Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

Vai trò của nông dân tỉnh thái bình trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.52 KB, 114 trang )

LỜI CAM ĐOAM

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên
cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Dương Minh Đức.
Các số liệu, tài liệu trong luận văn đều trung thực,
đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày 26 tháng 8 năm 2010.
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Long
MỤC LỤC

Mở đầu
.................................................................................................
Chƣơng 1: GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
VỚI QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THẾ
GIỚI
QUAN KHOA HỌC CHO SINH VIÊN
...........................................
1.1 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với con ngƣời nói
chung và sinh viên CĐSP nói riêng
..................................................
1.1.1 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với sự phát triển con
người .................................................................................................
....
1.1.1.1 Thế giới quan khoa
học ............................................................

1


.
1
.
1
.
2
N
h

n
g
n
h
â
n
t


ố ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh
viên CĐSP Nam Định hiện nay ..............................
1.1.2 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với sinh viên CĐSP
Nam
Định ..............................................................................................
1.1.2.1 Sinh viên - một bộ phận quan trọng trong thanh
niên ..............
1.1.2.2 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với sinh viên CĐSP

Tran
g


1

8

Nam
Định .............................................................................................

8

1.2 Tầm quan trọng của việc giảng dạy các môn Lý luận chính
trị với quá trình hình thành và phát triển thế giới quan khoa
học
cho sinh viên CĐSP Nam Định
..........................................................

8

14

1.2.1 Giáo dục thế giới quan khoa học là mục tiêu quan trọng nhất
của các môn Lý luận chính
trị ...............................................................

28

8

1.2.2 Nhiệm vụ của các môn Lý luận chính
trị ...................................


28

Chƣơng 2: GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
VỚI VIỆC HÌNH THÀNH THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
CHO SINH VIÊN CĐSP NAM ĐỊNH - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
...............................................................

30

2.1 Tình hình giảng dạy các môn Lý luận chính trị ở CĐSP
Nam
Định hiện nay
......................................................................................

38
38
41

2.1.1 Sinh viên - đối tượng của quá trình giáo dục thế giới
quan .........
2.1.2 Giảng viên - chủ thể của quá trình giáo dục thế giới
quan ..........

50

2.2 Những vấn đề đặt ra trong việc giảng dạy các môn lý luận
chính trị ở CĐSP Nam Định hiện nay
...............................................


50
50
55


62


2.2.1 Khảo sát nội dung chương trình, những điều kiện dạy học......................62
2.2.2 Thực nghiệm dạy học môn Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin cho sinh viên CĐSP Nam Định.................................................. 65
2.2.3 Những vấn đề đặt ra....................................................................................................... 68
Chƣơng 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO
DỤC THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC CHO SINH VIÊN CĐSP
NAM ĐỊNH.................................................................................................................................. 74
3.1 Phƣơng hƣớng

74

3.1.1 Việc giáo dục thế giới quan phải đặt trong quá trình giáo dục và
đào tạo toàn diện nhân cách sinh viên.............................................................................. 74
3.1.2 Giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên phải gắn với các
môn khoa học chuyên ngành................................................................................................. 78
3.2 Giải pháp................................................................................................................................ 82
3.2.1 Đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực
của sinh viên.................................................................................................................................. 82
3.2.2 Gắn lý luận với thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn tỉnh Nam Định..............87
3.3.3 Xây dựng đội ngũ giảng viên có đủ năng lực, phẩm chất chính
trị vững vàng đảm bảo tốt công tác giảng dạy............................................................. 90
3.3.4. Nâng cao khả năng tự giáo dục của sinh viên................................................. 95

3.3.5. Từng bước hoàn thiện điều kiện dạy học.......................................................... 98
Kết luận.......................................................................................................................................... 101
Danh mục tài liệu tham khảo........................................................................................... 103
Phụ lục............................................................................................................................................ 107


BẢNG QUY ƢỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CĐSP

: Cao đẳng sư phạm

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

TBCN

: Tư bản chủ nghĩa

Nxb

: Nhà xuất bản

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định:
"Đối với thế hệ trẻ chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo phát triển toàn diện
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hóa, sức khỏe, nghề nghiệp, giải
quyết việc làm, phát triển tài năng, sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[7, tr.126]. Đến Đại hội X Đảng
ta đã khẳng định: "Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh" [11, tr.70]. Trên tinh thần đó cách mạng của dân tộc ta đang
bước vào giai đoạn mới, giai đoạn thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Trong bối cảnh lịch sử
mới, hơn lúc nào hết Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: Sự nghiệp cách mạng
của Đảng và nhân dân ta đòi hỏi phải phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, đặc biệt là sứ mệnh của thế hệ trẻ. Đại hội X Đảng ta
còn chỉ rõ:"Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam,
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế. Bồi dưỡng các giá trị văn hoá trong
thanh niên, học sinh, sinh viên, đặc biệt là lý tưởng sống, lối sống, năng lực trí
tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hoá con người Việt Nam" [11, tr.106].
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN,
công tác tư tưởng, lý luận được Đảng ta đặc biệt quan tâm và coi trọng, nhất
là việc giáo dục thế giới quan khoa học đối với thế hệ trẻ nói chung và sinh
viên nói riêng nhất là sinh viên sư phạm – những thầy giáo, cô giáo tương lai những người lao động có trình độ cao, đây là nguồn nhân lực quan trọng của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Vì vậy, sự
phát triển bền vững của đất nước theo định hướng XHCN đòi hỏi khách quan
1



