Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

Đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện xín mần, tỉnh hà giang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.99 KB, 113 trang )

MỞ ẦU
1. ính cấp thiết của đề t i
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc đổi mới
tổ chức bộ máy hệ thống chính trị (HTCT) là vô cùng cần thiết và quan trọng.
Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng và được Đảng Cộng sản Việt
Nam khẳng định trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đặc biệt trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm
1991 khẳng định: “Toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là
nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Mà quyền lực của nhân dân có được đảm
bảo hay không phải tùy thuộc ở HTCT có được đổi mới và hoàn thiện hay
không. Trong các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng gần đây, Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ chính trị đã có nhiều chủ trương, Nghị
quyết, kết luận về đổi mới tổ chức bộ máy của HTCT và tăng cường lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VIII) “Một số vấn đề về tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc thuộc ngân sách nhà nước”; Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về “Đổi
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn”;
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về
“Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng đổi mới,
kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở”; Nghị quyết số 39-NQ/TW của
Bộ chính trị (khóa XI) về “Tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức”. Kết luận số 64-KL/TW Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa XI) về “Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, hoàn thiện HTCT từ

4



Trung ương đến cơ sở”. Đặc biệt, việc đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính
trị là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội XII của Đảng đã đề ra:
“Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả”[35, 217-218], được cụ thể hóa bằng Nghị quyết số 18 của
Hội Nghị Trung ương 6, khóa XII: về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả”1. Có thể thấy, các chủ trương trên của Đảng đều đặc biệt nhấn mạnh đến
việc cần thiết phải đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam.
Quá trình triển khai các Chủ trương, Nghị quyết của Đảng về đổi mới
tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội đã từng bước được đổi mới sắp xếp theo hướng tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà
nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội,
góp phần vào công cuộc đổi mới của đất nước.
Tuy nhiên, cùng với những kết quả quan trọng đó HTCT nước ta nói
chung còn bộc lộ những hạn chế: Tổ chức bộ máy của HTCT còn cồng kềnh,
nhiều đầu mối, tầng nấc; hiệu lực hiệu quả chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Đối với chức năng nhiệm vụ cũng như quyền hạn của các tổ chức chưa rõ
ràng, mối quan hệ còn chưa chặt chẽ, vấn đề chồng chéo, trùng lắp vẫn đang
tồn tại; Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương,
năng lực quản lý trong một số cơ quan nhà nước còn hạn chế và yếu kém dẫn
đến nhiều tiêu cực trong các tổ chức và cá nhân như quan liêu, tham nhũng,
lãng phí,... Với những hạn chế như vậy vấn đề đặt ra là cần tiếp tục đổi mới,
sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả đặc biệt là theo tinh thần của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) của
Đảng. Để triển khai, thực hiện có hiệu quả chủ trương này từ trung ương đến
1 />
5



địa phương cần thiết phải nghiên cứu những trường hợp cụ thể tại các địa
phương để cụ thể hóa chủ trương này một cách phù hợp với từng địa phương.
Huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang là một huyện vùng cao, biên giới còn
nghèo vấn đề đổi mới tổ chức bộ máy HTCT chịu ảnh hưởng nhiều từ văn
hóa, dân tộc, địa lý, kinh tế, xã hội… vì vậy càng phải nghiên cứu sâu hơn các
nội dung, hình thức và mô hình đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống
chính trị để hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn. Do đó, việc
nghiên cứu đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh
Hà Giang là cần thiết.
Từ những lý do đó tác giả đã lựa chọn đề tài “Đổi mới tổ chức bộ máy
hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện
nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. ình hình nghiên cứu liên quan đến đề t i
Vấn đề hệ thống chính trị nói chung và đổi mới tổ chức bộ máy hệ
thống chính trị nói riêng đã được nhiều nhà chính trị, nhà lý luận và nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu và đạt được nhiều kết quả to lớn. Có thể kể đến một
số công trình tiêu biểu như sau:
Các sách chuyên khảo, tham khảo về đổi mới hệ thống chính trị Việt
Nam, đổi mới hệ thống chính trị cơ sở:
-

Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn

Văn Thảo, Trần Xuân Sầm (đồng chủ nhiệm), “Đổi mới và tăng cường hệ
thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 1999. Trên cơ sở khoa học và luận cứ xác đáng các tác giả đã đề
xuất phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm củng cố, đổi
mới và tăng cường HTCT Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
-


Trần Đình Hoan, “Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính

trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2020”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,

6


2008. Tác giả khái quát những quan điểm, nội dung đổi mới trên cơ sở đảm
bảo những nguyên tắc nhất đinh trong quá trình đổi mới HTCT ở Việt Nam.
-

Hoàng Chí Bảo, “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện

nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004. Nghiên cứu một số vấn đề
nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở, trong sự nghiệp đổi
mới và phát triển của nước ta hiện nay. Qua những nội dung phân tích đã làm
sáng tỏ thêm tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) của
Đảng.
-

Vũ Hoàng Công “Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và

giải pháp”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002. Tác giả bổ sung
những kiến thức về HTCT cơ sở, đánh giá thực trạng, xu hướng phát triển và
những giải pháp cần thiết nhằm xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khóa IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2002. Văn kiện hội nghị đã xác định tính cấp thiết phải đổi mới HTCT cơ sở,

đồng thời đưa ra chủ trương giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT

-

cơ sở xã, phường, thị trấn.

