Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của nho giáo khổng – mạnh và ý nghĩa của nó trong việc giáo dục đạo đức sinh viên việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.77 KB, 78 trang )

ĐẠI

HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

HOÀNG THỊ THU THUỶ

NHỮNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN CỦA NHO GIÁO
KHỔNG - MẠNH VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG VIỆC GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số

: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THANH BÌNH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Thanh Bình.Các số liệu, tài liệu trong luận
văn là trung thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài liệu tham khảo có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 10 tháng 1 năm
2016
Tác giả



Hoàng Thị Thu Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài........................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn......................................................5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn..................................6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu...........................................6
6. Đóng góp khoa học, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn...........7
7. Kết cấu của luận văn...............................................................................7
NỘI DUNG.................................................................................................. 8
CHƢƠNG 1 QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH VỀ
CÁC CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN...............................................8
1.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính và vai trò của
con ngƣời - cơ sở xuất phát cho sự hình thành học thuyết đạo đức của
Nho giáo Khổng - Mạnh............................................................................. 8
1.1.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính con người....9
1.1.2. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về vai trò của con người.
.....................................................................................................................13
1.2. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tƣ tƣởng đạo đức của
Nho giáo Khổng - Mạnh........................................................................... 19
1.2.1 Đức Nhân.......................................................................................... 20
1.2.2 Đức Lễ............................................................................................... 23
1.2.3 Đức Nghĩa......................................................................................... 26
1.2.4. Đức Trí..............................................................................................29
1.2.5. Đức Tín.............................................................................................31
1.2.6. Đức Hiếu.......................................................................................... 33

1.2.7 Đức Trung......................................................................................... 35
CHƢƠNG 2 Ý NGHĨA CỦA CÁC CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CƠ
BẢN CỦA NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH TRONG VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY.................................. 38


2.1. Ảnh hƣởng của các chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo
Khổng - Mạnh đối với sinh viên Việt Nam hiện nay..............................38
2.2. Ý nghĩa của những chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho giáo
Khổng - Mạnh trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam
hiện nay...................................................................................................... 54
KẾT LUẬN................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................70


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo là một trong những học thuyết ra đời từ rất sớm tại Trung
Quốc và có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội. Trong lịch sử, Nho giáo
có sự giao thoa với các nền văn hóa khác nhau và đã để lại dấu ấn nhất định


các nước vùng Đông Nam Á, Bắc Á... đặc biệt là ở một số nước từng lấy

Nho giáo làm nền tảng tư tưởng như Nhật Bản,Triều Tiên...Tại Việt Nam,
từ những năm đầu thế kỷ I, Nho giáo đã chính thức thâm nhập và từ đó trở
đi, Nho giáo Việt Nam theo thời gian, ngày càng có sức ảnh hưởng tới
nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là lĩnh vực đạo đức của dân tộc ta.
Đạo đức Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo Khổng - Mạnh mà nội dung chủ
yếu là quan niệm về những chuẩn mực đạo đức cơ bản như Nhân, Lễ,

Nghĩa, Trí, Tín... đã dần thấmsâu vào tư tưởng, lối sống, hành động của bao
thế hệ người Việt, trở thành những chuẩn mực đạo đức cần thiết mà người
Việt Nam hướng tới, hoàn thiện.
Đất nước ta đang trên con đường thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn
diện, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã
đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị
trường đã nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ lợi, tham ô, tham nhũng, ăn chơi sa
đọa... đã và đang làm băng hoại những giá trị đạo đức tốt đẹp của người
Việt Nam. Mặt trái của cơ chế thị trường đã khiến cho một bộ phận dân
chúng nói chung, tầng lớp sinh viên nói riêng hình thành lối sống thực
dụng, chạy theo đồng tiền, bất chấp luân thường đạo lý. Điều này đã trở
thành lực cản trên con đường xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta. Để xây
dựng thành công đất nước theo con đường Đảng và nhân dân đã lựa chọn
thì cần có sự góp sức không nhỏ vai trò của sinh viên Viêt Nam bởi họ là
lực lượng tri thức trẻ, có khả năng nắm bắt nhanh nhất những tiến bộ của
khoa học, kỹ thuật tiên tiến, họ sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước, là lực
lượng xung kích trên nhiều mặt trận xây dựng và phát triển đất nước. Lịch
1