phải trang bị cho họ thế giới quan khoa học, những kiến thức về mục tiêu, con
đường đi lên CNXH của dân tộc ta. Chính vì thế, giáo dục thế giới quan khoa
học cho sinh viên sư phạm hiện nay vừa là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cấp thiết. Bởi vì, Trước sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế,
chính trị trên thế giới; trước chiến lược diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế
quốc, các thế lực thù địch chống phá CNXH, đặc biệt là trên lĩnh vực tư
tưởng, đối tượng chúng hướng tới là thế hệ trẻ, nhằm làm cho hệ tư tưởng tư
sản chiếm vị trí thống trị trong xã hội. Hơn nữa, do ảnh hưởng của mặt trái cơ
chế thị trường đang hình thành lối sống thực dụng trong một bộ phận sinh
viên. Trong cơ chế thị trường xuất hiện sự may rủi làm nảy sinh tư tưởng cầu
may dễ dẫn đến thế giới quan tôn giáo, duy tâm. Thực tế là một bộ phận
không nhỏ trong sinh viên còn tình trạng suy thoái đạo đức, sống thiếu hoài
bão lập thân, lập nghiệp, phai mờ về lý tưởng XHCN và đây là một bộ phận
dễ bị các thế lực phản động lôi kéo. Đó là một trong những vấn đề bức xúc
nhất hiện nay của giáo dục, như Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (Khóa IX) đã chỉ
ra:"Vấn đề bức xúc nhất trong giáo dục nước ta hiện nay là chất lượng giáo
dục toàn diện, trước hết là chất lượng giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức, lối
sống, đặc biệt ở bậc đại học, cao đẳng" [9, tr.40-41]. Tình hình giáo dục thế
giới quan khoa học trong trường CĐSP Nam Định không nằm ngoài cái chung
đó. Bên cạnh đó việc tích hợp ba môn (triết học Mác – Lênin, kinh tế chính trị
Mác – Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học) thành một môn (những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin) đã có những khó khăn nhất định cho người
dạy và người học (giảng viên trước đây thường chỉ dạy một môn giờ phải dạy
tất cả, chương trình thì mới, nên đòi hỏi phải có một phông kiến thức rộng,
phải truyền thụ hết nội dung chương trình mà thời gian thì rút ngắn lại. Đối
với sinh viên, đòi hỏi có những vấn đề phải tự nghiên cứu, mà có những vấn
đề mới rất khó). Vì những lẽ trên đây, tôi chọn đề tài: "Vai trò của
2



việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới
quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định”
2. Tình hình nghiên cứu
Công tác nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục thế giới quan khoa
học ở các trường đại học, cao đẳng đang được nhiều người quan tâm cho nên
trong thời gian gần đây xuất hiện nhiều bài viết xung quanh vấn đề này ở
nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau.
Ở nước ngoài có một số công trình tiêu biểu như:
- Ch.L.Xmiếc Cốp, "Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế
giới quan Mác - Lênin". Tạp chí Giáo dục lý luận, 1985, số 3.
- V.I.L Vaxilenco, "Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận
của việc xây dựng thế giới quan khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa". Bản
tự lược thuật, Luận án tiến sĩ triết học, 1975.
Ở trong nước có một số công trình đáng chú ý như:
- Bùi Ngọc, "Thế giới quan khoa học một tất yếu lịch sử". tạp chí thông
tin khoa học xã hội, 1981, số 8.
- Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận Mác Lênin ở các trường đại
học hiện nay. Tạp chí Lý luận chính trị, số 7 – 2000.
- Hồ Tấn Phong: "Nên giảng dạy các môn lý luận chủ nghĩa Mác –
Lênin như thế nào", Tạp chí cộng sản, tháng 9 năm 1994.
- Lương Minh Cừ:"Một số ý kiến về công tác giáo dục chính trị tư
tưởng cho sinh viên hiện nay". Tạp chí giáo dục số 60 tháng 6 năm 2003.
- Lương Gia Ban: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận và học tập lý
luận". Tạp trí triết học, tháng 1 năm 2004.
- Lê Bình:"Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chính trị"
Lý luận chính trị số 3 – 2004.

