Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Quá trình đổi mới tư duy lý luận của đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.8 KB, 110 trang )

Đại học quốc gia hà nội

Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
========= o0o =========

Nguyễn Thị Đào

Quá trình đổi mới tư duy lý luận của đảng
ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay

Luận văn thạc sĩ khoa học

Hà nội – 12/2008


Đại học quốc gia hà nội

Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
------------- o0o -------------

Nguyễn Thị Đào

Quá trình đổi mới tư duy lý luận của đảng ta về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

trong giai đoạn hiện nay

Luận văn thạc sĩ triết học
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thúy Vân

Hà nội - 12/2008


Luận văn thạc sĩ triết học
Lời cảm ơn
Hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành
cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thày cô giáo trong khoa Triết học,
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
trong suốt thời gian em học tập và nghiên cứu tại khoa, tại trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thúy Vân đã trực
tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn
thiện luận văn tốt nghiệp này.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn sẽ không tránh
khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của các thày, các cô, cùng toàn thể các bạn để luận văn này
được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2008
Tác giả

Nguyễn Thị Đào

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học

Mục lục

Mở đầu.................................................................................................................................................... 1
Chương 1. đổi mới tư duy lý luận và tính tất yếu của việc đổi mới tư duy lý luận của

đảng ta.................................................................................................................................................. 13
1.1. Một số vấn đề về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận.................13
1.1.1. Tư duy lý luận........................................................................................................... 13
1.1.2. Đổi mới tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội 24

1.2. Tính tất yếu của việc đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội................................................................................ 32
1.2.1. Nhân tố khách quan................................................................................................ 32
1.2.2. Nhân tố chủ quan..................................................................................................... 39
Chương 2. Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội – Bước phát triển mới trong nhận thức của đảng ta.................45
2.1. Nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội trước thời kỳ đổi mới (trước 1986)........................................................................... 45
2.2. Tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới (từ 1986 đến nay)..................................... 66
Kết luận............................................................................................................................................. 103
Tài liệu tham khảo...................................................................................................................... 105

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên xô (cũ) đã

đem đến một tổn thất to lớn cho phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
thế giới, đánh dấu một bước “thụt lùi tạm thời” trong sự phát triển của hình
thái kinh tế – xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu.
Đồng thời, cán cân sức mạnh chính trị tạm thời nghiêng về chủ nghĩa tư bản
với đế quốc Mỹ là kẻ cầm đầu.
Chiến tranh lạnh kết thúc, từ “hai cực” chiến tuyến trở thành “một
cực”. Các nước Mỹ và Tây Âu đã “chiến thắng” nhưng cũng phải gánh chịu
không ít hậu quả do chiến tranh lạnh đem lại. Vì vậy, họ phải gấp rút phát
triển kinh tế và trang bị sức mạnh quân sự cho mình ngày càng hoàn bị hơn.
Nhờ có cuộc cách mạng khoa học và công nghệ – sức mạnh tiềm tàng này đã
và đang nâng đỡ các nước tư bản chủ nghĩa trên các lĩnh vực kinh tế, quân
sự… ngày càng phát triển mạnh. Đồng thời, đem đến những mối đe doạ lớn
đối với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại cũng như các nước thuộc thế giới
thứ ba bởi sự can thiệp nội bộ, cũng như sự “tấn công” bằng những hình thức
biến tướng với chiến thuật “diễn biến hoà bình” vào các lĩnh vực cụ thể như
kinh tế, chính trị…của đất nước, nhằm mục đích thống trị của chủ nghĩa đế
quốc.
Điều đó làm nảy sinh do dự và hoang mang của một số nhà lãnh đạo,
nhà nghiên cứu. Họ bắt đầu nghi ngờ về tính khả thi của chủ nghĩa xã hội, họ
đòi xét lại con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, ca tụng chủ nghĩa tư bản. Nhiều
khuynh hướng cải lương đã xuất hiện và có không ít người mộng tưởng rằng
phát triển theo tư bản chủ nghĩa sẽ đem lại một tương lai sáng lạn hơn đối với
những nước chủ nghĩa xã hội còn lại, cũng như các nước thuộc thế giới thứ
ba. Điều này đặt các nước trước những yêu cầu và thách thức lớn để tồn tại và
Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
phát triển với sự kiên định chọn lựa mục tiêu và định hướng cho quốc gia dân
tộc mình theo con đường xã hội chủ nghĩa.



Việt Nam, việc áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội theo Liên Xô (cũ)

trong những năm 60, 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX một cách rập
khuôn, máy móc đã gây ra một cuộc khủng hoảng trên nhiều lĩnh vực của đời
sống, đặc biệt là kinh tế. Những biểu hiện cụ thể của sự khủng hoảng này thể
hiện ở sự tụt hậu về kinh tế, nghèo nàn về sản phẩm tiêu dùng, lạc hậu về
khoa học – kĩ thuật và công nghệ, quan liêu trong tổ chức hành chính… dần
dần đánh mất và giảm dần lòng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa của một bộ
phận quần chúng nhân dân.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, song có một nguyên
nhân quan trọng là do xuất phát từ tư duy, từ nhận thức chưa đúng, chưa đầy
đủ về những khó khăn, phức tạp trên con đường phát triển “rút ngắn” (bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa) lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sự sai lầm và hạn
chế trong nhận thức, tư duy lý luận cho thấy trong công cuộc xây dựng đất
nước chúng ta đã vi phạm nguyên tắc thống nhất biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn. Do đó, thực tiễn yêu cầu phải có tư duy mới, phải đổi mới tư duy lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề
cấp bách trong sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược đối với sự tồn tại và phát triển của mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực ở
nước ta. Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đánh dấu
bước ngoặt trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó cho đến nay, nội dung của vấn
đề này ngày càng được Đảng ta làm rõ hơn.
Để nghiên cứu quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; thông qua đó, thấy được ý
nghĩa của tư duy lý luận trong nhận thức xã hội, trong hoạt động thực tiễn và