sử nhân loại đã chỉ ra rằng, sự hưng thịnh hay suy vong của mỗi quốc gia,
dân tộc phụ thuộc phần lớn vào thế hệ thanh niên, sinh viên. Nhưng do tuổi
còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm sống, cho nên sinh viên cần có sự chăm
lo, bồi dưỡng của các thế hệ đi trước và của toàn xã hội. Chính vì vậy cần
thiết phải thường xuyên giáo dục, đào tạo về kiến thức, đạo đức, lối sống
cho sinh viên.
Sinh viên Việt Nam với số lượng khoảng hơn 2 triệu người đã và
đang học tập, rèn luyện về chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp để chuẩn bị
hành trang bước vào đời sống tự lập một cách hăng say, tích cực. Bên cạnh
việc giáo dục, đào tạo kiến thức và năng lực thực hành thì sinh viên còn

phải được giáo dục và rèn luyện các phẩm chất đạo đức cần thiết cho mình.
Nhìn chung hiện nay, sinh viên Việt Nam đều chăm chỉ học tập, rèn luyện
tri thức và đạo đức, đã có rất nhiều tấm gương tiêu biểu của sinh viên về
học tập, rèn luyện đạo đức nhưng cũng có một bộ phận sinh viên do sống
xa gia đình, hàng ngày tiếp xúc với xã hội bên ngoài nên dễ dàng chịu ảnh
hưởng từ những tiêu cực của xã hội dẫn đến suy đồi đạo đức, lối sống như
ăn chơi, đua đòi, coi thường các chuẩn mực đạo đức cơ bản với quan niệm
cho rằng những chuẩn mực đạo đức đó là lỗi thời, lạc hậu. Từ đó tác động
xấu và ảnh hưởng tiêu cực trở lại tới tâm lý, suy nghĩ và hành vi trong một
bộ phận sinh viên nói chung.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã và sẽ rất cần
những lớp sinh viên ưu tú đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước. Để xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước thì ngoài việc
trau dồi kiến thức, sinh viên cần phải chú trọng trau dồi phẩm chất đạo đức,
lối sống tốt đẹp... Và để thực hiện được điều đó, một trong những biện pháp
quan trọng là cần phải biết tiếp thu và phát huy mặt tích cực của các chuẩn
mực đạo đức trước kia, trong đó không thể bỏ các chuẩn mực đạo đức cơ
bản của Nho giáo Khổng - Mạnh. Việc kế thừa và phát huy những yếu tố
tích cực của đạo đức Nho giáo Khổng - Mạnh, đồng thời đứng trên
2


lập trường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát
từ những yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn cách mạng của nước ta để xây dựng
và hoàn thiện đạo đức sinh viên Việt Nam sẽ giúp nâng cao hơn nữa bản
lĩnh của sinh viên, giúp sinh viên đứng vững trước mọi thử thách khắc
nghiệt của cuộc sống hiện đại.
Với ý nghĩa đó, việc tìm hiểu ý nghĩa của việc giáo dục những chuẩn
mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh đối với sinh viên Việt
Nam hiện nay là vấn đề hết sức cấp thiết. Đó cũng là lý do để tác giả của

luận văn lựa chọn vấn đề: “Những chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho
giáo Khổng - Mạnh và ý nghĩa của nó trong việc giáo dục đạo đức sinh
viên Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu trong luận văn của mình
với mục đích góp phần nhỏ vào việc tìm hiểu ý nghĩa tích cực của đạo đức
Nho giáo Khổng - Mạnh trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt
Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về nội dung và những giá trị đạo đức cơ bản của Nho
giáo Khổng - Mạnh, để trên cơ sở đó nhằm giáo dục, kế thừa và phát huy
những giá trị này không phải là những vấn đề mới, vì đã có nhiều công
trình nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Ở Trung Quốc có
một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: “Bàn về Khổng Tử” của Quan
Phong, Lâm Duật Thời (Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, 1963); “Lịch sử tư
tưởng chính trị Trung Quốc” của Lã Trấn Vũ (Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội,
1964)... Phần lớn trong những công trình này các tác giả đề cập tới những
nội dung, giá trị và hạn chế trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng Mạnh và mối quan hệ của nó với tư tưởng chính trị, giáo dục. Trong nghiên
cứu về Nho giáo của các tác giả trong nước phải kể tới tác giả Nguyễn Hiến
Lê với: “Khổng Tử”, “Mạnh Tử”, “Đại cương triết học Trung Quốc” (viết
chung với Nguyễn Giản Chi); Nguyễn Đăng Thụ với 5 tập sách “Lịch sử
triết học phương Đông”. Bên cạnh đó, còn có các tác
3


