cảnh lịch sử xã hội mà con ngƣời trong thơ trung
đại cũng có sự thay đổi. Từ con ngƣời sử thi trong thơ Trần Quang Khải, Phạm
Ngũ Lão, Đặng Dung;.v.v. với tình cảm yêu nƣớc có sức lay động mãnh liệt đến
con ngƣời khí tiết biết giữ mình trong sạch, biết ứng xử trƣớc thời thế dƣới sự
chỉ dạy của Nho giáo. Bƣớc sang giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII cùng
với sự ra đời của thơ chữ Nôm, con ngƣời trong thơ cũng mở rộng về giá trị
riêng tƣ, trần tục, ít quan phƣơng hơn so với giai đoạn trƣớc. Trong khi đó, theo

bƣớc đi của lịch sử, cùng với sự suy thoái của xã hội phong kiến, sự trỗi dậy của
ý thức cá nhân nên con ngƣời trong thơ giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ
XIX lại nghiêng về những khát khao trần tục.

-

Trong cuốn “Về con ngƣời cá nhân trong văn học cổ Việt Nam” của

nhóm nghiên cứu Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc
Vƣơng, Trần Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân, qua chƣơng “Sáng tác thơ ca
thời cổ và sự thể hiện cái tôi tác giả”, các nhà nghiên cứu đã phân tích một
cách cụ thể những vẻ đẹp của tâm hồn con ngƣời trong mối tƣơng quan với
thiên nhiên, xem thiên nhiên nhƣ thƣớc đo nhân cách của nhà Nho. Đồng thời
trong công trình này, nhóm nghiên cứu cũng đề cập một cách khái quát về con
ngƣời cá nhân trong thơ, biểu hiện những vẻ đẹp về nhân cách.
-

Giáo sƣ Lê Trí Viễn trong công trình “Đặc trƣng văn học trung đại Việt

Nam” có giới thuyết về khả năng nhận thức trƣớc tự nhiên của con ngƣời

trung đại. Tác giả vạch ra ba dạng cảm thức: con ngƣời thấy mình trong tự

3


nhiên, thấy trong con ngƣời mình có cả vũ trụ, nhìn sự vật trong thế giới để
thấy một ngụ ý hay một lời giáo huấn. Tiếp đến, tác giả đi vào giới thiệu cảm
thức về thời gian và không gian của con ngƣời thời trung đại, từ đó đi đến
khẳng định thế giới và con ngƣời là một.

-

“Con ngƣời nhân văn trong thơ ca sơ kì trung đại” của Đoàn Thị Thu

Vân là công trình trực tiếp đề cập đến vấn đề con ngƣời nhân văn trong thơ
Nguyễn Trãi. Để không lặp lại những điều mà các nhà nghiên cứu đã nhận
định về con ngƣời siêu việt ấy, tác giả chỉ xoáy sâu vào khía cạnh một con
ngƣời biết tìm niềm vui sống, thể hiện trong cách sống giản dị mà tự do
phóng khoáng, gần gũi với thiên nhiên vạn vật và con ngƣời lao động.
- Luận văn thạc sĩ “Văn học thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII trong
tiến
trình văn học trung đại Việt Nam”(2004) của tác giả Nguyễn Thanh Hoài cũng
đã có những luận bàn về vấn đề con ngƣời trong phần “Nội dung văn chƣơng
nhà Nho ẩn dật thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVIII”. Nhờ sự xuất hiện của các
nhà Nho ẩn dật này mà văn học Việt Nam đã có những bƣớc phát triển mới về
mặt nội dung, đặc biệt là những nội dung xoay quanh con ngƣời, góp phần
làm phong phú hơn cho hệ tƣ tƣởng Việt Nam thời kỳ trung đại.
-

Trong cuốn luận văn tốt nghiệp “Vấn đề con ngƣời trong triết học

Trung Hoa cổ đại” (2009) của tác giả Mai Thị Cẩm Nhung đã trình bày một
cách hệ thống các quan điểm của Nho gia, Đạo gia và Pháp gia về vấn đề con
ngƣời. Hệ thống quan điểm này đã giúp tôi có thêm đƣợc cơ sở lý luận để
xây dựng nên các luận điểm về con ngƣời phƣơng Đông nói chung và con
ngƣờiởViệt Nam nói riêng.
- Luận văn thạc sĩ “Con ngƣời nhân văn trong tiến trình văn học trung
đại qua thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du” (2010)của tác
giả Nguyễn Thị Huyền Thƣơng đã có những khám phá khá mới mẻ về vấn đề
con ngƣời trong thơ ca Việt Nam thời kỳ trung đại. Luận vănđã trình bày một


4


cách có hệ thống những khía cạnh về con ngƣời nhân văn đƣợc thể hiện qua
tƣ tƣởng của ba nhà thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Du.
Qua đó, ngƣời đọc có đƣợc hình dung về quá trình vận động, phát triển của
con ngƣời qua các chặng đƣờng của văn học trung đại.
- Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về sự phát triển con ngƣời, lấy đó làm cơ sở lý luận, phƣơng pháp luận
cho nghiên cứu về sự nghiệp giải phóng, xây dựng và phát triển toàn diện con
ngƣời Việt Nam. Đó là các công trình: “Tƣ tƣởng về sự giải phóng con
ngƣời trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của Trần Hữu Tiến, trích trong
“Sống mãi với Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội (1998), “Quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen về con ngƣời và sự
nghiệp giải phóng con ngƣời”, của Bùi Bá Linh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội (2003);.v.v.
-