3



- Lê Xuân Vũ, "Thế giới quan Mác Lênin trong đời sống tinh thần của
nhân dân ta ", Tạp chí cộng sản, 1986, số 6.
- Nguyễn Trọng Chuẩn, "Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện
đại đối với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học", Tạp chí Triết
học 1988, số 3.
- Trần Trọng Tân: "Góp phần đổi mới công tác lý luận cơ bản", NXB
CTQG, HN, 1995.
- Hoàng Thúc Lân, Giảng dạy triết học Mác – Lênin với việc nâng cao
năng lực tư duy biện chứng cho sinh viên các trường đại học. Luận văn thạc
sĩ triết học, 2003.
- Phạm Đình Đạt, "Vai trò lý luận đối với quá trình đổi mới xã hội ở
nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học, 1993.
- Trần Thước, "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp
trí thức Việt Nam", Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
- Trần Thanh Hà, "Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ
đảng viên người dân tộc Khơme ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn
hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
- Trần Viết Quân, "Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay", Luận văn thạc sĩ triết
học, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2002.
Tất cả các công trình trên đã có đóng góp to lớn trong việc giáo dục thế
giới quan khoa học cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện
nay. Tuy nhiên đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp nó còn có những khoảng
trống cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt vấn đề vai trò của việc

4



giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với việc hình thành thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay chưa được nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Nghiên cứu vai trò của thế giới quan khoa học đối với con người nói
chung, sinh viên nói riêng, vai trò của của việc giảng dạy các môn Lý luận
chính trị với việc hình thành thế giới quan khoa học; chỉ ra thực trạng và quy
trình giảng dạy các môn Lý luận chính trị cho sinh viên CĐSP Nam Định, từ
đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan khoa
học cho sinh viên CĐSP Nam Định trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu vai trò của thế giới quan khoa học đối với con người nói
chung và sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng; luận giải tầm quan trọng của
việc giảng dạy các môn Lý luận chính trị đối với quá trình hình thành và phát
triển thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định.
+ Làm rõ thực trạng và quy trình giảng dạy các môn Lý luận chính trị
để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thế giới quan khoa học của sinh
viên CĐSP Nam Định.
+ Đề xuất một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn chỉ nghiên cứu vai trò của việc gỉang dạy các môn Lý luận
chính trị đối với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP
Nam Định.
- Phạm vi nghiên cứu:

5



Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của việc giảng dạy các môn Lý
luận chính trị (môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin) đối
với việc hình thành thế giới quan khoa học cho sinh viên ở trường CĐSP Nam
Định hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
+ Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Các quan điểm
của Đảng ta về giáo dục – đào tạo và giáo dục lý luận Mác – Lênin cho sinh
viên các trường đại học, cao đẳng trong giai đoạn hiện nay.
+ Luận văn tham khảo, kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu,
bài viết có liên quan đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận triết học Mác – Lênin, luận văn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như phương pháp phân tích – tổng hợp,
lịch sử - logic, khái quát hóa – trừu tượng hóa… đồng thời kết hợp với
phương pháp điều tra xã hội học, thống kê, so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn nêu lên tầm quan trọng của giảng dạy các môn Lý luận
chính trị đối với việc giáo dục thế giới quan khoa học, thực trạng và một số
phương hướng, giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng giáo dục thế giới
quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác lý luận
chính trị và giáo dục đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu làm 3 chương 6 tiết.
6



Chương 1: Giảng dạy các môn lý luận chính trị với quá trình hình thành
và phát triển thế giới quan khoa học cho sinh viên
Chương 2: Giảng dạy các môn lý luận chính trị với việc hình thành thế
giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định - thực trạng và những vấn
đề đặt ra
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp giáo dục thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định

7


Chƣơng 1
GIẢNG DẠY CÁC MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VỚI QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC CHO
SINH VIÊN
1.1 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với con ngƣời nói chung
và sinh viên CĐSP nói riêng
1.1.1 Vai trò của thế giới quan khoa học đối với sự phát triển con
người
1.1.1.1 Thế giới quan khoa học
Thế giới quan xuất hiện từ rất sớm ngay từ thời nguyên thuỷ và cho tới
nay nó có nhiều định nghĩa khác nhau. Song có thể nói, thế giới quan là toàn
bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về vị
trí của con người trong thế giới ấy. Trong thế giới quan, những yếu tố cảm
xúc và trí tuệ, niềm tin và tri thức hoà quyện vào nhau. Rõ ràng, thế giới quan
không tự nhiên mà có. Nó được hình thành trên cơ sở hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của con người. Nó luôn được bổ sung,
hoàn thiện, phát triển cùng quá trình phát triển của thực tiễn xã hội. Do đó,
Thế giới quan có những đặc điểm cơ bản sau:
(1) Thế giới quan phát triển cùng với sự phát triển của con người và xã

hội thông qua hoạt động của mình.
(2) Thế giới quan luôn có mối quan hệ con người với thế giới. Sự hiểu
biết đúng đắn mối quan hệ đó sẽ định hướng và chỉ đạo hoạt động của con
người phù hợp với hiện thực luôn luôn vận động và phát triển nhằm thoả mãn
ngày càng cao nhu cầu và lợi ích của con người cũng như của xã hội.
(3) Thế giới quan là sản phẩm tinh thần của con người, phản ánh hiện
thực thông qua nhận thức, nhu cầu, lợi ích của cá nhân, của những tập đoàn
người hay của toàn xã hội.
8