Nguyễn Phú Trọng (2008) (chủ biên), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tác giả đã bổ sung những lý luận sâu sắc về đổi mới ở Việt Nam và đề xuất
những giải pháp đổi mới và phát triển ở Việt Nam có thể vận dụng vào thực
tiễn ở nước ta.

-

Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên) (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân
chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miến núi vùng dân tộc thiểu số các
tỉnh miến núi phía bắc nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã
khảo sát thực trạng HTCT cơ sở và việc thực hiện dân chủ ở nông thôn miền

7


núi vùng dân tộc thiểu số phía Bắc, qua đó đề xuất giải pháp cải thiện HTCT
và dân chủ trong nhân dân.
-

Dương Xuân Ngọc (2000), Mối quan hệ giữa Đảng, Chính quyền và các đoàn
thể nhân dân cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Tác giả phân tích mối quan hệ tác động biện chứng, cơ chế vận hành
giữa các thành tố trong HTCT cấp xã ở nước ta.

Một số luận văn, luận án, gồm:

-

Lưu Minh Trị: “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn
ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, Luận án phó
tiến sĩ, năm 1993. Đề tài luận văn của tác giả khảo sát thực trạng HTCT cấp
xã khu vực nông thôn ngoại thành Hà Nội, qua đó đưa ra phương hướng, giải
pháp tiếp tục đổi mới và kiện toàn HTCT ở đây.
-

Đặng Thị Hiền, “Đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở nông

thôn (thông qua khảo sát thực tế của tỉnh Tuyên Quang)”, luận văn thạc sĩ
khoa học chuyên ngành Triết học, năm 1993. Từ việc khảo sát thực tế tại
Tuyên Quang, tác giả đã khảo sát thực trạng, rút ra những vấn đề, đề xuất giải
pháp để tiếp tục kiện toàn HTCT cấp cơ sở ở vùng nông thôn nước ta.
-

Trần Khánh Sơn, “Đổi mới hệ thống chính trị cấp huyện ở Nghệ An hiện
nay”, luận văn thạc sĩ Chính trị học, năm 2008. Tác giải khái quát quá trình
đổi mới HTCT cấp huyện ở Nghệ An, từ những thành tựu và hạn chế đưa ra
các giải pháp nhằm đổi mới HTCT cấp huyện ở Nghệ An một cách
mạnh mẽ hơn.
-

Nguyễn Trọng Long, “Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ

thống chính trị ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây hiện nay”, luận văn thạc sĩ
Triết học, năm 2007. Với đề tài này, tác giả phân tích và khái quát để đưa đến

những nội dung lý luận khác nhau về đổi mới hệ thống chính trị và đề xuất
những giải pháp đổi mới hệ thống chính trị thêm sâu sắc hơn, toàn diện hơn

8


và có thể vận dụng thực tiễn trong việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị
Việt Nam nói chung và địa phương huyện Hoài Đức nói riêng.
-

Nguyễn Thị Kim Hoa, “Hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa giai đoạn 1954-1975”, luận văn thạc sỹ Chính trị học. Đề tài đã
khái quát lại cấu trúc, đặc trưng, cơ chế vận hành và đặc điểm HTCT nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa giai đoạn 1954 – 1975, đồng thời phân tích
những ưu, khuyết điểm HTCT thời kỳ đó và liên hệ với hệ thống chính trị
hiện nay.
Một số bài báo khoa học, gồm:
-

Phạm Ngọc Quang, “Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy hơn
nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động”, Tạp chí Triết học số 3
năm 1996. Với công trình nghiên cứu này tác giả đã luận chứng và cho rằng,
đổi mới HTCT là yếu tố quan trọng để thực hành và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Trọng tâm của đổi mới HTCT là đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị khác, trong đó đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là yếu tố cốt lõi.
Việc đổi mới hệ thống chính trị phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó
cũng là nhân tố bảo đảm xây dựng và phát triển dân chủ XHCN ở nước ta
hiện nay.


-

Dương Xuân Ngọc, “Tiếp tục đổi mới, kiên toàn hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, Học viện Chính
trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 10, năm 2010. Bài viết bổ sung
những nhận thức mới và và đề xuất những cách làm mới để xây dựng và kiện
toàn HTCT Việt Nam trong điều kiện mới ở nước ta.

-

Đinh Xuân Lý “Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”, trong xây dựng hệ thống chính trị nước ta ttheo quan
điểm Đại hội XII, Tạp chí Triết học, số 11, 11/2016. Tác giả phân tích sâu hơn
về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ

9


trong thời kỳ mới hiện nay. Nêu cao tầm quan trọng của cơ chế vận hành này
trong quá trình xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam theo quan điểm của Đại
hội XII của Đảng.
Và các công trình khoa học khác nghiên cứu chủ đề có liên quan đến
đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị.
Trong những công trình nghiên cứu trên có nhiều công trình liên quan
trực tiếp đến luận văn này, các nhà khoa học đã nghiên cứu trực tiếp đến đổi
mới hệ thống chính trị cơ sở với nhiều góc độ khác nhau. Ngoài việc đưa ra
các định nghĩa khái niệm, xu hướng vận động cũng như vị trí, vai trò của
HTCT cơ sở ở nước ta, các tác giả đã phân tích rõ thực trạng và những tồn tại
của hệ thống chính trị cơ sở, rút ra nguyên nhân của những tồn tại đó và đề

xuất các giải pháp đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam và HTCT cơ sở ở một
số địa phương nước ta hiện nay với những mức độ và phương diện khác nhau.
Song chưa có công trình nào dành riêng cho nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề
đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang giai
đoạn hiện nay. Do đó, tác giả tập trung vào nghiên cứu vấn đề đổi mới tổ chức
bộ máy hệ thống chính trị ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
3.

Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng và đề xuất phương hướng và giải pháp góp phần
đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được kết quả nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ
nghiên cứu như sau:
Thứ nhất là làm rõ một số khái niệm về hệ thống chính trị, hệ thống
chính trị cơ sở, đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị.

10


Thứ hai là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về việc đổi mới tổ chức bộ
máy hệ thống chính trị.
Thứ ba là đánh giá thực trạng đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
Thứ tư là đề xuất phương hướng và các giải pháp để góp phần đổi mới
tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
4. ối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống chính trị Việt Nam; vấn
đề đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
-

Phạm vi nội dung: Đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện

Xín Mần, tỉnh Hà Giang; một số nội dung có mối quan hệ gắn liền với đổi
mới tổ chức bộ máy HTCT huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
-

Không gian: Huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.

Thời gian: Từ năm 2015 đến hết năm 2019, đây là thời gian một nhiệm kỳ của
Đảng bộ huyện Xín Mần (khóa XVII), nhiệm kỳ 2015 – 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện với phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Hà Giang và Đảng bộ
huyện Xín Mần về đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài Luận văn này tác giả sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu như sau:
Thứ nhất là phương pháp logic kết hợp phương pháp lịch sử: Sự kết
hợp hai phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong luận văn để làm rõ

11



sự kế thừa và phát huy các kết quả nghiên cứu liên quan quá trình đổi mới tổ
chức bộ máy hệ thống chính trị. Đồng thời sử dụng để giải thích các thuật
ngữ, các quan điểm của Đảng qua các thời kỳ về đổi mới tổ chức bộ máy hệ
thống chính trị, hệ thống chính trị cơ sở từ đó rút ra những kết luận.
Thứ hai là phương pháp thống kê: tác giả thu thập các số liệu thứ cấp
bao gồm các tài liệu, báo cáo của Đảng bộ huyện Xín Mần, Ban tổ chức – Nội
vụ huyện và các phòng, ban chuyên môn khác để phân tích thực trạng đổi mới
tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
Thứ ba là phương pháp Phân tích – tổng hợp: Đây là phương pháp sử
dụng nhiều, từ các tài liệu, số liệu thu được tác giả sẽ xử lý, phân tích và tổng
hợp để có thông tin và cái nhìn tổng quan về đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống
chính trị huyện Xín Mần.
Thứ tư là phương pháp so sánh: Một trong nhiệm vụ quan trọng của
luận văn là làm rõ, nhìn thẳng vào những mặt mạnh, yếu kém của hệ thống
chính trị huyện Xín Mần từ đó đổi mới theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu
quả mà Đảng đã đề ra tại Đại hội XII đặc biệt là tại Hội nghị Trung ương 6
khóa XII và các chủ trương, Nghị quyết trước đó vì vậy dùng phương pháp so
sánh để tìm thấy sự khác nhau, điểm mới, phát triển của thời điểm hiện tại với
các thời kỳ, điều kiện các địa phương,…để đưa ra những định hướng, giải
pháp phù hợp.
Ngoài việc sử dụng và kết hợp các phương pháp nghiên cứu trên đề tài
luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: Phương pháp phỏng
vấn, phương pháp thực địa, phương pháp khảo sát thực tiễn,…
6. óng góp của luận văn
Sau khi hoàn thành, luận văn này có thể đóng góp một số kiến thức như
sau:
Luận văn góp phần làm rõ thêm một số khái niệm hệ thống chính trị, hệ
thống chính trị cơ sở và đổi mới hệ thóng chính trị cơ sở. Đồng thời luận văn


12


cũng khái quát những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước Việt Nam về đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị.
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận khoa học để phân tích, đánh giá những
thành tựu và hạn chế trong đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện
Xín Mần, cùng với đó là chỉ ra những nguyên nhân cơ bản của những thành
tựu và hạn chế đó và rút ra những vấn đề đặt ra đối với đổi mới tổ chức bộ
máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần.
Từ việc phân tích, đánh giá những thành tựu đã đạt được, những hạn
chế còn tồn tại và những vấn đề đặt ra, tác giả đã đưa ra một số phương hướng
và giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện
Xín Mần hiệu quả hơn. Từ những kiến thức đạt được luận văn góp thêm tiếng
nói vào quá trình đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần,
tỉnh Hà Giang hiện nay.
7.

Cấu trúc của luận văn

Luận văn gồm có các phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và Phụ lục. Trong đó phần nội dung luận văn bao gồm 3
chương và 10 tiết.