Cũng có một số ngƣời đi vào nghiên cứu các khía cạnh xã hội khác

nhau về con ngƣời nhƣ về chính sách y tế, giáo dục, chính sách xóa đói, giảm
nghèo.v.v. từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm phục vụ các yêu cầu về
phát triển con ngƣời mới. Có thể kể ra các công trình nhƣ: “Về phát triển
toàn diện con ngƣời thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Phạm Minh
Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2001); “Tính tƣơng thích giữa phát
triển giáo dục và phát triển kinh tế trong phát triển con ngƣời ở Việt Nam”
của Đặng Quốc Bảo, trong tạp chí Nghiên cứu con ngƣời, số 2, (2002); “Nhà
nƣớc và sự phát triển con ngƣời trong quá trình đổi mới ở Việt Nam” của Bùi
Tất Thắng trong tạp chí Nghiên cứu con ngƣời, số 2, (2002);.v.v.
- Vấn đề phát triển con ngƣời và xác định nội hàm của khái niệm “phát

triển con ngƣời” đƣợc UNDP (United Nations Development Programme) đƣa ra
vào năm 1990 trong “Báo cáo phát triển con ngƣời” (Human Development
Report - HDR). Hàng năm “Báo cáo phát triển con ngƣời” của UNDP đƣợc

5


xuất bảnđể đánh giá những thành tựu và hạn chế của các quốc gia về phát
triển con ngƣời, nghiên cứu những cơ hội và thách thức cũng nhƣ trao đổi
những kinh nghiệm về phát triển con ngƣời trên phạm vi thế giới vì sự tiến bộ
và văn minh của nhân loại. Đây là tài liệu hữu ích phục vụ cho quá trình tác
giả của luận văn này nghiên cứu về định hƣớng phát triển con ngƣời sao cho
phù hợp với những yêu cầu của thời đại.
Cùng với sự phát triển của lịch sử nhân loại, các trào lƣu triết học, các
tôn giáo ra đời. Các nhà tƣ tƣởng, các triết gia, các tôn giáo lớn nhƣ Nho
giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo;v.v. đều đem con ngƣời ra để luận giải theo
những quan niệm riêng của mình.
Nhìn chung, các công trình đều khẳng định nghiên cứu vấn đề con ngƣời
mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Vấn đề con ngƣời trong triết học và quan
niệm về con ngƣời trong thơ ca trung đại Việt Nam đã đƣợc các nhà nghiên
cứu đề cập trên nhiều bình diện khác nhau. Nhƣng để đánh giá đúng đắn, sâu
sắc vấn đề vẫn cần có những chuyên đề đi sâu vào các tác phẩm với những
nội dung cụ thể.
3.

Mục đích và nhiệm vụ

nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên
cứu
Lý giải những tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam giai


đoạn từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.
Hệ thống hóa và phân tích một số nội dung cơ bản của tƣ tƣởng triết học
về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.
Trên cơ sở đó, chỉ ra một số giá trị của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời
trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đối với việc xây
dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích những điều kiện, tiền đề ra đời tƣ tƣởng triết học về con ngƣời

6


trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.
Đi sâu lý giải một số nội dung của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong
thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX.
Chỉ ra ý nghĩa của tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt
Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đối với việc xây dựng và phát triển
con ngƣời Việt Nam hiện nay.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI
đến đầu thế kỷ XIX qua một số tác phẩm, tác giả tiêu biểu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung làm sáng tỏ tƣ tƣởngtriết học về con ngƣời trong phạm
vi thơ ca Việt Nam từ thế kỉ XVI đến đầu thế kỷ XIX qua một số tác phẩm,
tác giả tiêu biểu.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Tìm hiểu vấn đề quan niệm triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam
từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, cơ sở lý luận mà tôi viện đến là chủ nghĩa
Mác - Lênin; những quan niệm, đƣờng lối của Đảng và các tƣ tƣởng truyền
thống của dân tộc Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng đồng bộ nhiều phƣơng pháp khoa
học khác nhau nhƣ phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, logic - lịch sử, so sánh,
điều tra;.v.v
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã phân tích khá sâu những điều kiện, tiền đề cho sự xuất hiện
tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu

7


thế kỷ XIX, đặc biệt là ảnh hƣởng của các học thuyết triết học, tôn giáo và tín
ngƣỡng dân gian Việt Nam. Trên cơ sở đó, luận văn đã đƣa ra đƣợc một cách
thức truy tìm “cái triết học” trong thơ ca về con ngƣời.
Việc tìm hiểu về những giá trị tốt đẹp của con ngƣời là hết sức quan
trọng,đặc biệt là đối với môi trƣờng giáo dục trong nhà trƣờng, gia đình và xã
hội. Bởi lẽ, đây chính là điểm tựa về văn hóa, về tinh thần để giáo dục cho các
thế hệ biết tự hào, trân trọng, giữ gìn và học tập theo tấm gƣơngcủa cha ông
ta.Thông qua luận văn, tác giả muốn góp một phần nhỏ bé vào việc làm nổi
bật tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ
XVI đến đầu thế kỷ XIX. Từ đó, chỉ ra đƣợc một số giá trị chủ yếu của tƣ
tƣởng này đối với việc xây dựng con ngƣời Việt Nam hiện nay.Đồng thời,
luận văn cũng góp phần vào việc xây dựng hệ thống những quan điểm về vấn
đề phát triển con ngƣời trong giai đoạn mới hiện nay.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn phân tích vàlàm rõ một số nội dung của tƣ tƣởng triết học về
con ngƣời mà các nhà tƣ tƣởng Việt Nam đã đúc kết trong thơ ca giai đoạn từ
thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX. Từ đó, ngƣời đọc dễ dàng hệ thống hóa
đƣợc những nội dung này và có thêm cách nhìn nhận sâu sắc hơn về vấn đề
con ngƣời thông qua các quan niệm, các học thuyếttriết học Việt Nam.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
và học tập các môn Lý luận chính trị, các môn khoa học xã hội và nhân văn.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn đƣợc sắp xếp thành 2
chƣơng, 6 tiết.

8


Chƣơng 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM THƠ CA
VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ XVI ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XIX
1.1. Điều kiện, tiền đề cho sự ra đời tƣ tƣởng triết học về con ngƣời
trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX
1.1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỉ XVI, nhà Lê sơ sau một thời kỳ thịnh trị đã
bƣớc vào giai đoạn suy thoái. Xã hội lúc này bắt đầu xuất hiện những dấu
hiệu khủng hoảng trầm trọng về mọi phƣơng diện. Dƣới sự thống trị của triều
đình chuyên chế đồi bại, đời sống của nhân dân ngày càng chìm đắm trong tối
tăm, cơ cực.Ruộng đất tập trung vào tay địa chủ, đội ngũ quan liêu bị tha hóa,
đời sống của đông đảo nhân dân ngày càng bị bần cùng. Tô thuế và lao dịch
không ngừng tăng thêm, đè nặng lên cuộc sống của ngƣời nông dân. Kinh tế
nông nghiệp không đƣợc chăm lo, đê điều và các công trình thủy lợi bị bỏ bê;

thiên tai, mất mùa xảy ra quanh năm.
Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, chiến tranh giữa các tập đoàn phong
kiến cầm quyền, gây ảnh hƣởng xấu đến sản xuất nông nghiệp. Trong hoàn
cảnh đó, những ngƣời sản xuất vẫn nỗ lực để duy trì cuộc sống, xây dựng quê
hƣơng, bản quán. Nông dân ở cả hai vùng vẫn tiếp nối truyền thống lao động
cần cùvà trong một mức độ, đã thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệpphát
triển.Công cuộc khai hoang lập làng xóm mới, mở rộng thêm diện tích đấtđai
canh tác tiếp tục đƣợc thực hiện ở nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc, nhất là
vùng đồng bằng, ven biển.


Đàng ngoài, hàng chục vạn mẫu đất đai đƣợc khai khẩn đƣa vào sản

xuất.Ở vùng trung du thuộc các tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang, công cuộc khẩn
hoang cũng đƣợc tiến hành mạnh. Nền kinh tế nông nghiệp ở Đàng ngoài
trong các thế kỷ XVI, XVII và XVIII vẫn có sự phát triển mạnh mẽ. Đây là
một biểu hiện rõ nét về sự ổn định của quan hệ sản xuất phong kiến và sự phát
triển của chế độ phong kiến ở Đàng ngoài bấy giờ.
9




Đàng trong, ban đầu các chúa Nguyễn dựa vào những ngƣời Việt đã

sinh sống lâu đời ở đây lập thành xóm làng và tiếp tục công cuộc khẩn
hoang. Về sau, số ngƣời lƣu tán từ Thuận Quảng vào ngày càng nhiều, do đó,
chúa Nguyễn đã cho phép và khuyến khích các quan lại, địa chủ mộ ngƣời
phiêu tán đi khẩn hoang và làm chủ tất cả ruộng đất khai phá. Với cách này,
chúa Nguyễn đã tạo nên một tầng lớp đại địa chủ giàu có, là cơ sở xã hội vững