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học



Luận văn thạc sĩ triết học
đặc biệt trong việc xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn, nhằm bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế
lực thù địch về sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội. Do đó, tôi chọn đề
tài “ Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu


Việt Nam, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với tinh thần

nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật thì vấn đề đổi mới tư duy lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được đặt ra cấp thiết.
Đã có nhiều tác giả và tập thể tác giả, nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về
vấn đề này. Có thể điểm qua một số công trình sau:
-

Lại Văn Toàn: “Đổi mới tư duy lý luận – tư duy lý luận trong sự

nghiệp đổi mới”, tạp chí triết học, số 1-1988; tác giả đề cập vấn đề đổi mới tư
duy lý luận đã được đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, cũng như tính
cấp thiết của vấn đề đổi mới được thông qua, để thấy được vai trò của tư duy
lý luận trong sự nghiệp đổi mới đất nước - đó là một nhân tố không nhỏ trong
việc định hướng các sách lược, chiến lược phát triển đất nước.
-

Phạm Ngọc Quang: “Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở


nước ta – khảo lược lịch sử”, tạp chí triết học số 5, tháng 10-2000: Tác giả đã
thông qua việc khảo sát các văn kiện đại hội Đảng toàn quốc và khảo lược
quá trình đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta. Từ đó, tác
giả đã chỉ ra tính cấp thiết phải đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội.
-

Trong cuốn sách: “Một số vấn đề suy nghĩ về chủ nghĩa xã hội: từ lý

luận đến thực tiễn” của TS. Nhị Lê, Nxb Lao động, 2002: Tác giả trên cơ sở
nghiên cứu tính tất yếu và sứ mệnh lịch sử của chủ nghĩa xã hội, để kiến giải
từ bình diện lý luận và thực tiễn quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm
đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái phủ nhận chủ nghĩa xã hội ở
Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
Việt Nam, đấu tranh chống lại cách nhìn sai về chủ nghĩa xã hội. Và đồng thời
đưa ra triển vọng và dự báo về chủ nghĩa xã hội trong tiến trình lịch sử của
thời đại ngày nay trên quy mô toàn thế giới.
-

Trong cuốn sách: “Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới” của giáo sư

Trần Nhâm, Nxb Chính trị quốc gia, 2004: Tác giả trên cơ sở nghiên cứu vấn
đề đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta trong bối cảnh thời đại, trong mối quan
hệ với toàn cầu hoá và những thách thức đặt ra, cũng như trong mối tương
quan giữa chủ nghĩa Mác – Lênin và thời đại hiện nay. Để từ đó, nghiên cứu,
xem xét và tổng kết đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và đổi mới tư
duy lý luận về kinh tế của Đảng ta.
-


Trong cuốn sách: “Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta” của TS.

Nguyễn Đức Tài, Nxb Chính trị quốc gia, 2005: Tác giả đã khảo sát quá trình
đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta
trong các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, văn hoá…Từ đó, chứng minh việc đổi
mới tư duy lý luận là tất yếu để phát triển đát nước trong bối cảnh mới của
thực tiễn.
-

Trong cuốn sách: “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta từ

1986 đến nay” do tập thể các tác giả Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc
Việt, Lê Ngọc Tòng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, 2006: Đây là cuốn
sách tập hợp sự đóng góp của rất nhiều nhà nghiên cứu, là một công trình
nghiên cứu có uy tín với sự tổng kết những hạn chế và thành tựu trong công
cuộc đổi mới tư duy lý luận của đảng ta về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đồng thời chỉ
ra những hạn chế trong nhận thức, tư duy về chủ nghĩa xã hội trước đổi mới.
Các tác giả đi vào khảo sát vấn đề đổi mới tư duy lý luận trong từng lĩnh vực
cụ thể. Để từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm và yêu cầu tiếp tục đổi mới

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
toàn diện theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước vào thời kỳ phát
triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá.



Qua các công trình nghiên cứu, các tác giả đều cho rằng cách tư duy

máy móc, siêu hình, chủ quan, duy ý chí v.v… là nguyên nhân cản trở quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, việc đòi hỏi phải đổi mới
tư duy lý luận là tất yếu. Đồng thời các bài viết, các công trình nghiên cứu
cũng nhận định quá trình đổi mới phải dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cần bổ sung và phát triển những thành tựu lý
luận đã đạt được để đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh
nghiệm… Các tác giả đã chỉ ra trong quá trình đổi mới cần phải bám sát vào
thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, đó là yêu cầu to lớn mà thực
tiễn đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng ta.
Như vậy, đổi mới tư duy lý luận đã được nhiều sự quan tâm trong việc
nhận thức, tổng kết, khái quát thực tiễn để từ đó có định hướng đúng đắn
trong việc lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì thế, vấn đề đổi
mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội là phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi phát triển của đất nước, là vấn đề
mang tính cấp thiết hiện nay.
Việc nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua việc khảo sát các văn kiện
của Đảng của mỗi tác giả có những đặc trưng riêng, và tiếp cận đối tượng, vấn
đề dưới những góc cạnh khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu việc đổi mới tư
duy lý luận của Đảng ta như một quá trình thể hiện sự thay đổi về mặt nhận
thức thông qua các văn kiện, cương lĩnh xây dựng đất nước của Đảng có tính
hệ thống còn ít được đề cập. Chính vì vậy, đề tài cũng muốn tiếp cận và làm
rõ hơn quá trình đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học