13


N I DUNG
hƣơng 1.
NHỮNG VẤ

HỆTH

Ề Ý
Í

N VỀ


ỔI MỚI TỔ CHỨC B
ỆTH

Í

MÁY ỦA
Ị ƠSỞ

1.1. M t số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị
Khái niệm hệ thống chính trị xuất hiện trong nền chính trị hiện đại.
Trong lịch sử xã hội việc đưa ra các quyết định chính trị mang tính quốc gia
luôn thuộc thẩm quyền của bộ máy nhà nước mà tối cao nhất là các vị vua
người đứng đầu nhà nước (trong đó ngoại trừ một số thời kỳ của Hy Lạp và
La Mã cổ đại tồn tại thể chế dân chủ cộng hòa, trong đó Nghị viện và đông
đảo nhân dân có tiếng nói quan trọng nhất định trong việc đưa ra các quyết
định có tính quốc gia). Việc các cá nhân khác (như tể tướng, thượng thư,…)
có góp ý hoặc tác động đến một quyết định, chính sách nào đó là có thể, tuy
nhiên không được quy định trong thể chế, nghĩa là không phải là một điều bắt
buộc có tính pháp lý. Các quyết định chính trị mang tính chất quốc gia không
phải là kết quả phấn đấu của cả một hệ thống bộ máy mà nó chỉ là sản phẩm
của cá nhân có quyền lực tối cao nhất. Chính trị hiện đại đã khác một cách căn

bản, nếu xét từ góc độ cách thức cai trị. Khi các đảng phái chính trị được
thành lập nó đại diện cho các giai cấp, tầng lớp các lực lượng xã hội khác
nhau xuất hiện các tổ chức chính trị - xã hội, nhóm lợi ích, phong trào xã hội,
…không ngừng đấu tranh để giành quyền lực chính trị trong đó tập trung vào
quyền lực nhà nước hoặc tham gia vào các quyết định chính trị, chính sách
của quốc gia đã làm cho nền chính trị dân chủ hơn.
Hiện nay, các quyết định chính trị đã trở thành sản phẩm của cả hệ
thống bộ máy, là kết quả của một quá trình có tính thể chế, tính bắt buộc,
không chỉ phụ thuộc riêng vào ý chí chủ quan của một người nào dù đó là
người đứng đầu Nhà nước. Như vậy, nghiên cứu đến nền chính trị hiện đại

14


vừa phải nghiên cứu hoạt động của nhà nước nói chung và hoạt động của các
cơ quan nhà nước nói riêng đồng thời vừa phải nghiên cứu đến cả vai trò, vị
trí, mối quan hệ của các tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình chính trị. Từ
đó, có thể thấy khái niệm HTCT là một sự phản ánh những vấn đề thực tiễn
chính trị hiện đại. Nó là một sản phẩm của nền chính trị vận động theo hướng
dân chủ hóa. Việc đưa ra khái niệm HTCT chính là nhằm vạch ra hệ thống các
chủ thể có quan hệ gắn bó với nhau trong việc giành, giữ và thực thi quyền
lực chính trị. Như vậy có thể khẳng định: “Hệ thống chính trị là khái niệm
dùng để chỉ một chỉnh thể bao gồm các đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội (hợp pháp); với những quan hệ tác động qua lại giữa các
nhân tố đó trong việc tham gia vào các quá trình hoạch định và thực thi các
quyết sách chính trị nhằm bảo đảm quyền thống trị của giai cấp, lực lượng
cầm quyền, đồng thời đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển xã hội”[93,5].
Ở Việt Nam, thuật ngữ hệ thống chính trị được sử dụng đầu tiên trong
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI
(tháng 3 năm 1989) về “Kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI

và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới”. Tiếp theo sau đó trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, năm 1991 của
Đại hội VII thuật ngữ hệ thống chính trị tiếp tục xuất hiện và khá đầy đủ trong
các điều 9, điều 10, điều 11, điều 12. Từ những sự kiện này thuật ngữ HTCT
đã được đưa vào sử dụng rộng rãi trong nhiều văn kiện, Nghị quyết, trong các
công trình nghiên cứu khoa học và cả trong đời sống chính trị. Đến nay khái
niệm HTCT vẫn còn nhiều cách tiếp cận, cách hiểu khác nhau do vậy chưa
thực sự được thống nhất. Có những cách tiếp cận từ góc độ cấu trúc quyền lực
của giai cấp cầm quyền, cho rằng hệ thống chính trị là hệ thống quyền lực của
giai cấp cầm quyền hay gọi là hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền.
Có cách tiếp cận khác nữa là từ góc độ cấu trúc quyền lực của nhân dân với

15


cách tiếp cận này coi HTCT là một hình thức tổ chức mang tính dân chủ nhằm
mục đích bảo vệ và phát huy quyền lực của nhân dân. Ngoài hai cách tiếp cận
trên còn có cách tiếp cận coi hệ thống chính trị vừa là hệ thống quyền lực của
giai cấp cầm quyền đồng thời vừa là hệ thống quyền lực của nhân dân. Từ đó
ta thấy lợi thế cơ bản thuộc về các các tổ chức của giai cấp cầm quyền, cụ thể
là giai cấp nắm quyền lực về kinh tế để qua đó tác động vào các quá trình kinh
tế - xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Ở Việt Nam các nhà
nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về HTCT, tiêu biểu như:
Hệ thống chính trị là một cơ cấu tổ chức của xã hội, bao gồm các thực
thể chính trị (các đảng chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội, các phong trào chính trị…) được pháp luật hiện hành thừa
nhận và hoạt động công khai; thông qua đó, giai cấp cầm quyền thực hiện
quyền lực chính trị trong xã hội[40, 11].
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội,
bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp

pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào
các quá trình của đời sống chính trị - xã hội, để củng cố duy trì và phát triển
chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền[40, 5].
Tiếp theo, hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế
chính trị (cơ quan nhà nước, đảng chính trị, phong trào xã hội, tổ chức chính
trị - xã hội, v.v.) được xây dựng theo một kết cấu chức năng nhất định, vận
hành trên những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền
lực chính trị [43, 10].
Cùng với sự kế thừa các giá trị tri thức về hệ thống chính trị trên thế
giới và cách tiếp cận của chính trị học theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, có thể hiểu: Hệ thống chính trị là một phạm trù thuộc kiến trúc thượng
tầng dùng để chỉ một chỉnh thể hệ thống các tổ chức, các thiết chế chính trị -

