Tải bản đầy đủ (.docx) (157 trang)

Cục diện chính trị khu vực đông á những năm đầu thế kỷ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.1 MB, 157 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.............................................................................

3

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỀU................................................................................... 5
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................

6

1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................

6

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................... 8
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ......................................... 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 13
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 14
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................. 14
Ch-¬ng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ...................................................... 16

1.1. Khái niệm “cục diện chính trị khu vực” .................................................... 16
1.2. Các thành tố cấu thành cục diện chính trị khu vực, thế giới ................. 20
1.2.1. Quốc gia...................................................................................... 20
1.2.2. Các cơ chế đa phương ............................................................... 22
1.2.3. Các tổ chức phi chính phủ ............................................................ 24
1.2.4. Các công ty xuyên quốc gia ....................................................... 25
1.3. Những nhân tố tác động đến cục diện khu vực, thế giới ......................... 27
1.3.1. Sự đấu tranh của các chủ thể trên trường quốc tế .................. 27
1.3.2. Sự thay đổi sức mạnh tổng hợp của các chủ thể .................... 28


1.3.3. Các xu thế chủ yếu của thế giới đương đại .............................. 29
1.3.4. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và toàn cầu hóa .............. 32
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................... 38
Ch-¬ng 2. CÁC THÀNH TỐ TRONG CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC
ĐÔNG Á NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI.................................................

39

2.1. Chính sách Đông Á của các nước lớn trong khu vực .............................. 39

1


2.1.1. Nga .......................................................................................................... 39
2.1.2. Trung Quốc ........................................................................................... 44
2.1.3. Nhật Bản ................................................................................................ 47
2.2. Quan hệ song phương giữa các nước lớn trong khu vực và với Mỹ ..... 52
2.2.1. Quan hệ Nga - Trung Quốc ................................................................ 52
2.2.2. Quan hệ Nga - Nhật Bản ..................................................................... 59
2.2.3. Quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản....................................................... 62
2.2.4. Quan hệ Nga - Mỹ ................................................................................ 70
2.2.5. Quan hệ Trung Quốc - Mỹ .................................................................. 72
2.2.6. Quan hệ Nhật Bản - Mỹ ....................................................................... 76
2.3. Vị trí và vai trò của các cơ chế đa phương ................................................. 77
2.3.1. ASEAN ................................................................................................... 78
2.3.2. ARF......................................................................................................... 81
2.3.3. APEC ...................................................................................................... 86
2.4. Vị trí và vai trò của các chủ thể phi quốc gia ............................................ 89
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................97
Ch-¬ng 3. TÁC ĐỘNG CỦA CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC ĐÔNG Á


99

ĐỐI VỚI VIỆT NAM ..............................................................................................

3.1. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam từ cục diện chính trị khu vực

Đông Á hiện nay ..................................................................................................... 99
3.1.1. Cơ hội .................................................................................................... 99
3.1.2. Thách thức ......................................................................................... 106
3.2. Một số khuyến nghị đối với Việt Nam trong cục diện chính trị khu vực

Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI ................................................................109
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................

114

KẾT LUẬN.............................................................................................................

116

TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................

119

PHỤ LỤC ...............................................................................................................

129
2



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB

Asian Development Bank
Ngân hàng phát triển châu Á

APEC

Asia Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

ARF

ASEAN Regional Forum
Diễn đàn khu vực ASEAN

ASEAN

The Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các nước Đông Nam Á

ASEM

The Asia - Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á - Âu

CHDCND

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân


ECOSOC

Economic and Social Council
Hội đồng kinh tế - xã hội

EU

European Union
Liên minh châu Âu

FTA

Free Trade Agreement
Hiệp định thương mại tự do

G7

Group 7
Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển nhất thế giới

GDP

Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội

GSM

Greater Mekong Subregion
Tiểu vùng sông Mekong mở rộng


IMF

International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế

NATO

North Atlantic Treaty Organization
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương

NICs

Newly Industrialized Countries

3


ODA
OPEC
OSCE

Các nước công nghiệp mới
Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
Organization of Petroleum Exporting Countries
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ

QHQT


The Organization for Security and Co-operation in
Europe

SCO

Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu
Quan hệ quốc tế

SEV

Shanghai Cooperation Organization
Tổ chức hợp tác Thượng Hải
Совет экономической взаимопомощи Sovyet
Ekonomičeskoy Vzaimopomošči, SEV (СЭВ, SEW)
(tiếng
Nga)

SNG

Council of Mutual Economic Assistance (COMECON)
hoặc CMEA (tiếng Anh)
Hội đồng tương trợ kinh tế
Tiếng Nga: Содружество Независимых Государств,
viết

TBCN
UNDP
USD
WB
WTO

XHCN

tắt: СНГ, chuyển tự sang tiếng La Tinh thành
Sodruzhestvo
Nezavisimykh Gosudarstv
Tiếng Anh: Commonwealth of Independent States (CIS)
Cộng đồng các quốc gia độc lập
Tư bản chủ nghĩa
United Nations Development Program
Chương trình phát triển Liên Hợp quốc
US Dollar
World Bank
Ngân hàng thế giới
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
Xã hội chủ nghĩa


4


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỀU
Bảng 2.1: Số lượng chi nhánh nước ngoài của các TNC theo vùng
(đến 2004)……………………………………………………………….…93
Bảng 2.2: 20 công ty xuyên quốc gia lớn nhất trong các nền kinh tế
chủ đạo…………………………………………………………………….94
Bảng 2.3: 10 nền kinh tế chủ đạo được sự hậu thuẫn bởi 100 công ty
xuyên quốc gia hàng đầu…………………………………………………95