Luận văn thạc sĩ triết học
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với mong muốn đóng góp quan điểm
của mình vào việc nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng.
3.
-

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở hệ thống hoá những nội dung liên quan đến tư duy lý luận
và đổi mới tư duy lý luận, luận văn làm rõ quá trình đổi mới tư duy lý luận
của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, thông qua việc khảo cứu các văn kiện đại hội Đảng và cương lĩnh xây
dựng đất nước.
-

Nhiệm vụ nghiên cứu:

+

Hệ thống hoá một số nội dung cơ bản liên quan đến khái niệm tư duy

lý luận và đổi mới tư duy lý luận.
+

Làm rõ sự đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường

đi lên chủ nghĩa xã hội - đánh dấu bước phát triển mới trong nhận thức của
Đảng qua các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu:

Nghiên cứu quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
-

Phạm vi nghiên cứu:

Thông qua các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ về đổi mới và định hướng con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
-

Cơ sở lý luận.

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, nhất là các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng về
nhận thức và tư duy.
-

Phương pháp nghiên cứu.


Phương pháp phân tích – tổng hợp, lịch sử - logic; các phương pháp
được sử dụng đan xen để làm rõ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
6.
-

Đóng góp của luận văn
Luận văn hệ thống hoá và phân tích ở góc độ triết học vấn đề đổi mới

tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Đảng ta, thông qua các văn kiện Đại hội Đảng và cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ.
7.
-

ý nghĩa lý luận và thực tiễn
ý nghĩa lý luận:

Trên cơ sở hệ thống hoá và phân tích dưới góc độ triết học về vai trò
của tư duy lý luận và của đổi mới tư duy lý luận trong việc nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, góp phần làm
rõ vai trò của lý luận đối với việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cũng như mối
quan hệ biện chứng giữa chúng. Khẳng định ý nghĩa của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động, quyết
sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
-

ý nghĩa thực tiễn:

Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, học tập các văn kiện Đảng, các

chuyên đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đóng góp
thêm ý kiến trong công cuộc đổi mới công tác tư tưởng, lý luận của Đảng

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 4 phần: Phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục
tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm: 2 chương và 5 tiết.

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học

Chương 1
Đổi mới tư duy lý luận và tính tất yếu
của việc đổi mới tư duy lý luận của đảng ta
1.1. Một số vấn đề về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận
1.1.1. Tư duy lý luận
Ngay thuở ban đầu sơ khai, khi khoa học chưa phát triển và khi triết
học đóng vai trò “bách khoa toàn thư” đã xem vấn đề tư duy như một đối
tượng không thể thiếu trong nghiên cứu. Các nhà triết học đã đi vào tìm hiểu
và giải thích về nguồn gốc sinh thành, phát triển của tư duy, các quy luật của
tư duy, cũng như vai trò của nó đối với đời sống hiện thực. Từ những lập
trường triết học khác nhau (duy vật hay duy tâm) mà câu trả lời cũng rất
phong phú và đa dạng.
Trong lịch sử triết học, vấn đề tư duy có vị trí đặc biệt quan trọng. Tư
duy với tư cách là đối tượng nghiên cứu, và xem xét nó trong mối quan hệ với

vật chất, với thế giới hiện thực khách quan, là vấn đề xuyên suốt trong lịch sử
triết học. Chính vì vậy, Ph.Ăngghen khẳng định: “Vấn đề cơ bản của mọi triết
học, đặc biệt là của triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn
tại” [41; 403].
Khi khoa học tự nhiên và khoa học xã hội và nhân văn phát triển, tư
duy ngày càng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau:
Sinh lý học nghiên cứu tư duy với tính cách là hoạt động của các hệ thần kinh
cấp cao, điều khiển học nghiên cứu cơ chế điều khiển của tư duy, lôgic học thì
nghiên cứu những hình thức và những quy luật của tư duy, tâm lý học nghiên
cứu sự tác động của hệ thần kinh cấp cao, não người với môi trường xung
quanh … Mỗi ngành khoa học đều muốn khám phá tư duy dưới những góc độ
riêng, và thông qua những khám phá ấy để minh chứng vai trò to lớn của tư
duy trong hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của con người.
Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
Trong hoạt động sống của mình, con người chịu tác động của môi
trường thiên nhiên, đồng thời con người cũng tác động trở lại môi trường
thiên nhiên ấy, nhằm cải tạo thiên nhiên phục vụ cho cuộc sống của chính
mình. Trong mối quan hệ ấy, con người với tư cách là chủ thể tác động vào
đối tượng khách quan bằng phương thức riêng biệt đặc trưng riêng cho loài
của mình, đó là quá trình tư duy. “Việc tạo một cách thực tiễn ra thế giới vật
thể, việc cải tạo thế giới tự nhiên vô cơ là sự tự khẳng định của con người với
tư cách là một sinh vật có tính loài có ý thức” [42; 136].
Cố nhiên con vật cũng sản xuất nhưng con vật chỉ sản xuất một cách
phiến diện, trong khi con người sản xuất một cách toàn diện. Con vật sản xuất
chỉ vì bị nhu cầu thể xác chi phối, còn con người sản xuất cả khi không bị nhu
cầu ràng buộc. Cũng có thể nói, khi con người sản xuất không bị nhu cầu thể
xác ràng buộc thì con người mới sản xuất theo đúng ý nghĩa của từ đó. Điểm

khác biệt giữa con người và con vật là ở chỗ: con vật thì chỉ sản xuất ra bản
thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Quá trình sản
xuất của con người không phải một cách tuỳ tiện, vô nguyên tắc mà con người
sản xuất theo “quy luật của cái đẹp”, nhà kiến trúc sư trước khi xây dựng ngôi
nhà đã hình thành sẵn trong đầu mình mô hình về ngôi nhà đó rồi. Ranh giới
phân biệt giữa con người và con vật không phải về mặt địa lý, mặt không gian
và thời gian, mà là về mặt tư duy, ý thức. “Chính con người, khi phát triển sự
sản xuất vật chất và giao tiếp vật chất của mình, đã làm biển đổi, cùng với
hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy” [36, 38].
Thực chất, tư duy là chức năng riêng biệt vốn có của não người, đó là
quá trình con người tiếp cận và nắm bắt hiện thực, là hình thức cao cho sự
phản ánh hiện thực, là hình thức cao cho sự phản ánh tích cực, chủ động, có
mục đích về thế giới hiện thực khách quan; và được thể hiện ra như là sự nhận
thức có tính gián tiếp, khái quát về các mối liên hệ, quan hệ giữa các sự vật,