16


xã hội và các mối quan hệ giữa chúng với nhau trong và giữa các cấp độ tổ
chức và hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ hợp thành cơ thể chính trị của
một chế độ xã hội nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền lực chính trị của giai
cấp thống trị.
1.1.2. Khái niệm hệ thống chính trị Việt Nam
Đối với Việt Nam, lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân và nhân
dân lao động là thống nhất với nhau cho nên HTCT không chỉ là hệ thống
quyền lực của giai cấp công nhân mà còn là cơ chế xã hội trong đó, nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, thực hiện quyền lực của
mình. HTCT Việt Nam là sự thể hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoạt
động trên cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong có chức năng lãnh đạo toàn diện đối với
xã hội; Nhà nước có chức năng điều hành, quản lý tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội; các đoàn thể nhân dân có chức năng tập hợp các giai cấp, tầng

lớp xã hội tham gia việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Từ đó có thể nói, HTCT Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất bao gồm
các tổ chức: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, ở các
cấp độ và mối quan hệ qua lại giữa các thành tố đó theo chức năng nhiệm vụ
nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân lao động. HTCT Việt Nam có một hệ
thống các tổ chức chính trị - xã hội nhờ đó nhân dân lao động thực thi quyền
lực của mình trong xã hội.
Như vậy, để nghiên cứu HTCT Việt Nam cần nghiên cứu nó như một
chỉnh thể cơ cấu tổ chức cùng cơ chế vận hành và hoạt động của các tổ chức
chính trị, các thể chế chính trị, phản ánh mối quan hệ, tương quan lực lượng
của các tập đoàn trong xã hội của Việt Nam. HTCT tồn tại trong xã hội Việt
Nam chịu sự chi phối của xã hội Việt Nam; đồng thời các thành tố đó tác động
trở lại đối với xã hội và các lĩnh vực của xã hội như chính trị, kinh tế,

17


văn hóa,…khi nghiên cứu HTCT cần xem xét nó trong mối quan hệ tác động
qua lại với các lĩnh vực khác. Như Lê-nin đã viết về mối quan hệ giữa chính
trị và kinh tế: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” [68, 349]. Do
vậy, HTCT cần được tổ chức và hoạt động phù hợp với yêu cầu vận động và
phát triển của kinh tế - xã hội.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy hệ thống chính trị Việt Nam gồm
những đặc điểm chủ yếu như sau: Một là, HTCT Việt Nam do một Đảng duy
nhất lãnh đạo (Đảng Cộng sản Việt Nam); Thứ hai, về bản chất của HTCT xã
hội chủ nghĩa thể hiện bản chất của giai cấp công nhân, là giai cấp tiên tiến,
cách mạng, luôn phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và cả dân tộc; Thứ ba, bản
chất của dân chủ thể hiện ở việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân; Thứ tư, trong mối quan hệ lợi ích các giai cấp, tầng lớp

căn bản là thống nhất giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ
tri thức và nhân dân.
1.1.3. Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở
Cơ sở theo đối tượng nghiên cứu là khái niệm dùng để chỉ một cấp
quản lý trong bốn cấp quản lý hành chính từ Trung ương đến địa phương. Ở
Việt Nam các cấp xã, phường, thị trấn được gọi là cấp cơ sở. Đây là nơi cư
trú, làm ăn của nhân dân, nơi mà diễn ra các hoạt động lao động, sản xuất,
kinh doanh,…. Đồng thời diễn ra các hoạt động trao đổi, lưu thông hàng hóa,
đây là đầu mối của thị trường kinh tế, là nơi hình thành các mối quan hệ kinh
tế giữa người sản xuất và tiêu dùng. Cơ sở là nơi người dân sinh sống, thực
hiện các hoạt động và là nơi mà thể hiện mối quan hệ xã hội của các cá nhân,
giữa cá nhân với tổ chức với nhau. Các hoạt động này đều ở trong khuôn khổ
sự lãnh đạo, quản lý, điều hành của hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị cơ sở gồm các bộ phận cấu thành: tổ chức Đảng,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân. Mỗi một bộ

18


phận có vị trí, vai trò và chức năng, nhiệm vụ khác nhau, tuy nhiên đều có
mối quan hệ mật thiết với nhau.
Đảng bộ cơ sở, nòng cốt ở đây là Ban Chấp hành Đảng bộ là cơ quan
hạt nhân chính trị, trực tiếp thực hiện chức năng lãnh đạo chính quyền và xã
hội qua việc triển khai, đề ra các chủ trương, đường lối, Nghị quyết,…; Chính
quyền là trụ cột của HTCT cơ sở, có chức năng quản lý, điều hành tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,…; Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện chức năng tuyên truyền, vận động
nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, chính quyền cơ sở, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện chăm lo đến quyền, lợi ích chính đáng của