5



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XX qua đi đã đánh dấu nhiều sự kiện trọng đại trong quan hệ
quốc tế. Một trong những sự kiện đó là sự ra đời và tan rã của Liên bang Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Xôviết (gọi tắt là Liên Xô). Liên Xô tan rã đã tác động
không nhỏ đến sự thay đổi tương quan lực lượng trên thế giới, đồng thời tạo
nên những chuyển biến nhanh chóng trong đời sống chính trị quốc tế của các
nước cũng như các khu vực trên phạm vi toàn cầu. Trật tự thế giới hai cực đối
đầu từng tồn tại gần nửa thế kỷ đã kết thúc, cục diện thế giới và cơ cấu quyền
lực quốc tế đang được sắp xếp lại. Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc không
còn bị chi phối nặng nề bởi ý thức hệ, thay vào đó là lợi ích dân tộc được đặt
lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu
từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập đã và đang chuyển
sang hướng có lợi cho Mỹ và phương Tây.
Trong bối cảnh nhiều biến động ấy, Đông Á hiện hữu trên bàn cờ chính
trị quốc tế với nhiều bình diện khác nhau. Trong suốt ba thập kỷ qua, Đông Á
được các chuyên gia đánh giá là một khu vực kinh tế năng động nhất trên thế
giới. Trong giai đoạn 1980-2003, GDP của khu vực Đông Á đạt tốc độ tăng
trung bình 7%/năm, cao hơn hẳn tốc độ trung bình của các khu vực khác trong
nền kinh tế thế giới. [15, tr. 44] Đông Á như một “đàn ngỗng bay” (“flying geese model”) với Nhật Bản là con đầu đàn đã khiến nhiều người trên thế giới
cho rằng “thế kỷ XXI là thế kỷ của châu Á”. [16, tr. 88] Đông Á cũng là khu
vực có lãnh thổ rộng lớn, dân số đông và tài nguyên giàu có. Các quốc gia
trong khu vực đang ở những giai đoạn khác nhau của sự phát triển kinh tế
cùng với những nét đa dạng trong hệ thống chính trị, các đặc trưng dân tộc và
truyền thống văn hóa.

6



Sau chiến tranh lạnh, các quốc gia, các tổ chức quốc tế trong khu vực
đều có những điều chỉnh trong chiến lược và chính sách phát triển của mình
và chính những sự điều chỉnh này đã tác động trở lại đến toàn bộ cục diện thế
giới và khu vực. Ở Đông Á, những nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Nga, tổ
chức khu vực như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (The Association of
Southeast Asia Nations - ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (Asia Pacific Economic Cooperation - APEC) là những nước và
tổ chức khu vực được coi là có tác động trực tiếp đến việc hình thành cục diện
thế giới hiện nay và trong tương lai. Đồng thời, Đông Á cũng là khu vực đan
xen lợi ích và có quan hệ phức tạp giữa các nước lớn. Chính những yếu tố trên
đã tác động đến việc hình thành các đặc điểm riêng biệt của khu vực này.
Bối cảnh quốc tế với nhiều sự kiện trọng đại và phức tạp sau chiến
tranh lạnh, cùng với những tác động đa chiều của nó đã ảnh hưởng đến cục
diện chính trị và quan hệ quốc tế ở Đông Á.
Việt Nam là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, một bộ
phận quan trọng của khu vực Đông Á, là chủ nhà của nhiều sự kiện quốc tế
quan trọng, trong đó có Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
lần thứ XIV. Do vậy, tình hình phát triển của khu vực này có ảnh hưởng rất
lớn đối với Việt Nam hiện nay và trong tương lai.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản
Việt Nam đến nay, Việt Nam đã nhiều lần nhận định về tình hình khu vực
Đông Á nói riêng, khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung, đặc biệt là
về tình hình chính trị, bởi vì có ổn định chính trị thì mới đảm bảo an ninh khu
vực, từ đó mới có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của
đất nước.
Với tất cả những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Cục
diện chính trị khu vực Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI làm luận văn
thạc sĩ khoa học quan hệ quốc tế của mình.
7



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cục diện chính trị khu vực Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI là đề
tài còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Từ khi Đảng và Nhà nước ta từng bước thực
hiện đổi mới tư duy đối ngoại, xây dựng chính sách đối ngoại rộng mở, tích
cực, độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế với mục
tiêu hàng đầu là tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp phát triển
đất nước, chúng ta đã ngày càng chú trọng tới cục diện chính trị khu vực. Sự
quan tâm của các học giả trong và ngoài nước tới đề tài cục diện chính trị khu
vực Đông Á từ đó cũng ngày càng tăng.
Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố
trên các tạp chí uy tín cả trong và ngoài nước về cục diện thế giới nói chung,
cục diện khu vực Đông Á nói riêng như: Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, Nghiên
cứu Trung Quốc, Nghiên cứu Đông Bắc Á, Nghiên cứu Đông Nam Á, Châu
Mỹ ngày nay, Cộng sản… Ở Việt Nam, việc nghiên cứu Cục diện chính trị
Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI đang là hướng nghiên cứu được các học
giả chú ý.
Điểm lại một số nội dung chính trong các công trình nghiên cứu tiêu
biểu, ta thấy tác giả Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hà trong cuốn sách Cục diện
châu Á - Thái Bình Dương, xuất bản năm 2006, đã phác thảo một bức tranh
tổng thể về cục diện của khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong 20 năm
đầu thế kỷ XXI mà trọng tâm là Đông Bắc Á và Đông Nam Á; cung cấp
những thông tin, luận cứ khoa học, dự báo tình hình và các xu hướng phát
triển cũng như sự kiện liên kết khu vực nhằm xác định những tác động của
chúng đối với Việt Nam. Cuốn sách gồm 4 chương: Chương I xác định cục
diện kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương, làm rõ các xu hướng biến
đổi chủ yếu về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, qua đó thể hiện những
thay đổi về thế và lực của các nền kinh tế, các chủ thể kinh tế trong khu vực.
Chương II trình bày cục diện chính trị, an ninh khu vực châu Á - Thái Bình