phẩm khác như: “Nho giáo xưa và nay” (Quang Đạm, Nhà xuất bản Khoa
học xã hội, 1991); “Bàn về đạo Nho” ( Nguyễn Khắc Viện, Nhà xuất bản
Thế giới, Hà Nội, 1993) ; “Nho giáo tại Việt Nam” (Viện Triết học, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội , 1994); Phan Văn Các, 1991, “Việc nghiên cứu
Khổng Tử và Nho giáo ở Trung Quốc trong thập kỷ 80”, “Nho học và Nho
học Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Nguyễn Tài Thư, Nhà
xuất bản Khoa học xã hội, 1997)... Các công trình nghiên cứu trên đều đề

cập đến nhiều nội dung cơ bản của Nho giáo nói chung và Nho giáo Khổng
-

Mạnh nói riêng trong đó có tư tưởng, học thuyết đạo đức. Mặc dù mỗi

công trình ấy đều có những phương pháp tiếp cận và dung lượng nội dung
nghiên cứu khác nhau, nhưng nhìn chung, đều đưa ra những giá trị và hạn
chế chung trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh đồng thời
đặt ra vấn đề sự cần thiết phải kế thừa một số mặt tích cực trong tư tưởng
đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh nhằm góp phần xây dựng nền đạo đức
mới ở nước ta hiện nay.
Đặc biệt là trong thời gian gần đây, đã có một số luận án tiến sỹ và
thạc sỹ nghiên cứu sự ảnh hưởng của Nho giáo và vai trò của việc giáo dục
đạo đức Nho giáo đối với từng nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội Việt
Nam hiện nay. Tiêu biểu có luận án tiến sỹ “Ảnh hưởng của đạo đức Nho
giáo đối với việc xây dựng đạo đức người cán bộ lãnh đạo quản lý ở Việt
Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Bình, bài viết “Nho giáo với vấn
đề phát triển kinh tế và hoàn thiện con người” của tác giả Nguyễn Thanh
Bình (Tạp chí Triết học, số 9, tháng 9/2002), luận án tiến sỹ “Quan niệm
của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người” của tác giả
Nguyễn Thị Tuyết Mai ....hay một số luận văn thạc sỹ như “Tìm hiểu tư
tưởng Nhân - Lễ và mối quan hệ giữa Nhân và Lễ trong tác phẩm Luận
ngữ” của Phan Minh Nhật, “Học thuyết đạo đức Nho giáo và vận dụng nó
vào việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức con người Việt Nam hiện nay”
của Ngô Thị Mai...
4


Nhìn chung, các công trình trên đã nghiên cứu khá nhiều nội dung,
nhiều phương diện trong học thuyết đạo đức của Nho giáo (chủ yếu là trong