chắc cho chính quyền mới.Những ngƣời nông dân, nhất là lực lƣợng nông
dân lƣu tán đã tích cực và chủ động đẩy mạnh công cuộc khai phá đất đai
dƣới những hình thức và quy mô khác nhau (tự động khai phá, khai hoang do
các nhà giàu, có thế lực đứng ra chiêu tập, thuê mƣớn;.v.v.). Đối với dân lƣu
tán từ Đàng ngoài vào vùng Thuận Quảng, chúa Nguyễn khuyến khích họ
khẩn hoang lập làng xóm. Ruộng đất khai khẩn trở thành công điền chia cho
ngƣời khai phá. Đối với bộ phận ruộng đất do những ngƣời giàu có tổ chức
khai khẩnthì nhà nƣớc cho phép biến thành ruộng đất tƣ. Ngoài ra, chúa
Nguyễn còn sử dụng quân đội, tù binh và những ngƣời dân bị bắt trong chiến
tranh Trịnh - Nguyễn vào việc khẩn hoang.
Nhờ có chủ trƣơng đẩy mạnh công cuộc khai phá đất đai và nhờ sức lao
động cần cù, bền bỉ của những ngƣời dân lao động, trong đó có một bộ phận
đông đảo từ Đàng ngoài vào, Đàng trong đã trở thành một vùng đất trù
phú.Giai cấp địa chủ ở Đàng trong chủ yếu thực hiện phát canh thu tô, bóc lột
theo quan hệ địa chủ - tá điền.Do có đất đai màu mỡ, đƣợc khai khẩn nhiều,
nhất là ở phƣơng nam mà nền kinh tế nông nghiệp ở Đàng trong khá phát
triển.
Thủ công nghiệp phát triển thêm một bƣớc, buôn bán phồn vinh, những
thành thị hƣng khởi, những mầm mống của quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa
có điều kiện nảy sinh.Trong nhân dân, các nghề thủ công truyền thống tiếp tục
phát triển và trở nên phổ biến rộng khắp ở nhiều làng xã. Trong những thế kỷ

10


XVII, XVIII ngành kinh tế thủ công nƣớc ta phát triển rất mạnh mẽ. Xuất
hiện nhiều làng nghề thủ công trong cả nƣớc. Về làng nghề Bát Tràng dân
gian có câu ca:
“Trên trời có đám mây xanh



giữa mây trắng xung

quanh mây vàng Ƣớc gì anh lấy
đƣợc nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc rồi lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân”
Về nghề dệt tơ lụa có làng nghề Vạn Phúc:
“Hỡi cô thắt lƣng bao xanh
Có về Vạn Phúc quê anh thì về
Vạn Phúc có một cây đề
Có ao tắm mát có nghề quay tơ”
Nghề làm gốm đƣợc cải tiến, nâng cao trình độ kỹ thuật và mỹ thuật, đã
xuất hiện các lò gốm lớn nổi tiếng nhƣ Chu Đậu, Hợp Lễ (Hải Dƣơng), Bát
Tràng nay thuộc Gia Lâm - Hà Nội. Nhiều làngnghề thủ công
chuyênnghiệpnổi tiếng ra đời nhƣ làng Mỹ Thiện(Quảng Ngãi), Phú
Trạch(Thừa Thiên) làm nồi đất nung, dệt chiếu, lụa hoa; làng Thổ Hà (Bắc
Ninh), Hƣơng Canh (Vĩnh Phúc) chuyên sản xuất chum vại, vò, chĩnh; làng
Yên Thái (Hà Nội) chuyên làm giấy;v.v. Hầu nhƣ các làng xã Đàng ngoài đều
làm nghề trồng bông dệt vải, chăn tằm dệt lụa. Tơ trở thành một mặt hàng
buôn bán quan trọng bậc nhất.
Thƣơng nghiệp cũng phát triển lên một bƣớc đáng kể về cả nội thƣơng
và ngoại thƣơng. Ở các làng hình thành nhiều chợ mới họp theo phiên, xuất
hiện một số chợ có quy mô cấp huyện hay phủ nên có tên gọi là chợ huyện,
chợ phủ. Sự trao đổi buôn bán với các thƣơng nhân nƣớc ngoài đƣợc tăng

11



cƣờng và mở rộng. Bên cạnh các thƣơng nhân Trung Quốc, Xiêm, Nhật Bản
còn có thuyền buôn của các nƣớc tƣ bản phƣơng Tây. Sự phát triển của công
thƣơng nghiệp đã làm xuất hiện một số thành thị mới và làm hƣng thịnh,
phồn vinh các trung tâm kinh tế hàng hoá cũ. Ví nhƣ Kẻ Chợ (hay Kinh Kỳ)
là đất Thăng Long nổi tiếng với 36 phố phƣờng.Phố Hiến cũng là một thành
thị sầm uất của Đàng ngoài thời bấy giờ.Nhiều thƣơng nhân các nƣớc Trung
Quốc, Nhật Bản, Hà Lan, Anh, Pháp đều có mặt và buôn bán ở Phố Hiến.