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
hiện tượng. Tư duy là hình thức cao trong sự phản ánh hiện thực khách quan,
trong đó con người qua các tài liệu thu được từ nhận thức cảm tính thực hiện,
thông qua các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán, suy
lý…) phân tích các dữ kiện, tài liệu để đưa kết luận cuối cùng trong chuỗi
phản ánh. Mỗi kết luận được đưa ra thường đem lại những tri thức mới. Nội
dung của tư duy hình thành trên cơ sở các tài liệu của cảm giác, tri giác, biểu
tượng về các sự vật và hiện tượng của thế giới bên ngoài tác động vào chủ thể
tư duy. Nhưng quá trình tư duy không phải là sự tổng hợp đơn giản các cảm
giác và tri giác ấy. Với bộ công cụ đặc biệt của mình, tư duy giúp cho chủ thể
nhận thức phản ánh được những thuộc tính cơ bản, những mối liên hệ cơ bản
không chỉ có ở những sự vật riêng lẻ, mà còn ở một nhóm sự vật. Tư duy có

khả năng nắm bắt, phát hiện được bản chất của sự vật ngày càng sâu sắc hơn.
Tính gián tiếp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, tính tích cực và sáng tạo là đặc
trưng cơ bản của tư duy con người. Nhờ những đặc trưng này, tư duy thoát
khỏi sự ràng buộc của hoàn cảnh trực tiếp mà vẫn có thể nhận thức được đối
tượng.
Tư duy giúp con người nhận thức sự vật, hiện tượng ở mức độ bản chất
của nó. Trong quá trình trừu tượng hoá, dường như tư duy tách rời khỏi hiện
thực, khỏi cái cụ thể, cái cảm tính để gạt bỏ cái bề ngoài, ngẫu nhiên, đi vào
bên trong, bản chất của sự vật, phát hiện những mối liên hệ căn bản nhất. Từ
đó, tái tạo về sự vật, hiện tượng một cách toàn diện, sâu sắc. Tuy nhiên, thế
giới khách quan là vô cùng phong phú và đa dạng mà tư duy là kết quả của sự
tác động bởi yếu tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, quá trình tư duy là một
quá trình phức tạp, nó không tiến hành phản ánh một lần mà phải thực hiện cả
một chuỗi phản ánh để đi đến nhận thức sâu sắc về đối tượng. Khả năng “tư
duy của con người vừa tối cao vừa không tối cao, và khả năng nhận thức của
con người vừa vô hạn vừa có hạn. Tối cao và vô hạn là xét theo bản tính, sứ
mệnh, khả năng và mục đích lịch sử cuối cùng; không tối cao và có hạn là xét
Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
theo sự thực hiện riêng biệt và thực tế trong mỗi thời điểm nhất định” [39;
127]. Do đó, tư duy của con người với sản phẩm của nó, không phải tất cả
đều là chân lý, và không thể là một “chân lý vĩnh cửu”.
Trên thực tế, vì tư duy có tính sáng tạo; do đó, nó có khả năng vượt
trước thực tiễn, đi trước hiện thực khách quan. Nhưng cũng vì sự linh động
này mà đôi khi tư duy dễ mắc phải những sai lầm trong quá trình phản ánh khi
nó thoát ly hoàn toàn thực tiễn. Điều này làm cho tư duy được thể hiện ra rất
phong phú về độ phản ánh cũng như phương pháp phản ánh.
Lĩnh vực phản ánh của tư duy rất đa dạng: bao gồm tư duy về kinh tế,

tư duy về chính trị, tư duy về văn hóa … nhưng mọi hình thức phản ánh, lĩnh
vực phản ánh của tư duy đều có mục đích cuối cùng là nhằm tạo ra sản phẩm
được chứng nhận với tên gọi là chân lý. Vì vậy, phương pháp tư duy có thể là
tư duy hình thức, tư duy biện chứng hay tư duy siêu hình, tư duy kinh viện…
và thông qua cách thức mà chủ thể tư duy phản ánh về đối tượng, sẽ cho phép
chúng ta đánh giá được chủ thể tư duy đang ở trình độ nào trong tư duy.