Nho giáo Khổng - Mạnh) và ảnh hưởng, vai trò của nó đối với xã hội và
con người Việt Nam trong lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay. Tuy
nhiên những công trình này chưa đề cập sâu và có hệ thống về nội dung và
vai trò, ý nghĩa của việc giáo dục các chuẩn mực đạo đức cơ bản của Nho
giáo Khổng - Mạnh như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín...cho sinh viên Việt Nam
hiện nay. Do đó, trong luận văn này của mình, tác giả cố gắng đi sâu vào
nghiên cứu để làm rõ một số nội dung trong quan niệm về các chuẩn mực
đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh đồng thời bước đầu chỉ ra ý
nghĩa của việc giáo dục những chuẩn mực đạo đức này trong quá xây dựng
đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản trong quan niệm của Nho
giáo Khổng - Mạnh về các chuẩn mực đạo đức cơ bản và vai trò của nó
trong việc giáo dục đạo đức cho con người nói chung, luận văn rút ra một
số ý nghĩa tích cực của việc cần thiết giáo dục các chuẩn mực đạo đức
trong Nho giáo Khổng - Mạnh đối với việc giáo dục đạo đức cho sinh viên
nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Trình bày quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính của con
người, với tư cách là các quan niệm xuất phát để Nho giáo Khổng - Mạnh
đề xuất các chuẩn mực đạo đức cơ bản.
-

Phân tích làm rõ các khía cạnh, phương diện trong một số chuẩn


mực đạo đức cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh và ảnh hưởng của nó đối
với đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay.
5


-

Rút ra ý nghĩa tích cực của sự cần thiết giáo dục các chuẩn mực đạo

đức trong Nho giáo Khổng - Mạnh cho sinh viên Việt Nam hiện nay, nhằm
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện
nay.
4.
-

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là các chuẩn mực đạo đức

cơ bản của Nho giáo Khổng - Mạnh và ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức
Nho giáo Khổng - Mạnh cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
-

Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn là các tác phẩm của Nho giáo

Khổng - Mạnh (chủ yếu các cuốn sách Luận ngữ, Mạnh Tử) và thực trạng
đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, do số lượng sinh viên
Việt Nam hiện nay ở các trường đại học rất nhiều, lại có ở phần lớn các
tỉnh, thành phố trong cả nước, do vậy tác giả chỉ có thể khảo sát việc giáo

dục đạo đức ở một số trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội mà
thôi.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là những nguyên lý cơ của chủ
nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước
về đạo đức và vai trò của giáo dục đạo đức cho người Việt Nam nói chung,
cho đội ngũ sinh viên Việt Nam nói riêng. Ngoài ra, luận văn còn tham
khảo và kế thừa một số thành tựu nghiên cứu trong một số công trình khoa
học khác đã được công bố có liên quan đến đề tài luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp
nghiên cứu khoa học khác như: phương pháp lịch sử - logic, phân tích và

6


tổng hợp, phương pháp điều tra xã hội học... để thực hiện mục đích và
nhiệm vụ đề tài luận văn đặt ra.
6. Đóng góp khoa học, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng rõ vai trò và ý nghĩa của các chuẩn mực
đạo đức cơ bản trong Nho giáo Khổng - Mạnh đối với việc giáo dục đạo
đức cho sinh viên hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên
Việt Nam hiện nay.Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu và học tập các môn lý luận
chính trị, chuyên ngành triết học, đạo đức học... ở trong các trường đại học,
cao đẳng và trung học chuyên nghiệp.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
phần Nội dung của luận văn gồm 2 chương, 8 tiết.

7


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH VỀ CÁC CHUẨN
MỰC ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN
1.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính và vai
trò của con ngƣời - cơ sở xuất phát cho sự hình thành học thuyết đạo
đức của Nho giáo Khổng - Mạnh.
Có thể nói, Nho giáo (mà giai đoạn đầu tiên của lịch sử Nho giáo là
Nho giáo Khổng - Mạnh) là một trong những học thuyết có sức sống mãnh
liệt trong lịch sử của nhiều nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Nó đã vượt
qua thử thách của không gian và thời gian để trường tồn cho đến ngày nay.
Nho giáo không chỉ có ảnh hưởng tại nơi nó sản sinh ra là vùng Hoa Hạ mà
theo thời gian, nó đã lan tỏa sự ảnh hưởng ra khắp Trung Hoa, sang cả các
nước trong vùng Đông Á, Bắc Á, Đông Nam Á như: Nhật Bản, Triều Tiên
và Việt Nam. Trải qua hơn 2500 năm tồn tại và cho đến đến ngày nay, Nho
giáo vẫn ảnh hưởng và có vai trò nhất định đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội và con người.
Khổng Tử được coi là người sáng lập ra Nho giáo và ông là người
tiêu biểu nhất trong số các nhà Nho. Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết của
ông được các học trò kế tục nhưng được phân chia thành nhiều phái, mỗi
phái lại bổ sung, phát triển về nội dung, tính chất khác nhau so với tư tưởng
đạo đức của Khổng Tử. Phái đạo đức của Tăng Tử ở nước Lỗ truyền đến
thế kỷ IV TCN thì có Mạnh Kha (372 - 289 TCN) tự là Dư, thường được