8


Dương, đưa ra một cách khái quát nhất thực trạng chính trị, an ninh, các quan
hệ quốc tế, so sánh lực lượng chính trị-kinh tế, cơ chế và cách thức giải quyết
các vấn đề của khu vực từ sau chiến tranh lạnh đến nay, đồng thời đưa ra một
số điểm thuận lợi, thách thức và xu hướng phát triển đến năm 2020. Chương
III: Cục diện văn hoá, xã hội bàn về vấn đề văn hoá, dân tộc, tôn giáo, dân số,
việc làm, phân tầng xã hội và phúc lợi xã hội. Tiếp theo, Chương IV đề cập
đến sự tác động của cục diện châu Á - Thái Bình Dương đối với Việt Nam.
Đây không chỉ là môi trường trực tiếp của Việt Nam, nơi chứa đựng những lợi
ích cơ bản mà còn là khu vực có vị trí quan trọng trong hệ thống quan hệ đối
ngoại của Việt Nam và là đầu cầu đi ra thế giới.
Trong cuốn sách Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu Á Thái Bình Dương, tác giả Vũ Dương Huân đã khái quát tình hình thế giới khi
bước vào thiên niên kỷ mới với những chuyển biến lớn lao. Cục diện chính trị
quốc tế biến đổi to lớn. Liên Xô tan rã, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất còn
lại trên thế giới với ưu thế vượt trội cả về kinh tế, quân sự, chính trị. Tuy vậy,
Mỹ không thể hoàn toàn đơn phương áp đặt ý chí của mình trong các vấn đề
quốc tế. Sự trỗi dậy của nhiều quốc gia như Trung Quốc, Nhật Bản, Liên minh
châu Âu, Ấn Độ là những thách thức đối với xu hướng bá quyền của Mỹ. Cục
diện thế giới đang chuyển dần từ hai cực sang đa cực, đặc biệt rõ nét
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cuốn sách là sự tìm hiểu và nghiên cứu
mối quan hệ giữa Mỹ, siêu cường duy nhất, với các cường quốc khác ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương có ý nghĩa to lớn đối với các nhà nghiên cứu,
hoạt động đối ngoại trong thời kỳ hiện nay, khi Đảng và Nhà nước ta tích cực
triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ đối ngoại.
Tác giả Trần Quang Minh trong cuốn sách Quan điểm của Nhật Bản về
liên kết Đông Á trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế xuất
bản năm 2007 đã hệ thống hoá và phân tích một cách có chọn lọc các quan

9


điểm chính sách chủ yếu của chính phủ và giới học thuật của Nhật Bản về liên
kết Đông Á trong bối cảnh quốc tế mới kể từ sau khi kết thúc chiến tranh lạnh
đến nay. Từ đó đề xuất một số kiến nghị về đối sách của Việt Nam trong quan
hệ với Nhật Bản nói riêng và với các nước khu vực nói chung nhằm tranh thủ
thời cơ và đối phó với những thách thức của tiến trình liên kết Đông Á. Đồng
thời, để hiểu vấn đề một cách có hệ thống, cuốn sách cũng đề cập đến những
nét chung nhất về cơ sở của liên kết Đông Á và các quan điểm chính sách của
Nhật Bản về liên kết Đông Á trước những năm 1990.
Các tác giả nước ngoài, trên cơ sở phân tích cục diện Đông Á nói
riêng, châu Á - Thái Bình Dương nói chung trên nhiều khía cạnh đã luận giải
nhiều vấn đề, vị trí chiến lược của khu vực này trong các công trình nghiên
cứu như Non-traditional Security Cooperation for Regionalism in Northeast
Asia (Hợp tác an ninh phi truyền thống vì lợi ích khu vực ở Đông Bắc Á) của
tác giả Tsuneo Akaha, xuất bản năm 2003; Towards an ASEAN Security
Community (Hướng tới một cộng đồng an ninh ASEAN) của tác giả Roldolfo
C. Severino, xuất bản năm 2004; Towards a New Security Order in Pacific
Asia (Hướng tới một trật tự an ninh mới ở châu Á – Thái Bình Dương). Trong
Pacific Asia 2022: Sketching Future of a Region (Phác thảo tương lai một
khu vực) của tác giả Yoon Young-Kwan xuất bản năm 2005; The Emerging
East Asian Community – Security & Economic Issues (Sự nổi lên của vấn đề
kinh tế và an ninh trong của cộng đồng Đông Á) của tác giả Lee Poh Ping,
Tham Siew Yean, George T. Yu xuất bản năm 2006; Stability and Complexity
in Asia-Pacific Security Affairs (Sự ổn định và phức tạp trong các vấn đề an
ninh của khu vực châu Á – Thái Bình Dương) của tác giả Robert Ayson, xuất
bản năm 2006…
Nhìn chung, tuy có khác nhau về quy mô công trình, phạm vi nghiên
cứu, nhưng các tác giả nước ngoài đều thống nhất ở những điểm sau:


10


- Đông Á ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của thế
giới thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
- Xuất phát từ đặc điểm trên, các nước lớn trong khu vực đều điều
chỉnh chính sách khu vực của mình, nhằm mở rộng ảnh hưởng, giành lấy vai
trò chi phối khu vực, làm thay đổi cục diện khu vực.
Có thể nói, các công trình nói trên cũng đã đưa ra một bức tranh tương
đối đa dạng, hoàn chỉnh về khu vực Đông Á với nhiều khía cạnh, nhiều khu
vực địa lý. Và khi nghiên cứu về khu vực Đông Á, các công trình này đã sử
dụng các khái niệm khác nhau như “cục diện”, “tình hình”, “môi trường”,
hoặc không đưa ra được một tên gọi chính xác. Hoặc nếu có công trình nào sử
dụng khái niệm “cục diện” thì cũng chưa có sự giải thích thấu đáo nội hàm
của khái niệm này.
Mặt khác, những công trình nghiên cứu và các bài nghiên cứu chủ yếu
tập trung vào các nội dung cục diện khu vực Đông Á nói chung, hay các vấn
đề ngoại giao, an ninh khu vực Đông Bắc Á, Đông Nam Á nói riêng… mà
vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu cụ thể, sâu sắc khía
cạnh chính trị trong cục diện khu vực Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI
cũng như nêu lên những tác động của cục diện đó đối với Việt Nam, từ đó đưa
ra những khuyến nghị cho Việt Nam trước cục diện chính trị khu vực. Đó là lí
do giải thích tại sao chúng tôi muốn tiếp tục tìm hiểu về cục diện chính trị khu
vực Đông Á đặc biệt là trong những năm đầu thế kỷ XXI.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ cục diện chính trị khu vực thông qua
việc phân tích, so sánh tương quan lực lượng của các chủ thể chủ yếu ở Đông
Á những năm đầu thế kỷ XXI và tác động của cục diện chính trị đó đối với
Việt Nam.

Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn đặt ra một số nhiệm vụ chủ yếu sau:

11


1. Tìm hiểu khái niệm “cục diện chính trị khu vực Đông Á” những năm
đầu thế kỷ XXI.
2. Phân tích những nhân tố tác động đến sự thay đổi cục diện chính trị
khu vực Đông Á trước hết và chủ yếu là vai trò, vị trí của các nước lớn trong
khu vực như Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, cũng như ảnh hưởng của Mỹ và
quan hệ giữa các nước đó.
3. Phân tích vai trò của các tổ chức khu vực và các diễn đàn đa phương
như ASEAN, ARF, APEC, các tổ chức phi chính phủ và các công ty xuyên
quốc gia trong cục diện chính trị khu vực Đông Á.
4. Đánh giá tác động của cục diện chính trị Đông Á đối với Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Cục diện chính trị ở khu vực Đông Á
Phạm vi không gian: Khu vực Đông Á, bao gồm những quốc gia Đông
Bắc Á và Đông Nam Á. Cho đến nay đã có rất nhiều ý kiến về cách xác định
khuôn khổ Đông Á xét từ các tiêu chí khu vực địa - văn hóa, địa - lịch sử. Có
ý kiến cho rằng Đông Á bao gồm Đông Bắc Á và Đông Nam Á, hoặc coi
Đông Á chính là Đông Nam Á. Có ý kiến cho rằng Đông Á chỉ bao gồm các
nước và vùng lãnh thổ thuộc tiểu khu vực Đông Bắc Á. Ngoài ra còn có cách
gọi Đông Á bao gồm cả Nam Á nhưng không phổ biến. [15, tr. 31] Hay có
cách hiểu khác, Đông Á là vùng bờ phía Tây của Thái Bình Dương, trải dài từ
vùng Trucốtca của Nga ở phía Bắc tới Singapore ở phía Nam. [75, tr. 56]
Theo định nghĩa trong Từ điển Bách khoa thư thì “Đông Á là một phần của
vành đai núi lửa quanh Thái Bình Dương và của máng te-tít cũ chạy từ sơn
nguyên Tiểu Á đến quần đảo Mã Lai”, theo đó, Đông Á là một phần lục địa
châu Á, giáp Thái Bình Dương, thuộc ôn đới, cận nhiệt đới và nhiệt đới (từ 20

độ đến 60 độ vĩ bắc), phần đất liền chủ yếu thuộc nền Trung Hoa và khu uốn
nếp Trung Sinh, ngoài đất liền còn quần đảo Kuril, Sakhalin, Nhật Bản, Đài

12


Loan. Các nước ở Đông Á gồm miền Viễn Đông của Nga, Trung Hoa, Nhật
Bản, CHDCND Triều Tiên, Hàn Quốc.
Rõ ràng, khái niệm khu vực Đông Á còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
Chính vì những nhận thức khác nhau về khu vực Đông Á như trên nên quan
niệm về Đông Á của các nhà nghiên cứu cũng rất khác nhau. Trong luận văn
này, quan điểm của chúng tôi khi nói đến Đông Á là nói đến cả hai tiểu khu
vực là: Đông Bắc Á gồm các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
CHDCND Triều Tiên, vùng Viễn Đông của Nga, một số vùng lãnh thổ và một
số quần đảo khác; Đông Nam Á với toàn bộ 11 quốc gia nằm trong đó, cụ thể
là Brunei, Campuchia, Đông Timo, Inđônêxia, Lào, Malaixia, Mianma,
Philippin, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Bên cạnh đó cũng không thể
không nhắc tới vai trò của Mỹ - quốc gia có vai trò chi phối mạnh mẽ cục diện
chính trị khu vực Đông Á, vì thế trong luận văn này, Mỹ được nhắc tới như
một chủ thể quan trọng tuy không nằm trong phạm vi địa chính trị khu vực
Đông Á nhưng lại được đề cập như một chủ thể góp phần tạo nên cục diện
chính trị Đông Á.
Phạm vi thời gian: luận văn chỉ nghiên cứu cục diện chính trị khu vực
Đông Á trong những năm đầu thế kỷ XXI.
5. Phương pháp nghiên cứu
Vì đối tượng nghiên cứu của luận văn là một vấn đề chính trị và mang
tính lịch sử sâu sắc nên phương pháp nghiên cứu khoa học chính trị và lịch sử
sẽ là những phương pháp quan trọng. Việc bám sát các quan điểm đánh giá
tình hình quốc tế và khu vực của Đảng ta trong các văn kiện đại hội được coi
là căn cứ lý luận, định hướng cho tư tưởng trong quá trình nghiên cứu đề tài.

Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng một cách tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu, tiếp cận phù hợp với các vấn đề lịch sử chính trị
quốc tế, trong đó, phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ

13


yếu. Các phương pháp khác như phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh…
được sử dụng với mức độ khác nhau hỗ trợ cho phương pháp chủ yếu nêu trên.

6. Đóng góp của luận văn
Dựa vào nguồn tài liệu chính thống trong và ngoài nước, luận văn góp
phần luận giải và làm sáng tỏ thêm cục diện chính trị khu vực Đông Á những
năm đầu thế kỷ XXI và những tác động đối với Việt Nam. Qua đó, có thể thấy
được sự thay đổi của trật tự thế giới, tương quan lực lượng trên bàn cờ chính
trị khu vực Đông Á - nơi nước ta là một thành viên. Luận văn sẽ là tài liệu
tham khảo cho việc học tập của sinh viên chuyên ngành quan hệ quốc tế,
chính trị học, lịch sử… và cho những người quan tâm đến các vấn đề chính
trị, quan hệ quốc tế ở khu vực Đông Á và thế giới.
7. Kết cấu luận văn
Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nói trên, ngoài phần mở
đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có kết cấu ba
chương, cụ thể là:
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
Chương này trình bày những kiến thức cơ bản về khái niệm “cục diện”,
“cục diện chính trị khu vực”. Sau đó, chương này nêu lên các bộ phận cấu
thành cũng như những nhân tố tác động đến cục diện chính trị khu vực và thế
giới. Từ đó tạo thành cơ sở lý luận vấn đề nghiên cứu của luận văn.
Chương 2. CÁC THÀNH TỐ TRONG CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ KHU
VỰC ĐÔNG Á NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI


Chương này trình bày chính sách Đông Á của các nước lớn trong khu
vực, quan hệ song phương của các nước đó với nhau, trong đó có cả Mỹ, quốc
gia có tác động mạnh mẽ chi phối cục diện chính trị khu vực Đông Á. Đồng
thời, chương này cũng phân tích vị trí vai trò của các cơ chế đa phương như
ASEAN, APEC… các chủ thể phi quốc gia như các tổ chức quốc tế, phi chính
phủ, các công ty xuyên quốc gia trong cục diện chính trị Đông Á.
14


Chương 3. TÁC ĐỘNG CỦA CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC ĐÔNG
Á ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Chương này trình bày những tác động của cục diện chính trị khu vực
Đông Á, cơ hội và thách thức từ cục diện đó đối với Việt Nam. Từ đó, đưa ra
một số khuyến nghị, phương hướng, đối sách cho Việt Nam trước cục diện
chính trị khu vực Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI.
Do đề tài nghiên cứu mang tính thời sự cao, nguồn tài liệu tuy phong
phú nhưng nhiều chiều cần được bổ sung và cập nhật thêm, với thời gian có
hạn cùng sự hiểu biết và kinh nghiệm của người viết còn hạn chế nên luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được nhận sự chỉ dẫn và góp ý
của các thầy cô giáo để tác giả có thể hoàn thiện bản luận văn này.

15


Ch-¬ng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm “cục diện chính trị khu vực”
“Cục diện” là thuật ngữ được sử dụng khá rộng rãi trong thời gian gần

đây ở Việt Nam, mặc dù chưa có một định nghĩa thật rõ ràng, hoàn chỉnh.
Theo từ điển tiếng Việt, cục diện “là tình hình chung của cuộc đấu tranh, cuộc
tranh chấp, biểu hiện ra trong một thời điểm nhất định”. Trong tiếng Anh, từ
“cục diện” thường được dùng là conjunture và complexion, thể hiện tình cảnh,
cảnh ngộ và phản ánh diện mạo chung, và cũng được hiểu là diện mạo hoặc
đặc điểm, khía cạnh chung nhất của một hiện tượng, sự vật, ví dụ như trong từ
“cục diện chiến tranh” (the complexion of the war). [77, tr. 236] Theo tác giả
Lê Văn Sang, cục diện thế giới “là kết cấu các quan hệ kinh tế chính trị quốc
tế, các chủ thể kinh tế chính trị lớn tương đối ổn định và có ảnh hưởng lớn
đến toàn bộ thế giới trong quá trình phát triển”. [54, tr. 12] Trong một số công
trình khác, các tác giả cho rằng, khái niệm cục diện chỉ “thực trạng tình hình
trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội” thể hiện ở ba cục diện kinh tế,
chính trị, an ninh và văn hoá xã hội.” [24, tr. 14]
Gần đây, tại Hội thảo khoa học Cục diện thế giới 2020 do Học viện
Ngoại giao tổ chức vào ngày 14 tháng 8 năm 2008, trong bài viết Xu hướng
phát triển cục diện thế giới đến năm 2020 - Thách thức và cơ hội đối với Việt
Nam, tác giả Hồng Hà có đưa ra định nghĩa “cục diện thế giới” là bộ mặt tổng
quan, trạng thái các lực lượng, các chủ thể trong đời sống quốc tế có mối quan
hệ tác động lẫn nhau ở một thời điểm nhất định. Theo đó, cục diện thế giới là
một khái niệm động, chuyển biến với một tần suất ngày càng nhanh, phức tạp
và có những đột biến khó lường, khó dự báo. Khái niệm “cục diện thế giới”
không nên được hiểu chỉ là tình hình chung thế giới. Cục diện thế giới có nội
hàm rộng bao gồm không chỉ là cục diện chính trị mà cả các lĩnh vực khác:
16


kinh tế, văn hóa, môi trường, sắc tộc, tôn giáo, quốc phòng, an ninh… với
những mối liên kết song phương, đa phương, toàn cầu. Cục diện thế giới phát
triển theo quy luật của nó. Tìm được ra quy luật phát triển của nó thì có cách
đánh giá đúng cục diện. Trong cái biến đổi của cục diện có thể tìm ra cái

không biến đổi, thấy ra cái trật tự trong sự mất trật tự của cục diện. Cũng
trong một bài viết cùng tên, tác giả Lê Văn Cương đưa ra khái niệm “cục diện
thế giới” là sự vận động, phát triển của sự phân bố lực lượng và cấu trúc
quyền lực giữa các quốc gia, trước hết và chủ yếu là giữa các cường quốc,
trên sân khấu chính trị thế giới được thể hiện ở các trạng thái chiến tranh và
hoà bình, ổn định và không ổn định, xung đột và hòa dịu, hợp tác và cạnh
tranh, thoả hiệp và đối đầu ở cấp độ toàn cầu. [9, tr. 1]
Trong bài viết Vài ý kiến về cục diện thế giới hiện nay, tác giả Vũ
Dương Huân có đưa ra khái niệm “cục diện thế giới, cục diện khu vực” là tình
hình mọi mặt của thế giới, khu vực, trong một khoảng thời gian nhất định
cũng như tương quan lực lượng giữa các lực lượng chính trị chủ yếu trên bàn
cờ chính trị thế giới, khu vực. [29, tr. 1]
Trong cuốn Lịch sử thế giới hiện đại, Giáo sư Nguyễn Anh Thái (chủ
biên) có sử dụng thuật ngữ “cục diện” trong câu: “cục diện chiến tranh thế
giới thứ hai bước vào giai đoạn chót” [57, tr. 223]… và còn nhiều tác giả, nhà
khoa học sử dụng thuật ngữ “cục diện” trong các bài báo, các công trình
nghiên cứu của mình.
Nói tóm lại, “cục diện” là bố cục, diện mạo thường đi cùng với từ chính
trị, thế giới, khu vực, là tình hình cụ thể thể hiện trật tự, sự phân bố quyền lực
trong một giai đoạn nhất định. Trong cục diện đó (cục diện thế giới, cục diện
khu vực), các nước lớn, các tổ chức đa phương, các tổ chức phi chính phủ và
các công ty xuyên quốc gia giữ vị trí, vai trò vô cùng quan trọng. Đây cũng
chính là quan điểm xuyên suốt mà luận văn áp dụng trong quá trình thực hiện.