nhân dân. Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội. Đổi mới tổ chức
bộ máy HTCT cơ sở là phải đổi mới tổ chức bộ máy của từng tổ chức trong
HTCT cơ sở và mối quan hệ giữa chúng với nhau.
Như vậy, ta có thể hiểu: HTCT cơ sở là toàn bộ các thể chế chính trị ở
cấp xã, phường, thị trấn (tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân
của cấp xã và mối quan hệ giữa chúng) được tổ chức và hoạt động theo
những nguyên tắc xác định, gắn bó hữu cơ, thống nhất với nhau về mục đích,
chức năng, nhiệm vụ nhằm thực hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
1.1.4. Khái niệm về đổi mới hệ thống chính trị
Đổi mới HTCT là một trong những nhân tố quan trọng của cuộc đổi
mới chính trị đồng bộ cùng với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội..., mang tính
toàn diện và chỉnh thể. Cùng với đó, đổi mới về mặt tư duy về hình thái cấu
trúc và tổ chức bộ máy là công việc trọng tâm của vấn đề đổi mới chính trị;
đồng thời với nhiệm vụ đó là tiến hành xác lập và vận hành cơ chế hoạt động
của cả hệ thống và kiểm soát quyền lực của các thành viên trong HTCT. Đây

19


không chỉ bảo đảm thành công trong đổi mới chính trị, mà còn là cơ sở và
động lực quan trọng đối với công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ.
Trong việc đổi mới hệ thống chính trị cần phải thay đổi những vấn đề
đã cũ kỹ, lạc hậu không còn phù phợp với thực tế, không đáp ứng yêu cầu của
thực tế để phát triển và tiến bộ. Theo như nhà khoa học Albert Einstein từng
nói: “Trí tưởng tượng là tất cả. Nó là sự xem trước của những gì sẽ xảy ra. Trí
tưởng tượng còn quan trọng hơn cả kiến thức”. Qua đó ta thấy để đổi mới hệ
thống chính trị cần có sự tưởng tượng sáng tạo, linh hoạt trên cơ sở nghiên
cứu kỹ lý luận có lý luận soi đường để không đi sai đường, có hệ thống lý
thuyết chặt chẽ để sau khi đổi mới, hệ thống chính trị sẽ hoạt động hiệu quả

hơn, đáp ứng kịp thời với yêu cầu thực tế.
1.1.5. Khái niệm tổ chức bộ máy hệ thống chính trị
Theo thuật ngữ Hi Lạp khái niệm tổ chức được hiểu là công cụ, dụng
cụ giúp con người thực hiện một công việc, một hoạt động nào đó để đạt hiệu
quả. Còn ở trong từ điển tiếng Việt tổ chức được hiểu theo các nghĩa như:
“làm cho thành một chỉnh thể, một cấu tạo, một cấu trúc và những chức năng
chung nhất định; làm cho thành có trật tự, có nề nếp; là những gì cần thiết để
tiến hành một hoạt động nào đó nhằm có được hiệu quả tốt nhất; làm công tác
tổ chức của cơ quan và công tác cán bộ; tổ chức cán bộ; tập hợp người được
tổ chức lại, hoạt động vì những quyền lợi chung, nhằm một mục đích chung;
tổ chức chính trị - xã hội có kỷ luật chặt chẽ, trong quan hệ với các thành viên
của nó” [86, 1007].
Tiếp cận từ khía cạnh tổ chức công, có thể thấy: Tổ chức công có thể
thuộc sở hữu nhà nước, không có chủ sở hữu hoặc sở hữu tư nhân, hoạt động
với mục tiêu chính không phải vì lợi nhuận mà hướng tới phục vụ lợi ích của
cộng đồng, của xã hội (lợi ích của công cộng). Các tổ chức có thành phần hết
sức đa dạng, hợp thành các nhóm: tổ chức đảng, tổ chức nhà nước và các tổ
chức chính trị xã hội.

20


Tổ chức còn là một tập hợp tạo thành một đơn vị, cơ quan, một hệ
thống (tổ chức bộ máy) với những chức năng và nhiệm vụ nhất định nhằm
thực hiện và đạt được mục tiêu chung đã được xác định.
Bộ máy là hệ thống các cơ quan từ Trung ương đến địa phương, được
tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng
bộ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ nhất định.
Bộ máy không phải là một tập hợp đơn giản các cơ quan, đơn vị, mà là
một hệ thống thống nhất các tổ chức, cơ quan có mối liên hệ ràng buộc qua lại

chặt chẽ với nhau vận hành một cách nhịp nhàng.
Như vậy ta có thể hiểu: Tổ chức bộ máy là sự tổng hợp các tổ chức, cơ
quan, bộ phận khác nhau có mối liên hệ về quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được
chuyên môn hóa, được giao những trách nhiệm, quyền hạn nhất định và được
bố trí theo từng cấp nhằm thực hiện các chức năng lãnh đạo, quản lý và phục
vụ mục đích chung đã xác định.
Tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là tổng thể các tổ chức, cơ quan
thuộc hệ thống chính trị từ trung ương tới địa phương hợp thành hệ thống
được tổ chức, hoạt động theo những nguyên tắc thống nhất, tạo thành cơ chế
đồng bộ, phụ thuộc lẫn nhau, có trách nhiệm và quyền hạn khác nhau nhằm
thực hiện mục tiêu của hệ thống chính trị.
1.2. Cấu trúc, đặc trƣng, cơ chế vận h nh của hệ thống chính trị
Việt Nam
1.2.1. Cấu trúc hệ thống chính trị Việt Nam
Đầu tiên, về tổ chức bộ máy HTCT Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội
cựu chiến binh Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh. Trong HTCT Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là thành tố