gọi là Mạnh Tử, là thế hệ học trò thứ tư đã tiếp tục phát triển tư tưởng đạo
đức của Khổng Tử. Sau đó khoảng 40 - 50 năm, Tuân Tử (298-239 TCN)
cũng kế thừa tư tưởng Khổng Tử nhưng theo hướng khác. Thời Xuân Thu Chiến quốc, Nho giáo thường được gọi là Nho giáo Khổng - Mạnh và từ
khi ra đời, được truyền bá vào Việt Nam đến nay, học thuyết của Nho giáo
Khổng - Mạnh (đặc biệt là học thuyết đạo đức) đã được nhân dân ta tiếp
8


nhận và lưu truyền từ đó cho đến nay. Ảnh hưởng của các học thuyết Nho
giáo Khổng - Mạnh đến đời sống xã hội Việt Nam không chỉ dưới thời
phong kiến mà hiện nay một số ảnh hưởng vẫn còn biểu hiện trong lối
sống, suy nghĩ, hành động của các tầng lớp nhân dân.
Qua nghiên cứu nội dung các tác phẩm của Nho giáo Khổng - Mạnh
có thể thấy rằng, vấn đề con người là một trong những vấn đề cơ bản nhất
trong học thuyết của Nho giáo Khổng - Mạnh. Bởi vì, theo quan niệm của
các nhà Nho, vấn đề con người ảnh hưởng và có quan hệ trực tiếp đến việc
củng cố, ổn định trật tự, kỷ cương xã hội. Đặc biệt xã hội Trung Quốc thời
Khổng - Mạnh là xã hội hỗn loạn như Khổng Tử đã chỉ rõ: “vua không ra
vua, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con”. Chính vì
vậy mà vấn đề con người đã được Nho giáo Khổng - Mạnh đề cập, bàn luận
trong cả học thuyết đạo đức, học thuyết triết học, học thuyết chính trị - xã
hội, học thuyết giáo dục, v.v…
1.1.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính con
người.
Có một thực tế là, cùng đề cập đến vấn đề bản tính con người, song ở
mỗi một trường phái triết học Trung Quốc lại có những cách nhìn nhận, bàn
luận khác nhau về vấn đề bản tính người (nhân tính, tính người).
Nội dung cơ bản trong quan niệm về tính người ở Nho giáo Khổng Mạnh bao gồm: Bản tính của con người là gì và do đâu mà có? Bản tính ấy
có thể thay đổi, có thể cải tạo được hay không và nếu cải tạo được thì để
nhằm mục đích gì? Ai hay lực lượng nào có thể cải tạo và cải tạo bằng

phương thức nào? Đi sâu vào tìm hiểu hệ thống các khía cạnh này, có thể
thấy sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm của Nho giáo Khổng Mạnh về bản tính người.
Khổng Tử chính là người đầu tiên đặt vấn đề “tính người” trong phái
Nho gia.Trong sách Luận ngữ, ông đề cập tới chữ “tính”, ông nói “Bản tính
người ta gần giống nhau, nhưng chịu ảnh hưởng khác nhau mà thành khác
9