17


Trong “Giáo trình Chính trị học” của Học viện Hành chính Quốc gia,
Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2006, các tác giả có đưa ra khái niệm “cục diện
chính trị quốc tế” như sau: cục diện chính trị quốc tế là phạm trù của chính trị

quốc tế chỉ tương quan trong quan hệ quốc tế giữa các quốc gia và khu vực
(về chính trị, kinh tế, văn hóa…) trong quan hệ can thiệp, ảnh hưởng lẫn nhau
xét theo từng giai đoạn cụ thể. Cục diện chính trị quốc tế là sự thể hiện của hệ
thống chính trị quốc tế được xem xét theo tương quan vị thế, tương lai của các
quốc gia và khu vực. [32, tr. 196]
Bản thân cục diện chính trị khu vực hay quốc tế đều phản ánh sự ổn
định tương đối trong sự biến đổi liên tục của đời sống chính trị. Nó là kết quả
của các diễn biến chính trị quá khứ và là mầm mống của các diễn biến trong
tương lai. Vì vậy, thông qua cục diện chính trị, bao giờ người ta cũng nhìn
thấy hướng đi tương lai của chính trị khu vực và quốc tế. [32, tr. 196]
Để tìm hiểu thế nào là “cục diện chính trị khu vực”, trước hết ta xét tới
khái niệm “cục diện khu vực”. Về khái niệm này, đã có nhiều định nghĩa được
đưa ra. Có quan điểm cho rằng đó là kết cấu thực lực được hình thành bởi so
sánh lực lượng, tập hợp lực lượng giữa các quốc gia trong khu vực, là những
nguyên tắc, quy phạm, phương pháp, thủ đoạn xử lý các mối quan hệ giữa các
quốc gia với nhau trong khu vực.
Khái niệm “chính trị” trong cụm từ “cục diện chính trị” được hiểu là khả
năng chi phối, tham gia chi phối sân khấu chính trị khu vực, thế giới. Tất nhiên,
muốn chi phối hoặc tham gia chi phối sân khấu chính trị khu vực, thế giới, cần
có sức mạnh quân sự, tiềm lực kinh tế, an ninh và giá trị văn hoá dân tộc.

Từ đó có thể đưa ra định nghĩa “cục diện chính trị khu vực” là kết cấu
các quan hệ chính trị quốc tế, các nền chính trị quốc gia, quyền lực của các
chủ thể chính trị thế giới, tương đối ổn định và có ảnh hưởng lớn đến khu vực
trong quá trình phát triển, phân hoá, sáp nhập của các lực lượng kinh tế, chính
trị, quân sự trong khu vực. Đồng thời, cục diện chính trị luôn tác động trở lại
18


cục diện kinh tế của khu vực và ngược lại. Có thể chỉ ra một số yếu tố cơ bản

của cục diện chính trị như: đó là các nền chính trị, các hệ thống nhà nước, các
đảng cầm quyền và các quyết sách của họ, các lực lượng chính trị đối lập…
Có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu cục diện này. Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, khi nói đến chính trị là nói đến quyền lực, đến giai cấp và
nhà nước. Nội dung cốt lõi của quyền lực là lợi ích kinh tế. Khi bàn đến các
nhà nước trong khu vực đại diện cho các giai cấp nào, nhằm vào những lợi ích
gì, thông qua việc tổ chức và tập hợp các lực lượng như thế nào, xây dựng các
mối quan hệ quốc tế ra sao, nhằm vào những lợi ích gì, bằng hình thức và cơ
chế gì để đạt được và bảo vệ các lợi ích đó cũng có nghĩa là chúng ta đang
bàn đến thực trạng chính trị của khu vực. Khi nghiên cứu, tìm hiểu diễn biến
của các quan hệ quốc tế trong khu vực, đặc biệt là tìm hiểu lợi ích bên trong
của các mối quan hệ giữa các nước lớn với nhau, giữa các nước lớn với các
nước nhỏ và giữa các nước nhỏ với nhau, đồng thời thấy được những biện
pháp, cơ chế và các hình thức mà các nước này triển khai thực hiện nhằm vào
các lợi ích bên trong đã xác định; đó cũng có nghĩa là chúng ta đang nghiên
cứu một cách tổng thể thực trạng chính trị của khu vực. Ngoài ra còn có một
cách nhìn nhận nữa về cục diện chính trị khu vực là xác định những vấn đề
đang nổi lên thuộc lĩnh vực này của khu vực và cách thức giải quyết những
vấn đề đó trong khu vực. Những vấn đề của khu vực đang nổi lên hiện nay có
lẽ cũng không khác nhiều so với các vấn đề của thế giới: đó là vấn đề trật tự
trong khu vực, vấn đề phát triển kinh tế, vấn đề đảm bảo hòa bình và an ninh
trong khu vực. “Cục diện chính trị Đông Á” cũng được hiểu với nội hàm như
vậy. Tuy nhiên, mục đích được đặt ra ở đây còn là tìm hiểu cục diện chính trị
khu vực Đông Á theo quan điểm tìm hiểu một cách khái quát nhất thực trạng
chính trị và các quan hệ quốc tế cũng như so sánh lực lượng chính trị - kinh
tế, cơ chế và cách thức giải quyết các vấn đề của khu vực từ sau chiến tranh