(4) Thế giới quan phụ thuộc vào trình độ nhận thức, nhu cầu, lợi ích
của mỗi cá nhân, mỗi nhóm người, mỗi tập đoàn người và của toàn xã hội. Do
đó, trong mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi xã hội, mỗi dân tộc, mỗi giai cấp có thể
tồn tại nhiều thế giới quan khác nhau.
Thế giới quan có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống của mỗi
người, mỗi giai cấp, cộng đồng người và của cả loài người. Nó giúp con
người định hướng đúng trong cuộc sống, xác lập được nhân sinh quan đúng
đắn, tích cực. Trên cơ sở đó, con người xác định đúng thái độ, cách thức hoạt
động và cách sống của riêng mình. Khi xác định đúng được mục tiêu, lý
tưởng, hoài bão, ước mơ con người mới phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng, hoài
bão, ước mơ đó.
Thế giới quan còn giúp con người định hướng trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn. Đối với nhận thức, thế giới quan giúp con người
xác định xem con người có khả năng nhận thức thế giới hay không. Trên cơ
sở đó, con người mới tin vào sức mạnh nhận thức thế giới của mình hay
không, mới có các giải pháp để nhận thức thế giới hiệu quả nhất. Đối với hoạt
động thực tiễn thế giới quan giúp con người tự giác, chủ động xác định tính
hướng đích trong hoạt động thực tiễn. Do vậy, tránh được mò mẫm, tự phát,
chệch hướng, vô định.

Thế giới quan giúp con người xác định đúng mối quan hệ của bản thân
với người khác trong xã hội. Trên cơ sở đó giúp con người điều chỉnh những
quan hệ qua lại giữa người với nhau và hành vi của bản thân sao cho phù hợp
với mục tiêu chung của xã hội và phù hợp quy luật khách quan của sự phát
triển xã hội.
Thế giới quan là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức, niềm tin, lý trí và
tình cảm.

9


Tri thức là sự hiểu biết sâu sắc của con người về thế giới, là kết quả của
quá trình hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn đúng đắn của con người,
là sự phản ánh của thế giới khách quan của con người. Tri thức có nhiều loại
khác nhau, trong đó có tri thức về tự nhiên, về xã hội và về con người. Sự
hình thành và phát triển tri thức là một quá trình, thông qua toàn bộ hoạt động
sống của con người. Tri thức có thể được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Tuy nhiên, bản thân tri thức chưa trở thành thế giới quan. Tri thức chỉ
gia nhập vào thế giới quan khoa học khi nó chuyển thành niềm tin khoa học
của con người. Chỉ khi đó thì tri thức mới trở nên bền vững và sâu sắc, mới có
giá trị định hướng cho hoạt động của con người.
Niềm tin là một trạng thái tâm lý, tinh thần đặc biệt được phát triển trên
cơ sở của tri thức. Nó là động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo
hiện thực của con người. Niềm tin có thể chia làm hai loại: (1) niềm tin mù
quáng. (2) niềm tin khoa học.
Niềm tin chính là động lực mạnh mẽ, giúp cho mỗi con người có nghị
lực phi thường, có thể vượt qua những giây phút hiểm nguy, giám hy sinh tính
mạng vì mục tiêu lý tưởng mà mình đã theo đuổi.
Thế giới quan thể hiện trí tuệ của con người, thể hiện trình độ tương đối
cao của lý trí, bởi vì lý trí dựa trên cơ sở hiểu biết của con người với tư cách

là một chỉnh thể và sự thống nhất những biểu hiện muôn màu, muôn vẻ trong
hoạt động của con người. Lý trí của con người là sự thống nhất chặt chẽ giữa
niềm tin và tri thức. Lý trí không tách rời tình cảm mà gắn bó khăng khít, mật
thiết tình cảm.
Tình cảm là hình thức phản ánh đặc biệt mối quan hệ của con người về
thế giới và quan hệ của con người với nhau, thể hiện thái độ của con người về
những tác động của thế giới đối với bản thân.