nhau” [59, tr.269]. Như vậy, theo Khổng Tử, bản tính con người khi mới
sinh ra là hoàn toàn giống nhau, đều ngây thơ, trong trắng, đó là cái bản
tính có sẵn được trời ban cho nhưng khi chịu sự tác động của ngoại cảnh,
của các yếu tố xã hội thì bản tính ấy của con người bị biến đổi.
Có thể nói, khi đề cập đến vấn đề tính người, Khổng Tử chưa bàn
luận, giảng giải gì nhiều, nhưng quan niệm về tính của ông là tư tưởng cơ
bản, đặt nền tảng ban đầu để từ đó các nhà Nho về sau kế thừa, phát triển.
Tiếp tục Khổng Tử, Mạnh Tử đã có những bổ sung về thuyết “tính
Thiện” của mình. “Thuyết tính Thiện” được thể hiện phần lớn khi Mạnh Tử
tranh luận với Công Đô Tử, người mang tư tưởng của Cáo Tử “Cáo Tử cho
rằng: cái tính nhiên của người ta giống như nước chảy. Khi người ta khai
thông phía đông, thì nước chảy về phía đông; khi người ta khai thông phía
tây thì nước chảy về phía tây. Cái tính tự nhiên của người ta chẳng phân
biệt được việc thiện với việc ác; ấy cũng như dòng nước chẳng phân biệt
được phía đông và phía tây vậy. Mạnh Tử đã nói rằng: đã đành dòng nước
chẳng phân biệt được phía đông và phía tây nhưng há nó chẳng phân biệt
được phía trên và phía dưới sao? Cái bản tính của người ta vốn thiện, ấy
cũng như cái bản tính của nước là dồn xuống phía dưới thấp vậy. Không
một người nào tự nhiên sinh ra mà bất thiện, cũng như thế, không một thứ
nước nào mà chẳng chảy xuống thấp” [61, tr.143-145]. “ Cáo Tử cho rằng:
Cái bản tính của người chẳng nhất thiết là thiện hay ác, tự nơi người dùng
nó là thiện hay ác mà thôi. Ấy cũng như nước chẳng nhất định chảy về đâu,

hễ phía nào thông thì nó chảy về phía đó. Mạnh Tử bổ cứu thêm rằng: Cái
bản tính của người nhất định là thiện, giống như cái bản tính của nước là
nhất định chảy xuống thấp. Cho nên dẫu cho người ta chặn nghịch dòng của
nó thì nó có sức phản động để vượt khỏi chỗ ngăn bít nhằm tìm chỗ thấp
mà chảy xuống nữa. Chiếu theo đó nếu nhà cầm quyền thi hành chính sách
bạo ngược, thì bị cái sức phản động của cái tính bản thiện của dân chúng, ắt
dân chúng sẽ tung khỏi xiềng xích của nhà cai trị ấy mà nương
10


cậy vào nhà chính trị khác có nhân” [61, tr.145]. Ngoài ra, thuyết “Tứ
đoan” nổi tiếng trong thiên Công Tôn Sửu cũng là một nội dung quan trọng
của thuyết tính thiện. Theo đó, Mạnh Tử cho rằng, bản tính con người từ
khi sinh ra là do trời phú, cho nên vốn là thiện, bản tính của con người là
thiện, cũng như nước phải chảy xuôi ,từ chỗ cao xuống chỗ thấp. Người ta
không ai là bất thiện, cũng như không có loại nước nào là không chảy từ
chỗ cao chảy xuống chỗ thấp. Minh chứng cho nhận định này, trong sách
Mạnh tử, ông đã đưa ra hình ảnh đứa trẻ khi mới sinh ra vốn đã có tình cảm
quyến luyến với cha mẹ, lòng yêu mến anh chị em của mình, ai cũng động
lòng thương xót và muốn cứu đứa trẻ khi nhìn thấy nó sắp té xuống nước.
Cái tình cảm quyến luyến và động lòng thương xót ấy Mạnh Tử gọi là
“lương tri”, “lương năng”.
Trong sách Mạnh tử, khi Cáo Tử cho rằng điều nhân ái là do nơi
mình còn điều hợp nghĩa là do nơi ngoài thì Mạnh Tử đã bổ cứu rằng: điều
nhân và điều nghĩa cả hai đều do nơi tâm tính mình hết [61, tr.149]. Điều
này có nghĩa là, con người sống một cách tự giác, dù ở trình độ học vấn nào
hay tiêu chuẩn giá trị của họ là gì thì lúc nào họ cũng có ý niệm tự giác về
điều nên làm hay không nên làm một việc gì đó. Tính tự giác đó theo Mạnh
Tử thì đó là cái vốn sẵn có của con người, bao gồm: “trắc ẩn”, “tu ố”, “từ
nhượng”, “thị phi”: “Trắc ẩn chi tâm” (lòng thương xót mọi người), “Cung