19



lạnh đến nay, đồng thời đưa ra một số dự báo về xu hướng phát triển chính trị
của Đông Á những năm tiếp theo.
Trong luận văn này, cục diện chính trị Đông Á trong những năm đầu
thế kỷ XXI là cục diện với những ý nghĩa trên nhưng nó chỉ diễn ra trong
những năm đầu của thế kỷ này.
1.2. Các thành tố cấu thành cục diện chính trị khu vực, thế giới
Như đã nói ở trên, cục diện chính trị khu vực là kết cấu các quan hệ
chính trị quốc tế, các nền chính trị quốc gia, tương đối ổn định và có ảnh
hưởng lớn đến khu vực trong quá trình phát triển, phân hoá, sáp nhập của các
lực lượng kinh tế, chính trị, quân sự trong khu vực. Và cục diện đó được tạo
nên bởi sự kết hợp vị trí, vai trò của các chủ thể quốc gia, các cơ chế đa
phương, các chủ thể phi quốc gia như các tổ chức phi chính phủ, các công ty
xuyên quốc gia trong khu vực.
1.2.1. Quốc gia
Nói tới bố cục, diện mạo, tình hình cụ thể của một khu vực trong một
giai đoạn nhất định không thể không nói tới sự thay đổi, tác động của các
nước lớn trong khu vực bởi trước hết, đó là các chủ thể quốc gia trong quan
hệ quốc tế. Sự tương tác giữa các chủ thể làm nên quan hệ. Không có chủ thể
quan hệ quốc tế thì không có quan hệ quốc tế, không có cục diện khu vực, thế
giới. Tất cả những yếu tố thuộc về chủ thể đều có thể ảnh hưởng tới cục diện
khu vực, thế giới. Trong số các chủ thể của cục diện thế giới, quốc gia là chủ
thể không phải bàn cãi. Quốc gia cũng được coi là chủ thể quan hệ quốc tế cơ
bản và quan trọng nhất và một lẽ nữa quốc gia đương nhiên là chủ thể của
Luật pháp quốc tế. Vai trò nhất định của từng quốc gia trong một giai đoạn
nhất định đã góp phần tạo lập được cục diện chính trị khu vực và thế giới. Các
quốc gia khi tham gia vào đời sống chính trị khu vực và thế giới là để bảo
đảm sự an toàn về chính trị của mình đối với bên ngoài. Nhưng sự an toàn đó
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong nước cũng như bên ngoài mà chính các
20



quốc gia cũng không thể kiểm soát, không thể lường trước được. Những yếu
tố đó có thể là kinh tế, chính trị, dân tộc, tôn giáo, có thể là chủ quan (các
chính khách), có thể khách quan như yếu tố về thiên tai…
Trước hết, chúng ta thấy rằng mục đích của quốc gia khi tham gia quan hệ
quốc tế là lớn nhất khi gắn liền với những lợi ích cơ bản của quốc gia và cộng
đồng cư dân là tồn tại thịnh vượng và phát huy ảnh hưởng trên trường quốc tế.
Tầm quan trọng sống còn của các lợi ích này khiến cho mục đích tham gia quan
hệ quốc tế của nó trở nên mạnh mẽ nhất. Tính vững bền của các lợi ích đó khiến
mục đích này trở nên thường xuyên. Sự tồn tại thường xuyên của mục đích này
đem lại khả năng tác động liên tục tới cục diện thế giới. Tính đa dạng của các lợi
ích đó cũng khiến mục đích này bao trùm mọi lĩnh vực của cuộc sống. Sự bao
trùm của mục đích đem lại cho nó khả năng ảnh hưởng tới mọi mặt của thế giới.
[40, tr. 32] Có thể nói, mục đích này cũng chính là động lực hình thành và phát
triển quan hệ quốc tế và chi phối cục diện khu vực, thế giới lớn nhất. Mặc khác,
quốc gia dân tộc tham gia quan hệ quốc tế lâu đời nhất. Sự ra đời của quốc gia
dân tộc tạo cơ sở cho sự hình thành các tương tác qua biên giới giữa chúng. Và
cục diện thế giới đã hình thành cùng với sự ra đời của quốc gia. Quốc gia tham
gia quan hệ quốc tế liên tục nhất là vì yêu cầu thực hiện chức năng đối ngoại của
chính nó. Quốc gia càng phát triển, lợi ích của nó ngày càng vượt ra khỏi khuôn
khổ biên giới. Và quốc gia ngày càng gắn bó thường xuyên và chặt chẽ với cục
diện khu vực và thế giới. Quốc gia tham gia quan hệ quốc tế cũng rộng nhất. Lợi
ích quốc gia rất đa dạng và bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống. Vì thế, quốc gia
phải tham gia mọi lĩnh vực trong quan hệ quốc tế để thực hiện lợi ích của mình.
Hơn nữa, quốc gia có khả năng thực hiện quan hệ quốc tế hơn bất cứ chủ thể phi
quốc gia nào. Quốc gia có sức mạnh tổng hợp như lãnh thổ, dân cư, thực lực
quân sự, sức mạnh kinh tế, khả năng huy động xã hội… mà không chủ thể phi
quốc gia nào có được. [40, tr. 33] Vì thế các quốc gia lớn sẽ giữ vị trí và vai trò
vô cùng quan trọng trong
21



việc tạo nên các mối quan hệ quốc tế, cục diện an ninh chính trị của mỗi khu
vực mà nó hiện diện. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của quốc gia cũng lớn nhất trên
trường quốc tế, quốc gia tham gia vào mọi lĩnh vực của đời sống nên có ảnh
hưởng rộng khắp trong quan hệ quốc tế. [40, tr. 33]
Như vậy, qua đây có thể thấy được vai trò của quốc gia trong cục diện khu
vực, thế giới đặc biệt là các quốc gia lớn với vai trò chi phối mạnh mẽ tình hình
an ninh chính trị, kinh tế, xã hội của khu vực và trên thế giới. Mà ở đây trong
luận văn này, các quốc gia lớn đó là Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và Mỹ.

1.2.2. Các cơ chế đa phương
Cơ chế đa phương là giải pháp cho các vấn đề giữa các nước, với một
nhóm hành động sẵn sàng và có thể thực hiện các hoạt động có tính xây dựng
cùng nhau. Lòng tin là cơ hội và cũng là nhu cầu. Cơ chế đa phương “đang rơi
vào khủng hoảng bởi thế giới vẫn lệ thuộc vào các quyết định của một vài
người trong khi các vấn đề của thế giới cần sự can thiệp dưới dạng hành động
tập thể”. [100]
Các cơ chế đa phương của khu vực và thế giới giải quyết các vấn đề ổn
định và an ninh trước những thách thức và nguy cơ mới, cam kết mở rộng
quan hệ kinh tế và an ninh, đồng thời các nước tham gia vào cơ chế đó sẽ ký
các thoả thuận về thiết lập quan hệ thương mại, hợp tác an ninh, kể cả an ninh
thông tin, chống khủng bố, hợp tác kinh tế - tài chính, giáo dục... Rõ ràng, các
cơ chế đa phương khu vực không chỉ là một “công cụ hữu hiệu” để giải quyết
các vấn đề phân định biên giới tồn tại nhiều thập kỷ giữa các nước trong khu
vực mà còn có khả năng giải quyết nhiều vấn đề khác. Các cơ chế đa phương
khu vực cũng có khả năng tự giải quyết các vấn đề nảy sinh trong khu vực
thuộc phạm vi trách nhiệm của mình, đồng thời sẵn sàng hợp tác trên cơ sở
bình đẳng với tất cả các lực lượng ngoài khu vực. Đặc biệt trong một thế giới
đang chuyển đổi mạnh mẽ như hiện nay khi khu vực Đông Á được đánh giá là