Đàng trong có Hội An là thành phố cảng lớn nhất, từ thế kỷ XVI đã có

thƣơng nhân nƣớc ngoài đến buôn bán. Ngoại thƣơng ở Đàng trong cũng có
bƣớc phát triển mạnh từ thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII. Đầu thế kỷ XVII,
các thuyền buôn Trung Quốc thƣờng đến buôn bán ở sông Thu Bồn. Hội An
từ một chợ địa phƣơng đã phát triển thành thƣơng cảng nổi tiếng Đàng trong.
Mặc dù có những bƣớc phát triển mạnh mẽ nhƣng nhìn chung quan hệ ngoại
thƣơng giữa Đàng trong với các nƣớc phƣơng Tây cũng giống nhƣ ở Đàng
ngoài, chỉ phát triển khá mạnh mẽ ở thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, sau đó
thuyền buôn các nƣớc thƣa thớt dần và chấm dứt hẳn.
1.1.2. Điều kiện chính trị
Tình hình chính trị, xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX
có nhiều biến chuyển mạnh mẽ. Lúc này, loạn lạc khắp nơi nổ ra, các phe phái
đánh giết nhau để tranh giành quyền lực. Trong suốt hai thế kỷ XVII, XVIII
chiến tranh Nam - Bắc, chống ngoại xâm, diệt Trịnh, Nguyễn, phong trào
nông dân khởi nghĩa diễn ra liên miên. Do đó, đạo lý, luân thƣờng không còn
trong khuôn thƣớc. Nỗi lòng ngƣời dân đƣợc thể hiện qua câu ca:
“Sông Gianh nƣớc chảy đôi dòng
Đèn chong đôi ngọn biết trông ngọn nào?”
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào
tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Sự khủng hoảng này đƣợc bộc lộ trên nhiều


12


phƣơng diện nhƣng nổi bật nhất là tính chất thối nát, suy thoái trong toàn bộ
cơ cấu của chế độ phong kiến.Nó còn đƣợc biểu hiện ở sức trỗi dậy mãnh liệt
với một khí thế chƣa từng có của phong trào nông dân. Ðỉnh cao lúc này là
cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, đánh đổ các tập
đoàn phong kiến thống trị trong nƣớc, đánh tan hơn hai mƣơi vạn quân
Thanh xâm lƣợc, lập nên một vƣơng triều phong kiến mới với nhiều chính
sách tiến bộ. Nhƣng vua Quang Trung chỉ lên ngôi trong một thời gian ngắn.
Sau khi Quang Trung mất, nhà Tây Sơn lại trở nên lục đục. Nhân cơ hội ấy,
Nguyễn Ánh trở lại tấn công nhà Tây Sơn, lập nên triều đại nhà Nguyễn. Buổi
đầu, để củng cố địa vị thống trị của mình, nhà Nguyễn đã thực hiện đƣợc một
số chính sách tiến bộ nhƣng càng về sau nhà Nguyễn càng đi vào con đƣờng
phản động. Vì thế, các cuộc khởi nghĩa của nông dân vẫn liên tiếp xảy ra. Tuy
nhiên, khởi nghĩa nông dân trong hoàn cảnh của xã hội đƣơng thời không thể
đi đến thắng lợi hoàn toàn và triệt để. Nó mới chỉ là động lực thúc đẩy xã hội
phát triển chứ chƣa thể làm thay đổi chế độ xã hội.
Tình hình chính trị bất ổn đã đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn cùng, giai
cấp thống trị ra sức củng cố quyền lực bằng đủ mọi thủ đoạn phi nhân tính,
những ngƣời tài đều không có đất dấn thân.Tuy vậy, con ngƣời trong giai
đoạn này, đặc biệt là giới trí thức không còn là những con ngƣời chỉ biết cúi
đầu cam chịu trƣớc sự áp bức của chế độ nữa. Sự tiếp xúc ngày càng mở rộng
với văn hóa phƣơng Tây một mặt làm nứt vỡ đạo đức thánh hiền, khiến cuộc
sống xã hội đảo lộn, nhƣng mặt khác cũng tạo ra một sự khởi động về mặt ý
thức. Đã đến lúc ngƣời ta nhìn đời, nhìn ngƣời, nhìn số phận mình không còn
nhƣ cũ. Họ biết thẩm định lại những giá trị vật chất và tinh thần, rằng giá trị
nào đem lại hạnh phúc cho con ngƣời, những gì gây đau khổ, chết chóc. Điều
đáng nói là họ nhận ra nhƣng lại chƣa thể tìm đƣợc một con đƣờng nào để

giải thoát cho bản thân và cộng đồng, sự bế tắc đó chính là bi

13


kịch của giới trí thức thời kỳ này.
Nhìn một cách tổng quát, giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam từ thế
kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX đã diễn ra nhiều bƣớc chuyển mang ý nghĩa to
lớn. Đây là thời kì sụp đổ, tan rã toàn diện của kỷ cƣơng, của lễ giáo phong
kiến, của bộ máy quan liêu và nói chung là của toàn bộ cơ cấu xã hội.Đồng
thời, đây cũng là thời kỳ bão táp của các phong trào nông dân khởi
nghĩa.Phong trào đấu tranh rầm rộ của quần chúng liên tiếp nổ ra làm bùng
dậy nhiều khát vọng, làm quật cƣờng thêm tinh thần dân tộc, tinh thần đấu
tranh chống áp bức, bóc lột, bảo vệ quyền sống của con ngƣời, cổ vũ cho sự
vƣơn dậy của tài năng, của trí tuệ. Chính tiền đề đó đã tạo điều kiện cho sự
xuất hiện của các trí thức gia với hàng loạt các tác phẩm mang ý nghĩa thời
đại, đặc biệt nổi lên là những vấn đề về con ngƣời.
1.1.3. Tiền đề văn hóa- tư tưởng
1.1.3.1. Sự ảnh hƣởng của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo đến sự hình
thành quan niệm triết học về con ngƣời trong thơ ca Việt Nam từ thế kỷ XVI
đến đầu thế kỷ XIX
Lật lại những trang sử của dân tộc, chúng ta dễ dàng nhận thấy văn hóa
Việt Nam chịu nhiều ảnh hƣởng của văn hóa Trung Quốc và Ấn Độ. Trong
đó, Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo với tất cả những gì ƣu tú nhất của nó đã
đƣợc nhân dân ta tiếp nhận và sáng tạo, trở thành một phần của bản sắc văn
hóa Đại Việt. Bởi vậy, tƣ tƣởng triết học về con ngƣời trong văn học nói
chung,trong thơ ca nói riêng cũng mang đậm dấu ấn của tam giáo.
 Ảnh hƣởng của Nho giáo
Hiện diện trong nhiều thế kỷ nhƣ một mô hình tổ chức và quản lý xã hội
mang tính chất chính thống, một phƣơng thức hoạt động và pháttriểnvăn hóa