đây, chúng ta xem xét đến mối quan hệ giữa tư duy kinh nghiệm và

tư duy lý luận để xem xét và trả lời cho câu hỏi: Vậy thì trình độ tư duy có
mối liên hệ như thế nào với phương pháp tư duy và nó có vai trò như thế nào
trong đời sống hiện thực, điểm khác biệt của chúng là ở đâu? Trong mối quan
hệ giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận, chúng ta thấy rõ được sự tác
động qua lại giữa hai trình độ tư duy này, chúng không hoàn toàn phủ định
nhau một cách sạch trơn mà đó là sự phủ định có tính kế thừa, mặc dù có sự
khác biệt rõ nét.
Tư duy kinh nghiệm với sản phẩm của nó là những tri thức kinh
nghiệm, là tập hợp những hiểu biết tích luỹ được, rút ra trong hoạt động nhận
thức của chủ thể tư duy, là kết quả được nhận thức bằng con đường trực quan,
cảm tính mang tính kinh nghiệm của mỗi người. Những tri thức rút ra từ tư
Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
duy kinh nghiệm không phải là chân lý lý luận, là chân lý khoa học đích thực
mà chỉ là “chân lý” của những cái đã trải qua và nó bó hẹp trong phạm vi thế
giới kinh nghiệm. Cái chung ở tri thức kinh nghiệm chỉ là tổng cộng những sự
vật, mối liên hệ riêng lẻ, đơn nhất được tập hợp theo dấu hiệu tương tự, bề
ngoài, được lặp đi lặp lại nhiều lần một cách trực quan chứ không phải là cái

bản chất, tất yếu, phổ biến tồn tại trong những cái riêng. Kinh nghiệm là sự
phản ánh những dấu hiệu, những mối quan hệ hình thức, bề ngoài lặp đi lặp
lại nhiều lần trong cuộc sống hiện thực. ở tư duy kinh nghiệm, con người sử
dụng những tri thức kinh nghiệm cũ cũng như thông qua hoạt động cải tạo
hiện thực khách quan một cách trực tiếp làm phương tiện và cơ sở cho việc xử
lý những thông tin mới trong hiện thực, cho việc chế biến ra những tri thức
kinh nghiệm mới từ tài liệu cảm tính để định hướng cho hoạt động tiếp theo.
Tri thức kinh nghiệm là tri thức của những cái riêng mang tính chất kinh
nghiệm nên không thể tự vạch ra con đường nhận thức chân lý trong từng
ngẫu nhiên tự phát. Nó chỉ có thể thụ động chạy theo những cái tất yếu, cái
bản chất, chuyển hoá của sự vận động chứ không phải là cái có khả năng bao
quát được sự vật đó. Tư duy đó hạn chế nhận thức của chủ thể ở trình độ tự
phát, thụ động chứ chưa phải tự giác, sáng tạo. Tư duy kinh nghiệm chỉ chủ
yếu đi vào những cái riêng, cái đơn nhất không bản chất. Và ở tư duy kinh
nghiệm còn tồn tại vô số những cái ngẫu nhiên, tạo nên tổng số những tri thức
hạn chế về đối tượng chứ không phải là tái tạo lại toàn bộ sự biện chứng đối
tượng trong tư duy.
Tư duy lý luận là trình độ cao hơn về chất so với tư duy kinh nghiệm,
với sản phẩm là tri thức lý luận, khác với tổng số những tri thức kinh nghiệm
mảnh đoạn, tri thức lý luận là hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật
chỉ ra tính tất yếu, phổ quát bao trùm toàn bộ biện chứng của đối tượng. Tri
thức lý luận là sản phẩm dựa trên sự tổng hợp, khái quát các tri thức về tự
nhiên, xã hội trong quá trình hoạt động của con người hướng đến sự giải
Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
thích, làm sáng tỏ những mối liên hệ phổ biến và các quy luật phát triển của
hiện thực khách quan. Sức mạnh của tri thức lý luận đã vượt qua cái bề ngoài
hình thức của đối tượng, vượt lên những cái thường biến, sinh động của đối

tượng để thấy được những mối liên hệ bên trong, lắng đọng, ít biến động,
những quan hệ bản chất mà bằng nhận thức trực tiếp, riêng lẻ không thấy
nhận thấy được. Tư duy lý luận phản ánh bản chất, quy luật ở các cấp độ, các
giai đoạn, các hình thức của sự vật, hiện tượng. Nó đi vào nghiên cứu sâu tầng
lớp bên trong của sự vật và bóc tách vấn đề để phản ánh một cách sâu nhất về
đối tượng, phản ánh xu thế vận động của đối tượng nên tư duy lý luận có khả
năng bao quát, bám sát sự vận động của đối tượng cũng như có khả năng vượt
lên trên và dẫn đường, định hướng cho sự vận động và phát triển của đối
tượng.
Tư duy lý luận là hình thức phản ánh cao nhất của tư duy, nó chính là
quá trình mà tư duy tiếp cận, nắm bắt hiện thực, nắm bắt nhận thức trong tái
tạo hiện thực khách quan bằng lý luận và được thông qua những giả thuyết,
lý thuyết có quan hệ tương hỗ với nhau (tài liệu giảng dạy của TS. Ngô Đình
Xây). Tư duy lý luận bao giờ cũng có tính hệ thống và nghệ thuật chuyển hoá
lẫn nhau, có tính biện chứng, phản ánh sự vật một cách đa dạng và đầy đủ
nhất dưới hình thức lý luận và được thể hiện thông qua những lý thuyết, giả
thuyết. Do vậy, vai trò của tư duy lý luận trong hoạt động nhận thức và cải tạo
thực tiễn là rất lớn.
Ph. Ăngghen nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [40; 489]. Bởi vì, tư duy lý
luận cho phép nhà nghiên cứu vạch mở được bản chất phát triển của khách thể
nghiên cứu, tạo bước chuyển về chất của đối tượng từ trạng thái này sang
trạng thái khác phát hiện và phản ánh vào khoa học các luận điểm, lý thuyết,
quy luật tồn tại và phát triển của nó mà nhận thức cảm tính không thể tiếp cận