nơi có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới, thì các cơ chế đa
22


phương trong khu vực đóng vai trò vô cùng quan trọng. Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á là một cơ chế đa phương như thế. Trong buổi Lễ kỷ niệm 40
năm thành lập ASEAN được tổ chức trọng thể tại Hà Nội, Thủ tướng Việt
Nam Nguyễn Tấn Dũng đánh giá rằng: “trong 40 năm qua, ASEAN đã trở
thành một tổ chức khu vực rất thành công, phát triển năng động, hợp tác chặt
chẽ, có quan hệ đối tác mật thiết với nhiều quốc gia và tổ chức quan trọng
hàng đầu thế giới. Sức mạnh và uy tín của ASEAN ngày càng gia tăng khi
Hiệp hội bao gồm cả 10 quốc gia Đông Nam Á. Điều đó góp phần củng cố
hòa bình, ổn định và sự phồn vinh ở khu vực, tăng cường hợp tác và liên kết
giữa các nước thành viên, nâng cao vị thế của Hiệp hội trên trường quốc tế,
tạo tiền đề cho những bước phát triển mạnh mẽ tiếp theo. ASEAN đóng vai
trò nòng cốt trong đẩy mạnh sự hợp tác ở Đông Á và châu Á - Thái Bình
Dương vì hòa bình và phát triển thông qua các hoạt động của APEC, Diễn đàn
Đông Á, Diễn đàn khu vực ASEAN". [113]
Quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa ngày nay phản ánh sự thay đổi
to lớn trong công nghệ thông tin, viễn thông, dòng chảy tài chính, dòng chảy
thương mại, dòng chảy lao động, sự kết nối toàn cầu và những lực lượng cạnh
tranh mới. Có nhiều nước đang trỗi dậy, họ là bộ phận quan trọng của cục
diện toàn cầu. Họ muốn tiếng nói của họ được lắng nghe. Cơ chế đa phương
khu vực và quốc tế là nơi thực hiện những mong muốn đó. Có thể nói, một cơ
chế đa phương linh hoạt, không cứng nhắc là cơ chế phù hợp với thời đại
ngày nay. Và một cơ chế như vậy mới phản ánh được mọi việc mà các nước
tham gia mong muốn. Song, cơ chế đa phương đó cần phát huy tối đa sức
mạnh kết nối giữa các thể chế, cụ thể là công hay tư và phải hướng đến việc
giải quyết các vấn đề với tinh thần khuyến khích văn hóa hợp tác. Đồng thời,
các cơ chế đa phương cần: xây dựng tinh thần trách nhiệm chung đối với sức

mạnh của nền kinh tế chính trị khu vực, thế giới và có sự tham gia của các tác
nhân chính từ các quốc gia đó; mở rộng phạm vi hơn, ngoài những mối quan
23


tâm truyền thống, cơ bản như tài chính và thương mại. Ngày nay, thực chất
vấn đề năng lượng, biến đổi khí hậu, và ổn định các nước có xung đột và hậu
xung đột cũng là những vấn đề mà các cơ chế đa phương cần phải quan tâm.
1.2.3. Các tổ chức phi chính phủ
Các tổ chức phi chính phủ (Non-governmental Organization - NGO) ra
đời từ cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh mẽ từ đầu thế kỷ XX. Sự hiện diện
của nó hiện nay diễn ra trong nhiều lĩnh khác nhau của QHQT như kinh tế,
khoa học, kỹ thuật, văn hóa, xã hội… Tuy không có nhiều tổ chức phi chính
phủ quốc tế (International non-governmental Organization - INGO) trong
chính trị nhưng hoạt động của chúng có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới
lĩnh vực này1. Không chỉ về bề rộng, mức độ tham gia quan hệ quốc tế của
các tổ chức phi chính phủ quốc tế cũng tương đối sâu sắc. Chúng tham gia
ngày càng nhiều vào các lĩnh vực chuyên môn hẹp. Chúng cũng đang cuốn
hút được nhiều giai tầng xã hội khác nhau tham gia vào quan hệ quốc tế, tạo
nên khả năng tác động nhiều hơn tới cục diện thế giới. Mặc khác, các tổ chức
phi chính phủ quốc tế có nhiều nguồn lực để tự tạo cho mình những thẩm
quyền riêng ngay từ khi thành lập. Đó là sự tự chủ về tài chính và lực lượng,
thẩm quyền riêng được thừa nhận chung và sự ủng hộ xã hội. Cho dù sự phụ
thuộc nhất định vào quốc gia song tính độc lập của nó là rõ ràng khi có xu
hướng tăng tác động lên quốc gia và can thiệp nhiều hơn vào khu vực thuộc
thẩm quyền quốc gia. Bên cạnh đó, năng lực của các tổ chức phi chính phủ
quốc tế còn tăng lên bởi mối quan hệ hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc
tế khác. Đáng chú ý, xu hướng phối hợp và liên kết giữa các tổ chức phi chính
phủ đã bắt đầu diễn ra. Nếu xu hướng này tiếp tục tăng, năng lực tác
1 Có thể hoạt động tác động tới chính trị sớm nhất là của Hội Chống chế độ Nô lệ Anh và Nước ngoài

(British and Foreign Anti - Slavery Society). Trong những năm 1800, tổ chức này đã góp phần quan trọng
trong việc xóa bỏ các quy luật về nô lệ. Hay trong thập kỷ 1990, hàng trăm NGO với sự phối hợp của chính
phủ Canada đã mở chiến dịch nhằm loại bỏ mìn mặt đất. Cuối cùng, lệnh cấm sử dụng mìn đã được ban hành.
Đây là một trong những thành công lớn nhất của các INGO. Các tổ chức hoạt động nhân đạo cũng thường
liên quan đến chính trị trong các vấn đề như dân chủ và nhân quyền.
24


×