21


giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội, là hạt nhân của hệ thống chính
trị.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có các cơ quan
Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (Tòa án và Viện Kiểm
sát nhân dân) và chính quyền địa phương.
Đối với Quốc hội: đây là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ
quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc

hội Việt Nam thực hiện các quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vẫn đề
quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước
(theo Hiến pháp 2013, điều 69).
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội, đối ngoại. Chủ tịch nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là do Quốc hội bầu ra trong số những đại biểu quốc
hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước
Quốc hội (Hiến pháp 2013, Điều 86, Điều 87).
Chính phủ là một cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có quyền thực hiện các quyền hành
pháp, là một cơ quan chấp hành của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Chủ tịch nước.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án nhân dân bao gồm Tòa án nhân
dân tối cao và các tòa án khác do luật quy định. Tòa án nhân dân là cơ quan
có trách nhiệm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (theo
Hiến pháp 2013, Điều 102).
Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối

22


cao và các Viện Kiểm sát khác do luật định. Viện Kiểm sát nhân dân có nhiệm
vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh
và thống nhất (Hiến pháp 2013, Điều 102).

Chính quyền địa phương được tổ chức ở ba cấp là cấp tỉnh, huyện và
xã. Chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân,
Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc
điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật
quy định. Hội đồng nhân dân là một cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, HĐND đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân
dân địa phương, do nhân dân địa phương đó bầu ra, chịu trách nhiệm trước
Nhân dân địa phương và các cơ quan nhà nước cấp trên. HĐND mỗi cấp
quyết định các vấn đề của địa phương đó do luật quy định; HĐND có chức
năng giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật tại địa phương và việc
thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Ủy ban nhân dân ở cấp
chính quyền địa phương là do HĐND cùng cấp đó bầu ra, là cơ quan chấp
hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
UBND chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà
nước cấp trên. UBND tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương;
tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm
vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao (Hiến pháp 2013, Điều 111, Điều 112,
Điều 113, Điều 114). Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, huyện được
thành lập để bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, bảo vệ hệ thống chính trị địa
phương và nhân dân.
Như vậy, trong hệ thống chính trị, quyền lực Nhà nước là tập trung,
thống nhất không thể phân chia, nhưng có sự phân công và kiểm soát lẫn nhau

23


giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là một thành tố
trong HTCT, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên

hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã
hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc,
các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Luật Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, Điều 1). Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là nơi thể hiện ý
chí, nguyện vọng của nhân dân, có nhiệm vụ tập hợp khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tham gia các công tác bầu cử
đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp, xây dựng chủ trương, chính sách
pháp luật, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, thực hiện giám sát, phản biện xã hội.
1.2.2. Mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị
Mối quan hệ giữa người có quyền và người được ủy quyền:
Trong HTCT Việt Nam có thể thấy rõ công dân Việt Nam là người chủ
đất nước. Công dân Việt Nam thực hiện sự ủy quyền để bầu ra các cơ quan
quyền lực nhà nước và có thể bãi miễn các cơ quan đó. Các cơ quan của nhà
nước thay mặt công dân Việt Nam thực thi quyền lực nhà nước, thực chất là
sự hiện thực hóa quyền, ý chí và lợi ích của nhân dân.
Quyền lực chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam là quyền lực của nhân
dân ủy quyền, là tính tất yếu từ vai trò lãnh đạo của Đảng từ khi thành lập đến
nay. Tất cả các tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở đều được nhân dân ủy
quyền. Mọi quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân và các công dân Việt
Nam đã ủy quyền cho các đại biểu của mình và tham gia giám sát đại biểu của
mình trong quá trình thực thi quyền lực Nhà nước.

24




Việt Nam nhân dân làm chủ bằng hình thức trực tiếp và gián tiếp. Hiện nay

quyền làm chủ của nhân dân Việt Nam không chỉ được bảo đảm bằng Hiến
pháp, pháp luật mà còn qua hệ thống truyền thông, các phương tiện
thông tin đại chúng, các cuộc vận động, qua việc thực hiện quy chế dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, qua vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là những cơ quan đại
diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của các giai cấp, tầng lớp, hội viên, các tổ
chức này là cơ sở chính trị của Chính quyền. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội vừa tham gia vào đời sống chính trị của đất nước, vừa thực
hiện những chức năng xã hội đối với các thành viên, hội viên của mình.
Quan hệ theo chiều ngang giữa các thành tố trong hệ thống chính trị
Việt Nam:
Đối với HTCT Việt Nam, các quan hệ chính trị giữa các tổ chức, cá
nhân và xã hội được xác lập dựa trên cơ chế chủ đạo (đồng thời là quan hệ
chủ đạo) Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Trong mối quan hệ này, Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn diện
đối với Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Đường lối cương lĩnh của
Đảng được thể chế hóa, cụ thể hóa trong Hiến pháp, pháp luật trong hệ thống
văn bản pháp quy của Nhà nước, từ đó Nhà nước tổ chức thực thi. Đảng lãnh
đạo bằng các biện pháp như giáo dục, tuyên truyền vận động và nêu gương;
bằng công tác tổ chức và công tác cán bộ; lãnh đạo bằng công tác kiểm tra,
giám sát.
Nhà nước Việt Nam quản lý xã hội bằng hệ thống quy phạm pháp luật,
bằng hệ thống các cơ quan quản lý của Nhà nước từ các bộ đến cơ sở. Nhà
nước thực hiện quản lý trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quản lý theo lãnh thổ hoặc ngành theo cấp vĩ mô, vi mô, quản lý bằng các