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
được. “Nhưng làm thế nào khoa học tự nhiên đã chuyển sang lĩnh vực lý luận

và trong lĩnh vực này những phương pháp kinh nghiệm trở nên bất lực, chỉ có
tư duy lý luận mới có thể giúp ích được” [40; 487]. Bằng tư duy lý luận con
người khám phá bản chất, khoan sâu đến bản chất của hiện tượng. Tư duy lý
luận đóng vai trò là chất keo dính các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ,
quan hệ của sự vật, hiện tượng. “Dù người ta tỏ ý khinh thường tư duy lý luận
như thế nào đi nữa, nhưng không có tư duy lý luận thì người ta cũng không
thể liên kết hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không thể hiểu
được mối liên hệ giữa hai sự liên kết đó” [40; 508]. Tư duy lý luận gắn kết
các hình ảnh hoạt động, vận hành bộ máy công cụ của mình để giúp cho nhận
thức đi vào bản chất của sự vật.
Nhận thức xã hội là quá trình phản ánh đời sống xã hội vào trong ý
thức của con người, là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, nó bao gồm
nhiều thành tố, hình thái xã hội khác nhau của đời sống tinh thần. Mối quan
hệ giữa tư duy lý luận và nhận thức xã hội là mối quan hệ bản chất. Với tư
cách là hình thức phản ánh cao nhất của tư duy, là quá trình tư duy tiếp cận,
tái tạo và nắm bắt hiện thức khách quan bằng lý luận và thông qua những giả
thuyết, lý thuyết có quan hệ tương hỗ; tư duy lý luận giúp cho con người đi
sâu vào bản chất của hiện tượng xã hội để tìm ra tính có quy luật, lôgic vận
đồng của hiện tượng xã hội. Để từ đó có cách thức, biện pháp thúc đẩy hoạt
động thực tiễn của xã hội loài người. Vai trò của tư duy lý luận trong nhận
thức xã hội là rất quan trọng.
Tư duy lý luận đóng vai trò là phương pháp và phương pháp luận cho
nhận thức xã hội. Tư duy lý luận là trình độ phát triển cao hơn về chất so với
tư duy kinh nghiệm. Các thao tác tư duy như phân tích – tổng hợp, phân loại –
so sánh, cụ thể hoá - hệ thống hoá, khái quát hoá - trừu tượng hoá… được tư
duy lý luận sử dụng một cách đa dạng, phong phú, linh động và hiệu quả nhất.

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học



Luận văn thạc sĩ triết học
Trong tư duy lý luận các thao tác được sử dụng một cách chuyên dụng và có
quan hệ kết dính, tương hỗ với nhau tạo thành một hệ thống chặt chẽ.
Với tư cách là phương pháp, tư duy lý luận dựa trên bộ công cụ là các
thao tác tư duy giúp cho nhận thức xã hội đi sâu vào bản chất của hiện tượng xã
hội, tìm ra tính quy luật, tính lôgic trong sự phát triển của hiện tượng xã hội, loại
bỏ những cái ngẫu nhiên, bề ngoài, riêng lẻ, tiểu tiết. Tư duy lý luận giúp cho
chủ thể nhận thức phân biệt được đâu là nội dung, đâu là hình thức; đâu là bản
chất, đâu là hiện tượng; đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả; đâu là tất yếu, đâu là
ngẫu nhiên… Từ đó, nhận thức xã hội có thể phản ánh được hiện thực xã hội
không phải ở cái ngẫu nhiên, ở cái cảm tính trực quan, ở cái bề ngoài, phản ánh
những mảnh vụn của hiện thực xã hội, những mảnh vỡ của hoạt động nhận thức
mà là ở tính hệ thống, tính bản chất và có quy luật của nó.

Với tư cách là phương pháp luận cho nhận thức xã hội, tư duy lý luận
còn được xem như là cơ sở lý luận, là cương lĩnh lý luận cho hoạt động nhận
thức xã hội. Nó điều khiển hoạt động nhận thức của con người cũng như tính
có hiệu quả của hoạt động. V.I. Lênin từng nói: Không có lý luận cách mạng
thì không thể có phong trào cách mạng và chỉ có một Đảng nào có được lý
luận tiên phong dẫn đường thì mới đóng vai trò tiên phong trong sự phát triển
xã hội. Vai trò phương pháp luận góp phần định hướng, chỉ đạo, tìm phương
hướng tiếp cận vấn đề lý luận một cách có hiệu quả nhất. Mà ở đây phương
pháp tư duy biện chứng được xem là phương pháp tối ưu, với sự góp mặt của
ba quy luật và sáu cặp phạm trù cơ bản.
Tư duy lý luận với sản phẩm là tri thức lý luận, nó đóng vai trò làm
điều kiện, tiền đề cho nhận thức xã hội, trên cơ sở đó vận dụng vào quá trình
nhận thức xã hội, phản ánh hiện thực xã hội và cũng như việc áp dụng những
học thuyết, lý thuyết xã hội vào trong quá trình hoạt động thực tiễn, giải thích
thế giới. Trong vai trò là “bà đỡ lý luận” này, các học thuyết xã hội còn làm
tiền đề để xây dựng các học thuyết, lý thuyết xã hội mới trên cơ sở kế thừa, bổ