kính chi tâm” (kính trên nhường dưới), “Tu ố chi tâm” (biết hổ thẹn), “Thị
phi chi tâm” (biết nhận ra điều phải trái) [61, tr151-152]. Các loại tự giác
thông qua các hình thức biểu hiện của nó trở thành nguồn gốc cho các đức
tính của con người. Song, Mạnh Tử cũng nhấn mạnh, “đoan” chỉ là điểm
khởi đầu, bản thân lòng tự giác đã bao chứa đầy đủ các đức tính, muốn cho
các đức tính được phát triển viên mãn thì phải có sự nỗ lực không ngừng
của lòng tự giác. Cụ thể: “Trắc ẩn chi tâm” chính nguồn gốc của đức Nhân,
“Tu ố chi tâm” là nguồn gốc của đức Nghĩa, “Cung kính chi tâm” là nguồn
gốc của đức Lễ, “Thị phi chi tâm” là nguồn gốc của đức Trí.
11


Tất cả các đức tính đều là cái vốn có của con người và đầy đủ trong “tâm”
của mỗi người. Công Đô Tử nói rằng: “Cáo Tử nói rằng bản tính người ta
không phân biệt thiện với bất thiện. Người khác lại nói: “Bản tính người ta
có thể làm điều thiện, cũng có thể khiến làm điều bất thiện. Vì thế, Văn
vương, Vũ vương dấy lên mà dân ham chuộng điều thiện, U, Lệ dấy lên,
mà dân ưa thích việc hung bạo. Người khác lại nói rằng có người bản tính
vốn thiện, cũng có người bản tính vốn bất thiện. Vì thế mà vua Nghiêu là
thánh quân lại có người tượng (độc ác làm dân), ông Cổ Tẩu làm cha lại có
con là ông Thuấn (hiếu hạnh),…Nay thầy dạy rằng: tính bản thiện, thì mấy
người kia đều nói sai hay sao?” Mạnh Tử đáp rằng: - Nếu xét bản tính phát
động ra ở mặt tình cảm, thì thấy mọi người đều có thể làm điều thiện, nên
ta mới nói bản tính vốn lành. Ôi nếu có kẻ làm điều bất thiện, có phải lỗi ở
bản chất của tính đâu. Lòng trắc ẩn ai ai cũng có, lòng tu ố ai ai cũng có,
lòng cung kính ai ai cũng có, lòng thị phi ai ai cũng có. Lòng trắc ẩn là đầu
mối của nhân, lòng tu ố là đầu mối của nghĩa, lòng cung kính là đầu mối
của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí vậy.Nhân, nghĩa, lễ, trí chẳng phải ở
ngoài đổ khuôn vào ta, mà ta có sẵn cả, chẳng qua không nghĩ tới mà thôi.
Vì thế người xưa mới nói “cầu thì được, bỏ thì mất” [61, tr.151-153].

Tuy nhiên, căn nguyên của giá trị nằm ở lòng tự giác là một chuyện,
song con người trong hoạt động kinh nghiệm của mình có phát huy được ý
thức giá trị hay không lại là một chuyện khác.
Tóm lại, theo quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh, bản tính con
người là thiện, có nguồn gốc từ trời, là cái bẩm sinh do trời phú cho. Nếu
con người biết nuôi dưỡng thiện đoan thì có thể trở thành bậc thánh nhân.
Nếu con người không biết nuôi dưỡng thiện đoan, để nó mai một đi thì sẽ
trở nên nhỏ nhen, ích kỷ.