đóng vai trò chủ đạo,Nho giáo từ lúc thâm nhập vào Việt Nam cho đến lúc bấy
giờ có ảnh hƣởng sâu sắc tới các tƣ tƣởng chính trị, đạo đức và nhân sinh.

14


Ngay từ khi ra đời, nó đã có điểm khác căn bản với tƣ tƣởng của các tôn
giáo, đặc biệt là về vấn đề con ngƣời, quan tâm đến con ngƣời, đến cuộc đời
và tìm thú vui trong cuộc sống.
Nho giáo quan niệm“thiên nhân hợp nhất”và cho rằng con ngƣời là một
yếu tố của tam tài(thiên - địa - nhân). Con ngƣời đó thông với trời, hợp với
trời, chứ không hợp với xã hội, ý thức xã hội kém phát triển.Về luân lý, đạo
hiếu, luân thƣờng đƣợc đặc biệt coi trọng.Giáo lý của Nho giáo có nhiều
phƣơng châm xử thế giúp con ngƣời giữ đƣợc tâm hồn cao thƣợng, nhân
cách trong sáng.Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm ngƣời, hƣớng vào rèn
luyện đạo đức, đề cao giáo dục và cải tạo con ngƣời.Song, đạo ở đây là cái
đạo của xã hội phong kiến, là hệ tƣ tƣởng phục vụ quyền lợi của giai cấp
phong kiến. Mô hình xã hội là mô hình gia đình. Quan đối với dân là cha mẹ,
còn vua là con trời. Các quan hệ xã hội đƣợc coi trọng, bản thân mỗi cá nhân
nói chung chƣa đƣợc phát triển.Con ngƣời Nho giáochỉ coi trọng lý tính siêu
nghiệm mà coi nhẹ tri thức, trọng trực giác mà coi nhẹ lý trí. Họ thích tự do ý
chí, một thứtự do nội tại, vứt bỏ nhu cầu ngoại tại càng nhiều thì lƣợng tự do
nội tại càng lớn. Vì không có ý niệm tự do ngoại tại nhƣ tự do ngôn luận, xuất
bản, biểu tình, tín ngƣỡng;.v.v. cho nên con ngƣời này không có khái niệm về
quyền lợi, về đấu tranh, chỉ thích nghĩa vụ, thích nhƣờng nhịn, thích tỏ ra
thanh cao.Nho giáo đặt rõ vấn đề ngƣời quân tử, tức là ngƣời lãnh đạo chính
trị phải có đạo đức cao cả. Trong thực tế, nguyên tắc đó là điểm tựa, là chỗ
dựa cho những sĩ phu đấu tranh. Điều đó đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần
trách nhiệm cao cả với xã hội, là yếu tố tạo nên truyền thống khí tiết của kẻ sĩ.
Từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX, Nho giáo vẫn đƣợc nhà nƣớc phong

kiến bảo vệ, duy trì để làm nền tảng cho các tổ chức chính trị, kinh tế của chính
quyền, làm kỷ cƣơng củaxã hội. Tuy vậy, Nho giáo thời kỳ này đã bƣớc vào suy
đốn dần, không còn đƣợc độc tôn nhƣ trƣớc. Điều đó đƣợc biểu hiện ở lĩnh