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
sung để ngày càng hoàn thiện hệ thống lý thuyết, lý thuyết xã hội, phản ánh
đúng đắn hiện thực khách quan và tạo ra những chân lý. Tất nhiên, chúng ta
cần phải lưu ý rằng “lý luận về các quy luật của tư duy hoàn toàn phải là một
chân lý vĩnh viễn” [40; 487]. Do đó, trong mỗi giai đoạn, trong mỗi thời kỳ
nhất định, điều kiện xã hội nhất định thì chủ thể tư duy lý luận, phải có sự
phản ánh sáng tạo, chủ động dựa trên những đặc điểm riêng biệt của hoàn
cảnh lịch sử để có nhận thức đúng đắn, những quyết sách đúng góp phần thúc
đẩy sự phát triển. Vì vậy, yếu tố cụ thể là rất cần thiết.
Thực tế cho thấy, không có một hệ thống tri thức lý luận nào được hình
thành một cách ngẫu nhiên mà nó phải có điều kiện và tiền đề ra đời của nó,
đó là thực tiễn. Thế giới hiện thực khách quan là chất liệu không thể thiếu
trong kết cấu của sự phản ánh. Không có thế giới hiện thực, không có đối
tượng phản ánh thì tư duy không có cơ sở vật chất đề tồn tại. Hay nói cách
khác, cùng với bộ não của con người, thì thế giới hiện thực là cơ sở quyết
định sự sinh thành và phát triển của tư duy. Nhưng tư duy lý luận có vai trò
như thế nào đối với đời sống xã hội, cải tạo hiện thực thì cần phải xem xét và
nghiên cứu một cách toàn diện và cụ thể.
C.Mác đã nói: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều
cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới” [35; 12]. Qua quá trình tư duy
lý luận, chủ thể tư duy đã tiến hành tổng kết, khái quát những quy luật vận
động, phát triển trong thế giới khách quan. Với mỗi sản phẩm được hình
thành, chúng lại quay trở lại phục vụ cho hoạt động thực tiễn, kể cả những tri
thức thuộc về kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm được rút ra từ hoạt động
thực tiễn nhưng nó chỉ dừng lại ở phạm vi nhận thức cảm tính, ở cái nhỏ lẻ, bề
ngoài sự vật chứ chưa đi sâu vào mối liên hệ bên trong, bản chất của sự vật.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong hoạt động thực tiễn chúng ta xem

thường tri thức kinh nghiệm, mà vấn đề là ở chỗ không nên tuyệt đối hoá vai
trò của nó. Bởi thế, để hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn thì nhận thức
Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
không thể chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm mà phải đạt đến một tri thức
cao hơn. Đó là tri thức lý luận với hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy
luật, các học thuyết, giả thuyết…đem lại khả năng hiểu biết sâu sắc về mối
liên hệ cơ bản, bản chất, tất yếu của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách
quan. Bộ óc của con người với tư cách là cơ sở sinh học hình thành tư duy
con người trong quá trình phản ánh hiện thực, tiếp cận hiện thực, tái tạo lại
hiện thực không phải là sự bắt chước một cách cứng nhắc, mô phỏng hay vẽ
lại hiện thức khách quan mà được tư duy, nhận thức một cách tích cực, sáng
tạo và có cải biến hiện thực. Trong quá trình cải biến ấy, tư duy lý luận có thể
còn in lại những dấu ấn của chủ thể tư duy bằng con mắt chủ quan, do đó có
khả năng phản ánh không đúng hiện thực ở khía cạnh nào đó. Vì vậy, trong
quá trình tư duy phải tôn trọng và tuân thủ nguyên tắc thống nhất biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn.
Rõ ràng tư duy lý luận có tính độc lập tương đối của nó, có khả năng đi
trước, đi xa hơn hiện thực trực tiếp, là quá trình phản ánh gián tiếp hiện thực
khách quan, nó có khả năng vượt trước hoạt động thực tiễn, hình thành những tri
thức mới mà bản thân thực tiễn chưa có. Các nhà kinh điển Mác xít đã chứng
minh luận điểm này. Khi hình thành học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, trên cơ
sở tổng kết, khái quát thực tiễn và lý luận đã có, các ông đã đưa ra dự báo sẽ có
năm hình thái kinh tế – xã hội mà khi đó thực tiễn cho thấy chỉ có bốn hình thái
kinh tế – xã hội đã tồn tại trong lịch sử mà thôi. Một hình thái kinh tế – xã hội
trong tương lai - hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa - đã được các ông
dự đoán sẽ ra đời. Nhưng không phải đó là trò “phù thuỷ” tiên đoán trước tương
lai, mà C. Mác – Ph. Ăngghen đã dựa trên cơ sở vận động lôgic nội tại của hiện

thực để dự báo sự vận động của chính hiện thực ấy. Tư duy lý luận có khả năng
phản ánh sâu sắc bản chất cũng như dự kiến chiều hướng phát triển tất yếu, lâu
dài của các hiện tượng xã hội. Sức mạnh của tư duy lý luận đối với đời sống hiện
thực được Hồ Chí Minh khẳng định: “Lý

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc
thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi… và… có kinh
nghiệm mà không có lý luận thì như một mắt sáng một mắt mờ” [45; 233-234].

Tư duy lý luận với sản phẩm của mình là lý luận tạo thành hai nhóm
chính trong quá trình hoạt động thực tiễn: Nhóm thứ nhất là những tri thức để
giải thích thế giới (nhận thức thế giới), nhóm này thuộc về các lý thuyết khoa
học, giả thuyết khoa học, mô hình phát triển xã hội, cũng như các khái niệm,
phạm trù; Nhóm thứ hai là những tri thức để cải tạo thế giới, đó chính là các
chủ trương, đường lối, chính sách, các văn bản pháp luật, các quy định và
quyết định được thực thi trong đời sống hàng ngày. Hồ Chí Minh tổng kết:
“Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu
tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem
nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính” [45; 233].
Từ tổng kết, khái quát hiện thực đời sống, tư duy lý luận tạo ra những
tri thức lý luận quay trở lại phục vụ chính hiện thực đời sống ấy. Thông qua
hoạt động cải tạo hiện thực khách quan, các học thuyết, giả thuyết được chứng
minh khả năng thực thi của nó và loại bỏ những lý thuyết mang tính “ảo
tưởng”, “không tưởng”. Một dân tộc có thể được đánh giá cao về trình độ phát
triển khoa học và tiến bộ kỹ thuật hay không còn phải trông đợi ở khả năng tư
duy lý luận của dân tộc đó. Thực tiễn đã chứng minh lịch sử rút ngắn của quá

trình công nghiệp hoá vào các thời kỳ khác nhau ở một số quốc gia: nước Anh
cần 120 năm, Tây Âu và Mỹ cần 80 năm, Nhật Bản cần trên dưới 60 năm, bốn
con rồng Châu á (Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo) chỉ cần 30 năm.
Như vậy, trên bước đường phát triển với sự giúp đỡ của tư duy lý luận cho
phép có những bước phát triển rút ngắn nhưng phải là quá trình tuân theo quy
luật khách quan. Bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào được giáo dục tốt và có
một nguồn nhân lực, nguồn trí tuệ với một quỹ tri thức dồi