25



chính sách, công cụ đòn bẩy khác. Nhà nước có quyền thực hiện các biện
pháp cưỡng chế để bảo đảm thực hiện sự nghiêm minh của Pháp luật.
Mục tiêu cuối cùng của quản lý nhà nước là phát huy mọi tiềm năng
sáng tạo của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho
nhân dân được làm tất cả những gì mà pháp luật Việt Nam không cấm, phát
huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế để phát triển nhanh và
mạnh mẽ lực lượng sản xuất của đất nước.
Quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là quan hệ phối
hợp hành động, được thực hiện theo quy chế phối hợp công tác do Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cơ quan hữu quan ở từng cấp ban hành. Đối với
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
vừa là thành viên thuộc Mặt trận Tổ quốc. Chính vì vậy quan hệ giữa Đảng
với Mặt trận Tổ quốc vừa là quan hệ lãnh đạo vừa là quan hệ hiệp thương dân
chủ, phối hợp và thống nhất hành động. Còn đối với các thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam vừa phải tuân theo Điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình.
Quan hệ theo chiều dọc từ Trung ương đến cơ sở:
Trong quan hệ giữa Trung ương – địa phương và cơ sở của các tổ chức
trong HTCT Việt Nam được tổ chức theo cấp hành chính bốn cấp, ở mỗi cấp
đều có các tổ chức trong các thành tố tạo nên HTCT. Với bốn cấp đó, cấp
dưới phải phục tùng cấp trên để đảm bảo sự thống nhất, thông suốt mọi công
việc từ Trung ương đến cơ sở, đồng thời đi kèm sự phân cấp đó là sự phân
quyền nhất định, để đảm bảo rằng cấp dưới vừa thực hiện chủ trương của cấp
trên và cả nước, đồng thời cũng phát huy được sự năng động sáng tạo của các
địa phương và cơ sở.
1.2.3. Đặc trưng của hệ thống chính trị Việt Nam
Từ những khái niệm đã phân tích và làm rõ ở trên về “chính trị”, “hệ
thống chính trị”, “hệ thống chính trị Việt Nam” và “hệ thống chính trị xã hội

26



chủ nghĩa” có thể thấy, HTCT của Việt Nam hiện nay bao gồm những đặc
trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất là hệ thống chính trị Việt Nam được xây dựng trên cơ sở lý
luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh:
Hệ thống chính trị được xây dựng từ lý luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi
giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị, nắm chính quyền nhà nước, chi
phối tư liệu sản xuất chủ yếu, thực hiện lãnh đạo các phần tử trung gian và
giai cấp trung gian chống lại giai cấp bóc lột sẽ hình thành hệ thống chuyên
chính vô sản, và sự hình thành chuyên chính vô sản là tất yếu từ lịch sử và
như V.l. Lênin đã chứng minh: “... chuyên chính của một giai cấp là tất yếu
không những cho mọi xã hội có giai cấp nói chung, không những cho giai cấp
vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản, mà còn cho thời kỳ lịch sử từ chế độ
tư bản chủ nghĩa đến “xã hội không có giai cấp”, đến chế độ cộng sản chủ
nghĩa”2 và nhà nước đó tất nhiên phải là một nhà nước dân chủ kiểu mới (dân
chủ đối với những người vô sản và nói chung những người không có của), và
chuyên chính kiểu mới (chống giai cấp tư sản), chuyên chính vô sản còn là
việc thực hiện được kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư
bản. Còn chính quyền Xô viết là một hình thức của dân chủ vô sản, “Chế độ
dân chủ vô sản so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào, cũng dân chủ hơn gấp
triệu lần; Chính quyền Xô viết so với nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất thì
cũng dân chủ hơn gấp triệu lần”3,…
Đến giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là người vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam, giải quyết những nhiệm vụ to lớn của cách mạng Việt Nam, từ đó
đánh thắng các đế quốc xâm lược, những kẻ thù hung bạo để giành độc lập tự
2V.I.Lênin: Toàn tập(1976), t. 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.44.
3V.I Lênin: Toàn tập (1978), t.37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.312-313.


27


do cho dân tộc, thành lập Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, bảo vệ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc, đưa cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Cùng với những thắng lợi to lớn đó, vào cuối thập niên 80 đầu thập
niên 90 trước sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đảng Cộng
sản Việt Nam đã kịp thời đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới HTCT. Cụ
thể là trong Đại hội VI (tháng 3 năm 1986) Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa
ra quan điểm đổi mới toàn diện trong đó có đổi mới hệ thống chuyên chính vô
sản. Qua 33 năm đổi mới, hệ thống chính trị Việt Nam đã có những bước
chuyển biến tích cực và đáng kể:
Về cơ cấu tổ chức của HTCT được mở rộng, đa dạng hơn cụ thể như
thời gian trước Đại hội VI của Đảng thì Hội cựu chiến binh Việt Nam không
thuộc hệ thống chuyên chính vô sản. Từ Đại hội VI của Đảng thì Hội cựu
chiến binh Việt Nam là một thành viên của hệ thống chuyên chính vô sản (từ
tháng 3 năm 1989 là hệ thống chính trị).
Về chức năng, nhiệm vụ của các thành tố trong HTCT được xác định rõ
ràng hơn ngày một hoàn thiện hơn. Cụ thể: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam có
chức năng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Còn
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có chức năng, nhiệm vụ quan trọng là tập
hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của
các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tích
cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Mối quan hệ, sự phối hợp hoạt động

giữa các thành tố trong hệ thống chính trị càng được quy định cụ thể, rõ ràng

28


×