15


vực giáo dục, thi cử. Các chính quyền phong kiến vẫn duy trì và mở rộng giáo
dục, thi cử làm phƣơng tiện đào tạo quan lại, đáp ứng nhu cầu tổ chức bộ máy
ngày một đông đảo, nhƣng không còn đƣợc nghiêm túc nhƣ trƣớc. Những
nguyên tắc đạo đức và lễ giáo phong kiến chỉ còn là hình thức.
Sống trong thời đại Nho giáo bị sụp đổ nhƣ vậy, một tầng lớp nhà Nho
chân chính bị khủng hoảng về mặt lý tƣởng. Họ không tìm ra con đƣờng đi
và hoang mang trƣớc thời cuộc. Họ mất hết niềm tin vào chính quyền, vào
minh chúa. Số đông đã lui về ở ẩn để giữ gìn khí tiết, nhân cách của mình.
Trong hoàn cảnh đó, một khuynh hƣớng tƣ tƣởng mới đã xuất hiện. Đó là
những tƣ tƣởng bảo vệ, khẳng định quyền sống và giá trị, phẩm chất của con
ngƣời.Khuynh hƣớng này lên án, tố cáo hiện thực cuộc sống đƣơng thời đã
chà đạp con ngƣời, đấu tranh đòi cuộc sống cơm áo, giải phóng tình cảm, bản
năng. Nócòn ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con ngƣời, đồng tình, xót
thƣơng, thông cảm với các nạn nhân của xã hội.
Tóm lại, Nho giáo đã đem lại một bƣớc tiến khá căn bản trong lĩnh vực
văn hoá tinh thần.Trƣớc hết, nó làm cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh
mẽ. Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ trí thức
đông đảo cho dân tộc Việt Nam nhƣ: Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn
Du;.v.v. Bên cạnh những ảnh hƣởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại không ít
tác động tiêu cực.Nó đã không giải đáp đƣợc vấn đề số phận và yêu cầu giải
phóng con ngƣời, làm cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển
mạnh trong lĩnh vực tƣ tƣởng và trong giáo dục khoa học. Cho đến nay,trong
một chừng mực nhất định, những tƣ tƣởng Nho giáo vẫn là nhân tố kìm hãm

sự phát triển con ngƣời, nhất là tại các vùng nông thôn Việt Nam.Không thể
phủ nhận đƣợc rằng, Nho giáo đã tham gia một phần đáng kểvào sự hình
thành văn hoá dân tộc, tạo nên diện mạo tinh thần dân tộc.
 Ảnh hƣởng của Phật giáo
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ rất lâu và tồn tại, phát triển cùng với
16


dân tộc ta cho đến tận hôm nay. Trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội,đặc biệt là
xét trên khía cạnh tƣ tƣởng, Đạo Phật đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần
hình thành một hệ thống quan niệm nhân sinh cho con ngƣời. Các nhà tƣ
tƣởng Việt Nam đã tiếp cận vấn đề nhân sinh quan từ giác độ suy tƣ về con
ngƣời và đời ngƣời ở tầm chiều sâu triết lý. Phật giáo là ngôn ngữ để biểu đạt
niềm ƣớc vọng đƣợc cứu khổ cứu nạn. Đối với tầng lớp quý tộc, đó là con
đƣờng để đạt tới sự thanh thản cho tâm hồn trƣớc mọi biến động đột ngột.
Ngƣời Việt Nam tiếp xúc Nho, Phật, Lão từ đầu Công nguyên, nhƣng
Nho giáo là công cụ thống trị của ngoại bang. Đồng thời, từ đời Hán, Nho gia
kết hợp vớiPháp gia nên khá tàn bạo. Phật giáo, ngƣợc lại, là công cụ chống
lại sát sinh, bạo tàn, đề xƣớng từ bi hỉ xả, cứu khổ cứu nạn, vạch rõ quy luật
“ác giả ác báo”, đòi hỏi chăm lo thiện căn. Đó là con đƣờng giải thoát cho
những ngƣời đang bị chìm đắm trong đau khổ.
Phật giáo coi cuộc đời là bể khổ. Con ngƣời vì vô minh nên cứ chấp
trƣớc về cái “ngã”, tham muốn nên tạo ra duyên nghiệp, không thoát khỏi
vòng luẩn quẩn luân hồi.“Ngã” là sinh mệnh, dựa vào thực thể sinh vật, biểu
hiện thành đời sống sinh vật (thân).Có thân thì có dục, vô cầu, vô dục là con
đƣờng đạt đến vô ngã, cũng tức là vô khổ. Coi vạn pháp đều không thì thế
giới trở nên trong suốt, thanh tĩnh, không có khác biệt giữa tâm, vật, đạt tới
chỗ cao siêu của tồn tại. Đó cũng là con đƣờng tiêu diệt cái tôi vật chất để
đƣợc giải phóng cái tôi tinh thần, là giải quyết vấn đề của bản thân bằng con
đƣờng hƣớng nội, tự cải tạo thế giới ý thức của chính mình để sống với một

thế giới chủ quan mới khác về chất so với cái chủ quan tự nhiên.Phật giáo đề
xƣớng chủ trƣơng giải thoát khỏi vô minh, thoát khỏi duyên nghiệp để đƣợc
đến cõi Niết Bàn. Để đạt đƣợc mục đích giải thoát, con ngƣời cần phải trải
qua một quá trình tu hành lâu dài, vừa hƣớng nội tu tâm dƣỡng tính, vừa
hƣớng ngoại bố thí cầu thiện nghiệp. Tƣ tƣởng hay đạo lý căn bản của Phật
giáo là giáo lý từ bi. Tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh đã ảnh hƣởng và thấm
17