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
dào… đều có khả năng phát triển nhanh và tạo được những bước nhảy vọt.
Tất nhiên, “… nhiệm vụ của tư duy hiện nay là phải theo dõi những bước tuần
tự của tất cả những khúc quanh co của nó và chứng minh tính quy luật bên
trong của nó qua những cái tất nhiên, cái bề ngoài” [39; 40] của sự vận động,
biến đổi không ngừng của thế giới hiện thực khách quan thì mới đưa ra được
một chiến lược phát triển ổn định, bền vững. Phải bám sát yêu cầu của thực
tiễn đề ra để nhanh chóng có câu trả lời thoả mãn được những yêu cầu đó. Có
như vậy, nhiệm vụ xây dựng thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta mới thành công được.
1.1.2. Đổi mới tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội

Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong tự nhiên hay trong xã hội đều
có quá trình sinh thành, vận động, phát triển và tiêu vong, nó không do một
lực lượng siêu nhiên nào tạo ra, không phải vận động và phát triển nhờ sự
nâng đỡ bởi một sức mạnh thần thánh nào mà nó vận động và phát triển theo
quy luật khách quan và chịu sự tác động, chi phối của quy luật khách quan.
Đó là sự tích luỹ dần dần về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất, đó là sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập, đó là phủ định của phủ định. Chỉ có chăng sự khác

biệt là ở chỗ tuỳ thuộc từng giai đoạn phát triển, từng điều kiện, hoàn cảnh và
đối tượng cụ thể mà có thể quy luật này tác động nổi trội hơn quy luật kia mà
thôi. Mọi quy luật tác động vào đối tượng đều có một mục đích là nhằm tạo ra
cơ sở, tiền đề cho sự vật phát triển. Tuy nhiên quá trình phát triển của đối
tượng không phải là con đường thẳng mà nó bao gồm cả những gấp khúc
quanh co, phức tạp, tức là trong sự phát triển của các sự vật, hiện tượng không
chỉ là một đường thẳng mà bao gồm cả những “bước thụt lùi tạm thời” nữa.
Trong quá trình phát triển đó đôi lúc sự vật, hiện tượng bộc lộ những
hạn chế, lỗi thời không phù hợp với thực tiễn, phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh mới và nghiễm nhiên nó trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của chính

Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


Luận văn thạc sĩ triết học
bản thân sự vật, hiện tượng. Và do vậy, để tiếp tục tồn tại và phát triển không
có cách nào khác là phải loại bỏ những yếu tố đang cản trở ấy, phải có sự thay
đổi, đổi mới nhất định trong tiến trình vận động và phát triển. Tuỳ theo đối
tượng, lĩnh vực mà hình thức thay đổi phù hợp, có thể là tiến hành cải tổ, cải
cách, đổi mới hay là tiến hành cuộc cách mạng. Mọi hình thức tiến hành đều
nhằm một điểm là giải quyết những hạn chế, bế tắc, khủng hoảng để nhằm cải
tạo đối tượng hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn.
Cũng như thực tiễn, sự phát triển của tư duy là khách quan và có quy
luật. Nó diễn ra đồng thời với quá trình hoạt động thực tiễn. Cùng với việc
phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người bằng các thao tác
tư duy, truyền tải những dữ liệu, hình ảnh từ thế giới khách quan bên ngoài
đến hệ thần kinh trung ương, qua quá trình xử lý, phân tích hình ảnh, dữ kiện
với các thao tác tư duy khác nó tạo ra tri thức phản ánh sự vật, hiện tượng. Tri
thức này cho phép chúng ta đánh giá tư duy đang ở trình độ tư duy, cũng như
cách thức, thao tác, phương pháp tư duy mà chủ thể tư duy đã vận dụng vào

quá trình phản ánh hiện thực khách quan ấy. Do vậy, tư duy cũng là đối tượng
của nhận thức. Sự phát triển của tư duy không diễn ra đều đặn, không hoàn



toàn là đường thẳng “vectơ”( ), mà trái lại nó có lúc chậm, lúc nhanh, lúc
ngưng đọng, tĩnh lại, lúc thì lại thường biến, đột biến và có lúc nhảy vọt. Tư
duy với tư cách là hình thức phản ánh thế giới khách quan, nó mang tính thời
đại, tính lịch sử. Không có một tư duy chung cho mọi thời đại, mà ở mỗi giai
đoạn lịch sử nhất định, nó lại được đặc trưng bởi một hình thức tư duy riêng
của nó phản ánh trình độ nhận thức của thời đại ấy. Lịch sử đã cho thấy thời
cổ đại đã hình thành tư duy biện chứng ngây thơ, chất phác nhưng “những
đêm trường trung cổ” lại để cho tư duy kinh viện thống trị cả một thời gian
dài, ẩn chứa bên trong nó là yếu tố lạc hậu, bảo thủ. Mặt khác, sự phát triển
nội tại của tư duy không dừng lại ở đó, mà vòng tròn “trôn ốc” của sự phát
triển sẽ hình thành một hình thức tư duy tiến bộ hơn phủ định hình thức tư
Nguyễn Thị Đào - K13 Triết học


×