10


Vì vậy, tình cảm góp phần củng cố lý trí, làm cho lý trí có thêm sức
mạnh. Như vậy, từng yếu tố đơn lẻ trên không phải là thế giới quan. Thế giới
quan cũng không phải là số cộng giản đơn của các yếu tố đó. Trong thế giới
quan có sự thống nhất hữu cơ, biện chứng giữa tri thức, niềm tin, lý trí và tình
cảm, là sự thể hiện toàn bộ sự hiểu biết và kinh nghiệm sống, hoạt động của
con người.
Thế giới quan sử dụng chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở lý luận của
mình được gọi là thế giới quan Mácxit hay thế giới quan cộng sản chủ nghĩa.
Thế giới quan đó còn được gọi là thế giới quan khoa học, bởi vì nó phản ánh
đúng đắn những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy con người
dựa trên cơ sở của các thành tựu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân
văn, đồng thời đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, thế giới quan cũng phát
triển và đã được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, trong đó rõ rệt nhất
đã trải qua ba hình thức sau:
Một là, thế giới quan huyền thoại. Xuất hiện trong buổi bình minh của
lịch sử loài người. Đó là sự cảm nhận thế giới rất đặc trưng của người nguyên
thuỷ. Nó phản ánh những quan niệm của người nguyên thuỷ về thế giới. Mỗi
dân tộc có những huyền thoại để giải thích về nguồn gốc dân tộc mình; nguồn

gốc của những hiện tượng tự nhiên như trái đất, bầu trời, sấm, sét, mây mưa,
nhật thực, nguyệt thực... Chẳng hạn như thần thoại Hy Lạp; huyền thoại về
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh; Lạc Long Quân, Âu Cơ của Việt Nam... Trong thế giới
quan huyền thoại, các yếu tố thực và ảo (tưởng tượng), cảm xúc và trí tuệ, lý
trí và niềm tin, cái người và cái thần hoà quyện vào nhau, chưa phân biệt rõ.
Hai là, thế giới quan tôn giáo. Đó là hình thức phản ánh thế giới khách
quan một cách hư ảo, là sự giải thích thế giới trên cơ sở thừa nhận sự sáng tạo
ra thế giới bởi lực lượng siêu nhiên, thần thánh. Trong thế giới quan tôn giáo,
11


niền tin tôn giáo đóng vai trò chi phối đối với lý trí, cái ảo lấn át cái thực, cái
thần lấn át cái người. Mặc dù vậy, thế giới quan tôn giáo cũng phản ánh khát
vọng của con người muốn được giải phóng khỏi những bất công, đau khổ,
muốn vươn tới thế giới hạnh phúc, ấm no. Đồng thời, thế giới quan tôn giáo
cũng phản ánh trình độ phát triển thế giới quan nhất định của con người.
Ba là, thế giới quan triết học. Đó là hình thức phản ánh thế giới quan
bằng hệ thống các khái niệm, nguyên lý, phạm trù, quy luật. Nếu thế giới
quan huyền thoại, yếu tố biểu tượng cảm tính giữ vai trò chi phối; trong thế
giới quan tôn giáo yếu tố niềm tin giữ vai trò chủ đạo, thì trong thế quan triết
học, yếu tố tư duy lý tính đóng vai trò chủ đạo. Thế giới quan triết học đã
chứng minh những quan niệm của mình bằng những lập luận logic, bằng tư
duy logic.
Vấn đề cơ bản của thế giới quan khoa học cũng chính là vấn đề cơ bản
của triết học. Theo Ph.Ăngghen "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc
biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ tư duy với tồn tại". [18, tr.403].
Trên cơ sở cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học mà người ta phân biệt
các hình thức thế giới quan triết học. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt,
mỗi mặt phải trả lời cho một câu hỏi lớn:
Mặt thức nhất: Giữa tư duy và tồn tại, cái nào có trước, cái nào có sau,

cái nào quyết định cái nào?
Mặt thức hai: Tư duy của con người có khả năng nhận thức được thế
giới hay không?
Trả lời cho hai câu hỏi này sẽ quyết định tới việc hình thành thế giới
quan triết học cũng như các học thuyết về nhận thức khác nhau. Giải quyết
mặt thức nhất trong vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân định
các trường phái triết học. Có hai trường phái lớn. Những ai cho rằng vật chất,
giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức của con người được coi là
12


các nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ
nghĩa duy vật. Ngược lại, những ai cho rằng, ý thức, tinh thần có trước giới tự
nhiên được gọi là các nhà duy tâm; họ hợp thành các môn phái khác nhau của
chủ nghĩa duy tâm.
Thế giới quan triết học cũng phản ánh tồn tại xã hội. Do vậy, trong xã
hội có giai cấp, thế giới quan triết học cũng mang tính giai cấp. Triết học được
coi là hạt nhân lý luận của thế giới quan, bởi lẽ, thông qua thế giới quan triết
học mà những quan niệm về kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức... được thể
hiện. Hơn nữa, triết học còn đóng vai trò định hướng cho sự củng cố, phát
triển thế giới quan của mỗi cá nhân, cộng đồng trong lịch sử.
Như chúng ta đã rõ, thế giới quan triết học duy vật đã trải qua ba loại
hình lịch sử phát triển của mình:
Một là, thế giới quan triết học thô sơ, mộc mạc thời kỳ cổ đại. Nó thể
hiện những quan điểm duy vật mộc mạc, chất phát, giản đơn về thế giới.
Những quan niệm này chưa được khái quát, thể hiện thông qua hệ thống khái
niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật. Tuy còn rất nhiều hạn chế nhưng về cơ
bản là đúng vì nó lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến
Thần linh hay Thượng đế.
Hai là, thế giới quan triết học duy vật siêu hình ở thế kỷ XVII – XVIII.