nhuần sâu sắc trong tâm hồn của ngƣời Việt Nam.
Ngoài đạo lý từ bi, ngƣời Việt còn chịu ảnh hƣởng sâu sắc một đạo lý
khác của Phật là đạo lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sƣ trƣờng, ân quốc gia và
ân chúng sanh. Đạo lý này đƣợc xây dựng theo một trình tự phù hợp với
bƣớc phát triển tâm lý tình cảm của dân tộc Việt Nam. Tình thƣơng ở mọi
ngƣời bắt đầu từ thân đến xa, từ tình thƣơng cha mẹ, họ hàng lan dần đến các
mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào, quê hƣơng đất nƣớc và mở rộng
đến cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta
thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hƣởng rất sâu đậm trong tình cảm và đạo lý
của ngƣời Việt.Nhìn chung, đạo lý hiếu ân có cùng một đối tƣợng thực hiện
là nhắm vào ngƣời thân, cha mẹ, đất nƣớc, nhân dân, chúng sanh, vũ trụ. Đó
là môi trƣờng sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh.
Phật giáo quan niệm cuộc đời là vô thƣờng kể cả cái tâm của con ngƣời.
Vì thế, theo thời gian cùng với những biến động của lịch sử, con ngƣời biểu
hiện trong thơ ca cũng có những thay đổi. Đó là sự vận động và phát triển từ
vẻ đẹp của con ngƣời hành động sang con ngƣời tƣ tƣởng, từ con ngƣời
cộng đồng sang con ngƣời tự ý thức về thân phận cá nhân của mình và những
ngƣời xung quanh. Tuy nhiên, dù vẻ đẹp của con ngƣời trong tiến trình thơ ca
có những thay đổi, song trên cái nhìn tổng quan, đó chỉ là những biểu hiện
khác nhau của một nhân cách cố định - nhân cách con ngƣời Việt Nam.
Những cơ sở tƣ tƣởng triết học trên đã giúp cho Phật giáo hình thành

đƣợc một bản sắc đặc thù riêng biệt tại Việt Nam, góp phần làm phong phú và
đa dạng nền văn hóa tinh thần của dân tộc.
 Ảnh hƣởng của Đạo giáo
Suốt ngàn năm Bắc thuộc, đất nƣớc ta không thể không tránh khỏi ảnh
hƣởng của Đạo giáo. Đạo giáo ở Việt Nam không có tính hệ thống thuần nhất
với giới tăng lữ, đạo sĩ, đạo trƣởng chuyên luyện đan, làm bùa chú và những
danh gia nghiên cứu học thuật thánh điển nhƣ ở Trung Quốc. Tuy vậy, nó vẫn
18


luôn sinh động trong sự thờ phụng của dân gian.
Đạo giáo không coi đời là bể khổ mà cũng không coi con ngƣời là ngu
xuẩn. Họ quan niệm có một thế giới tốt đẹp hơn thế giới trƣớc mắt. Và trong
con ngƣời tiềm ẩn khả năng tìm đến đƣợc thế giới đó ngay trong hiện thế,
không thoát li cuộc đời mà cũng không phải chờ đến sau khi chết. Hƣớng tu
luyện của Đạo giáo là rèn luyện, phát huy những khả năng đó của con ngƣời
để đến tiên cảnh. Cách tu dƣỡng là tập trung “tinh”, “khí”, “thần” làm cho nó
không hƣ hao mà tăng trƣởng, tạo thành sức mạnh có thể sai khiến đƣợc thần
linh, có thể làm cho xƣơng thịt không già, sống hàng trăm tuổi vẫn nhƣ trẻ
thơ. Ƣu thế của Đạo giáo là hiểu biết con ngƣời tự nhiên, thân thể và những
khả năng vật chất và tinh thần của nó dựa vào sự tích lũy của y học và võ
thuật.
Trong triết học Lão - Trang, với các quan niệm “tề vạn vật”, “đẳng thị
phi”, “vật ngã đồng nhất”, Trang Tử kịch liệt phản đối xem con ngƣời là
trung tâm của vũ trụ. Ông cho rằng con ngƣời là một giới hạn trong không
gian, thời gian, chỉ có quên tôi, quên vật (vong ngã, vong kỷ, vong vật), đạt tới
cõi “vật ngã lƣỡng vong”, “vô kim cổ” thì con ngƣời mới có thể hòa đồng với
vũ trụ, sống một cuộc đời vô tận, vô cùng. Điều này không có nghĩa là phủ
định con ngƣời mà lại là một sự khẳng định. Trang Tử khẳng định con ngƣời
tự nhiên, tự do, thoát khỏi luân lý và chính trị kiểu Nho giáo đầy trói buộc và

nặng về công danh. Theo ông, vô ngã là không chấp cái “Ta” và cái “Của ta”,
tức không còn phân biệt cái này, cái kia thuộc về ta; không còn lo lợi ích cho
riêng mình, khƣ khƣ bám víu vào lòng ham muốn của mình. Vị tha là vì
chúng sinh, vì mọi ngƣời. Một phần biểu hiện cụ thể là những con ngƣời vừa
có tấm lòng khoan dung độ lƣợng; vừa yêu thiên nhiên, yêu quê hƣơng đất
nƣớc; đem hết năng lực, trí tuệ của mình để phục vụ nhân dân, đất nƣớc.
Những tƣ tƣởng này của Đạo giáo đã đƣợc con ngƣời Việt Nam tiếp

19


×