Đây là thời kỳ cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi
tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời kỳ cổ đại, chủ nghĩa duy
vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu
hình, máy móc. Do đó, đặc trưng của thế giới quan triết học này là có quan
niệm duy vật siêu hình, máy móc về thế giới. Theo thế quan duy vật siêu hình
này, mọi bộ phận, mọi yếu tố, mọi quá trình trong thế giới (cả tự nhiên và xã
hội) không có mối liên hệ tác động lẫn nhau, nếu có chỉ là ngẫu nhiên. Tuy
không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã
13


góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo,
điển hình là thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời kỳ phục
hưng.
Ba là, thế giới quan triết học duy vật biện chứng. Thế giới quan triết
học duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của thế giới quan duy
vật, khoa học. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng ra đời vào những
năm 40 của thế kỷ XIX do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng sau đó được
V.I.Lênin phát triển. Do tiếp thu được toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư
tưởng nhân loại, lại được hậu thuẫn bởi những thành tựu khoa học tự nhiên
đương thời, nên thế giới quan triết học duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra
đời đã khắc phục được những hạn chế của thế giới quan triết học duy vật thô
sơ, mộc mạc; thế giới quan triết học duy vật siêu hình. Thế giới quan triết học
duy vật biện chứng (gọi tắt là thế giới quan khoa học) không chỉ phản ánh
hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu
giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực.
1.1.1.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan
khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay
Sinh viên CĐSP Nam Định là con em của mọi tầng lớp nhân dân sống
ở tỉnh Nam Định về học tập ở trên địa bàn thành phố Nam Định, do đó điều

kiện kinh tế xã hội của thế giới cũng như của trong nước cùng những điều
kiện đặc thù của tỉnh Nam Định đều tác động đến việc giáo dục thế giới quan
khoa học cho sinh viên.
* Sự tác động của những điều kiện trong nước
Trước hết phải tính đến sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội. Đại
hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, qua hơn hai mươi năm đổi mới,
Đảng và nhân dân ta đã thu được những thành tựu hết sức quan trọng về kinh
tế và xã hội: "Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ
14


tăng trưởng khá cao... Văn hóa và xã hội có những tiến bộ trên nhiều mặt...
Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường; quan hệ đối
ngoại có bước phát triển mới" [11, tr.14]. Những thành tựu này đã tạo điều
kiện thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, và nó là tiền đề trực
tiếp cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiếp tục thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Tuy nhiên, cần
nhận thấy rằng, nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn ở trạng thái chậm phát triển
so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Đời sống của một bộ phận nhân
dân hiện nay vẫn ở mức thấp. Nguyên nhân căn bản là chúng ta xuất phát từ
một nền sản xuất nhỏ, nông nghiệp, nghèo nàn lạc hậu, tiến thẳng lên CNXH,
bỏ qua chế độ TBCN. Nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tồn tại lâu dài ở
nước ta đã tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần của nhân dân ta và tác
động đến cả quá trình giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên hiện nay.
Phần lớn sinh viên Nam Định là con em của nhân dân ở khắp các vùng quê.
Vì vậy, họ luôn luôn được kế thừa cả những yếu tố tích cực và hạn chế của
người nông dân Việt Nam. Những yếu tố tích cực ví dụ như lòng yêu nước,
tính cần cù chịu khó, dũng cảm, luôn được thế hệ trẻ kế thừa và phát huy. Bên
cạnh đó, những hạn chế của người nông dân như: đầu óc tư hữu, nếp nghĩ và
tư duy thiển cận, tư duy kinh nghiệm là chủ yếu, cung cách làm ăn tủn mủn,

tùy tiện, thiếu tổ chức kỷ luật đã ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục thế giới
quan khoa học cho thế hệ ngày nay nói chung và sinh viên CĐSP Nam Định
nói riêng.
Thực tiễn xã hội loài người đã chứng minh con người vừa là chủ thể
của hoàn cảnh, nhưng đồng thời vừa là sản phẩm của hoàn cảnh. Mác đã
viết:"Con người trong chừng mực mà họ là hiện thân của những phạm trù
kinh tế, là kẻ đại biểu cho những quan hệ lợi ích giai cấp nhất định" [19,tr.21].
Do đó, trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta chuyển
15


sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, thì tất cả những ưu và nhược điểm
của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đã và đang
tác động đến quá trình giáo dục thế giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP
Nam Định hiện nay. Có thể khẳng định rằng sự tác động tích cực là chủ yếu,
song sự tác động tiêu cực cũng không nhỏ.
Sự tác động tích cực được thể hiện như: góp phần phá vỡ tình trạng
chia cắt, cục bộ, manh mún, vốn là sản phẩm của nền kinh tế tự cung tự cấp
gây ra. Đồng thời, khắc phục được tình trạng thụ động, ỷ lại của cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển và từng
bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Điều kiện này đã tác động quan trọng
tới sự phát triển năng lực tư duy biện chứng của mỗi người đặc biệt là sinh
viên CĐSP Nam Định nói riêng. Bởi tư duy kinh nghiệm, siêu hình đã trở
thành lực cản rất lớn cho quá trình học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện
phẩm chất chính trị, đạo đức mới của sinh viên. Cơ chế thị trường có những
đòi hỏi khắt khe về thị trường lao động, về nguồn lực đó là những con người
phải có trình độ học vấn cao, có năng lực chuyên môn vững chắc, năng động
sáng tạo trong các lĩnh vực lao động và cuộc sống. Những đòi hỏi khắt khe
của cơ chế thị trường đã và đang tác động đến sinh viên, đòi hỏi sinh viên
khắc phục được tính thụ động, ỷ lại, dựa dẫm, lười học tập, lười nghiên cứu

khoa học. Chính vì vậy, sinh viên ngày nay đặc biệt là sinh viên sư phạm năng
động hơn, thông minh hơn, dám tự khẳng định mình, dám đương đầu với
những khó khăn bước đầu trên con đường lập nghiệp, thôi thúc sinh viên
không chỉ coi trọng việc học tập, nghiên cứu những tri thức chuyên môn
ngành nghề, mà còn ham muốn được học tập nghiên cứu lý luận, tìm hiểu về
đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.

16


Khi chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN, nền kinh tế của đất nước đã có những bước
chuyển lớn. Đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện, đời sống tinh thần
của nhân dân được nâng cao, đời sống văn hóa có những bước tiến bộ rõ rệt.
Những thành tựu đó đã bước đầu tạo ra niềm tin của nhân dân nói chung và
sinh viên nói riêng về sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy,
sinh viên đã có niềm tin CNXH, họ gắn bó với lý tưởng cách mạng XHCN.
Đa số sinh viên ngày nay nêu cao tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm. Vì vậy, nó đã tạo ra điều kiện để khắc phục những nhận thức
lệch lạc, dao động, suy giảm niềm tin khi họ bị tác động của mặt trái cơ chế
thị trường và sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Trong cơ chế mới hiện nay, việc mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác
phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật với nhiều nước trên thế giới đã
tạo điều kiện cho nhân dân trong đó có sinh viên học hỏi, tiếp thu và kế thừa
những tư tưởng tiến bộ, văn minh, những thành tựu về khoa học, kỹ thuật và
văn hóa của nhân loại và của thời đại. Điều này có ảnh hưởng tích cực tới việc
tiếp thu, lĩnh hội, nâng cao trí tuệ, hình thành và phát triển thế giới quan khoa
học cho sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên cả nước nói chung.
Về tác động tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực là chủ yếu thì
cơ chế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó. Sự tác động tiêu cực của

cơ chế thị trường trong quá trình giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
đối với sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên cả nước nói chung
là:
(1) Trong cơ chế thị trường, do đề cao lợi ích cá nhân đã làm cho nhiều
người và cả sinh viên hiện nay nẩy sinh tư tưởng và lối sống thực dụng, sống
vì tiền. Vì tiền và đề cao nhu cầu vật chất quá mức nên có
17


người đã bất chấp mọi giá trị đạo đức, văn hóa, kỷ cương, nhằm đạt được lợi
ích cá nhân.
(2) Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, bên cạnh những mặt tích cực và tiến
bộ đã xuất hiện một số biểu hiện không lành mạnh như mê tín dị đoan
phát triển, thị hiếu bắt chước không lành mạnh, các tệ nạn xã hội phát triển;
cũng như một số hoạt động về đời sống tâm linh, tôn giáo được đề cao quá
mức ở một bộ phận nhân dân.
Những hiện tượng tiêu cực đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống
tinh thần của nhân dân ta và nó sẽ gây trở ngại đối với việc giáo dục thế giới
quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định nói riêng và sinh viên nói
chung.
Như vậy là từ điều kiện kinh tế - xã hội đến văn hóa đã và đang tác
động cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực đối với quá trình giáo dục thế
giới quan khoa học cho sinh viên CĐSP Nam Định hiện nay.
* Sự tác động của điều kiện quốc tế
Đứng trước tình hình thế giới đang có những biến đổi to lớn. Sự biến
đổi đó đang tác động đến sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Sự
tác động đó có những mặt tích cực và cả những mặt hạn chế. Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã xác định "Những nét mới trong tình
hình thế giới và khu vực tác động mạnh mẽ đến tình hình nước ta, trước mắt
nhân dân ta có cả cơ hội và thách thức lớn" [7, tr.14]. Một trong những

nguyên nhân quan trọng là do từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, do tác
động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là
do công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... nền
kinh tế thế giới đang có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức
năng và phương thức hoạt động. Đây là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc
biệt. Lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển
18


từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức. Nền văn minh của loài người
chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Vì vậy, những nước
phát triển hiện nay trên thế giới là những nước tư bản đã có một tiềm lực
mạnh để tiếp tục phát triển kinh tế tri thức... Kinh tế tri thức đã và đang tạo ra
tốc độ phát triển "chóng mặt"... Do đó, đời sống của người lao động được cải
thiện. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức thì những mâu thuẫn
trong lòng xã hội tư bản cũng phát triển gay gắt. Chủ nghĩa tư bản đã có
những điều chỉnh lớn về chính sách xã hội. Do đó, nhờ hệ thống thông tin mà
mỗi chúng ta đều biết được đời sống vật chất và tinh thần của người lao động
được cải thiện, những chính sách như trợ cấp thất nghiệp, công nhân được
mua cổ phiếu, cổ phần... đã tạo ra một vỏ bọc, để mỗi người có thể hiểu rằng
CNTB ngày nay dường như nhân đạo hơn, dường như những thay đổi về
chính sách xã hội đã điều chỉnh được mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản. Vì
vậy, chính hiện tượng này, nhân dân chúng ta, đặc biệt là sinh viên sư phạm
hiện nay nếu không được trang bị thế giới quan khoa học, không được giáo
dục đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước một cách khoa
học sẽ dễ dàng hiểu rằng chế độ TBCN là chế độ tiến bộ nhất trong lịch sử
loài người, rằng CNXH đã thuộc về quá khứ.
Bên cạnh đó, chúng ta phải nhận thấy trong kinh tế tri thức, mọi hoạt
động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế. Mà toàn cầu hóa kinh
tế từ thực tiễn ngày nay nhiều nhà khoa học về kinh tế và xã hội đã khái quát

hóa và đưa ra nhận định giống nhau đó là:"Toàn cầu hóa có tác động tích cực,
tiêu cực, sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trong mỗi quốc gia và
trên thế giới". Trong Đại hội lần thứ 14 hiệp hội các hội đồng nghiên cứu
khoa học xã hội châu Á tổ chức tại Việt Nam, đồng chí Phạm Đức Thành Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã khẳng định:"Toàn
19


cầu hóa kinh tế là một xu hướng khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước
tham gia vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu
tranh" [35, tr.140].
Tất cả những tác động tích cực của toàn cầu hóa đó chính là tạo cơ hội
lớn cho từng quốc gia thu hút các nguồn vốn, tiếp thu công nghệ mới, tiếp thu
kinh nghiệm, tạo cơ hội mở rộng thị trường. Toàn cầu hóa còn góp phần làm
cho sự tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao. Toàn cầu hóa tạo điều kiện thuận
lợi cho tiến trình hiện đại hóa của từng quốc gia. Đối với Việt Nam, mặc dù
chúng ta chưa chịu tác động trực tiếp của toàn cầu hóa như nhiều nước trên
thế giới, nhưng chính đường lối mở cửa hội nhập của nước ta được thực hiện
trong bối cảnh toàn cầu hóa nên mặt tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa
cũng tác động đến Việt Nam. Đặc biệt là tác động của toàn cầu hóa đối với
văn hóa - xã hội ở nước ta. Sự tác động đó có cả mặt tích cực và tiêu cực diễn
ra vô cùng phức tạp. Bởi vì ngày nay nước ta đang trong nền kinh tế chuyển
đổi từ kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường. Đó là một nền kinh tế
thị trường chưa hoàn thiện, do đó làm cho tác động tiêu cực của toàn cầu hóa
đối với nước ta còn nguy hại hơn nhiều.
Chúng ta vốn đang sống trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu
bao cấp, mọi giá trị truyền thống được bảo tồn, giữ gìn nay bước vào kinh tế
thị trường trong xu thế toàn cầu hóa, mọi giá trị và các tiêu chuẩn văn hóa
đang đứng trước nguy cơ bị đồng nhất với văn hóa đại chúng, thế hệ trẻ Việt
Nam dễ bị chuyển từ cực nọ sang cực kia, dễ rơi vào tâm lý sùng ngoại, chạy
theo thị hiếu văn hóa kiểu phương Tây. Đây là những giá trị xa lạ với dân tộc

ta, coi nhẹ những giá trị văn hóa truyền thống. Họ dễ bị rơi vào những quan
niệm sống tự do cá nhân, cực đoan, thái độ vô trách nhiệm với gia đình và xã
hội, dễ bị nhũng nhiễu bởi hành vi bạo lực, dâm ô, trụy lạc, mê tín dị đoan lôi
cuốn và những mặt tiêu cực trên không thể
20


×