12


1.1.2. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về vai trò của con
người.
Nho giáo Khổng - Mạnh nhìn nhận thế giới trong mối quan hệ tương
hỗ lẫn nhau, thế giới và vạn vật là một chỉnh thể thống nhất. Trong các mối
quan hệ thì Nho giáo Khổng - Mạnh đặc biệt quan tâm đến hai mối quan hệ
cơ bản: mối quan hệ giữa trời với người và mối quan hệ giữa con người với
xã hội, từ đó nêu bật lên vị trí, vai trò của con người trong thế giới, trong xã
hội. Khi đề cập về vấn đề vai trò con người, Nho giáo Khổng - Mạnh đã đặt
con người trong mối quan hệ với tự nhiên (trời, đất, vạn vật) và với xã hội
(biểu hiện trong quan hệ giữa người với người, con người với xã hội). Cụ
thể:
Thứ nhất: Vai trò của con người trong mối quan hệ với trời đất, vạn
vật.
Xuất phát từ quan điểm “vạn vật gốc ở trời” (Kinh Lễ), “Trời sinh ra
người…thì người phải lấy Trời làm gốc” (Kinh Thi) nên theo Nho giáo
Khổng - Mạnh, con người phải biết thực hành đúng “đạo trời”, “mệnh trời”
(biết mệnh trời thì chẳng có thể là người quân tử) [46, tr.562].
Bàn về trời và vai trò của trời đối với con người và xã hội, Nho giáo

Khổng - Mạnh đưa ra phạm trù Thiên mệnh. Mệnh của trời (Thiên mệnh) là
quyền uy, sự thể hiện của trời đối với vạn vật trong sự sinh thành, biến đổi
tức là cái đức, cái tính của con người,… đều là mệnh trời định sẵn không
thể cưỡng lại được. Theo Khổng Tử, “tri thiên mệnh” (biết mệnh trời) là
điều hết sức quan trọng. Đối với người quân tử “biết mệnh trời” là tiêu
chuẩn cơ bản và là yêu cầu cần phải có: “Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã”
(không biết mệnh trời thì chẳng có thể làm người quân tử). Khi đã biết
mệnh trời thì tất yếu phải sợ mệnh trời. Sợ mệnh trời là tiêu chuẩn cơ bản
để phân biệt quân tử (người có đạo đức, kẻ thống trị) với tiểu nhân (không
có đạo đức, kẻ bị trị) như Khổng Tử nói: “Người quân tử có 3 điều kính sợ:
sợ mệnh trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời dạy của thánh nhân, kẻ tiểu nhân
13


không biết mệnh trời nên không sợ, khinh nhờn bậc đại nhân, coi thường
lời dạy của thánh nhân” [59, tr.133].
Tiếp tục tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử đã nêu lên quan điểm: khi
con người biết mệnh Trời thì điều cơ bản là không được làm trái mệnh Trời,
mà phải suy nghĩ, hành động theo mệnh Trời, nếu không sẽ bị mắc tội với
Trời và bị Trời trừng phạt.
Rõ ràng, quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về vai trò của con
người trong mối quan hệ với trời về cơ bản là duy tâm, phản động. Trước
trời, con người chỉ là một lực lượng thụ động, nô lệ. Vai trò của con người
chỉ giới hạn, thu hẹp ở việc thực thi theo mệnh lệnh của trời.
Thứ hai: Vai trò của con người trong xã hội (biểu hiện chủ yếu trong
các quan hệ xã hội cơ bản)
Theo quan niệm của Khổng Tử, con người sống trong xã hội có 5
mối quan hệ cơ bản bao gồm: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn
bè.“Quân thần dã, phụ tử dã, phu phụ dã, con đệ dã, bằng hữu chi dao dã,
ngũ dã thiên hạ, chi đạt đạo dã” (năm mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ

chồng, anh em, bạn bè mà đã đạt được, chính là đạo đấy) [59, tr.188].
Với mỗi quan hệ ấy, Nho Giáo Khổng - Mạnh lại đưa ra những quy
phạm, những chuẩn mực đạo đức để ràng buộc, cột chặt con người vào
những mối quan hệ này, định rõ yêu cầu và trách nhiệm của con người với
con người trong gia đình và ngoài xã hội.
Hiểu theo nghĩa thông thường, đạo đức là một hình thái ý thức xã
hội bao gồm những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực xã hội, nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của
mình và sự tiến bộ xã hội. Chuẩn mực đạo đức là những nguyên tắc, quy
tắc đạo đức được mọi người thừa nhận trở thành những mực thước, khuôn
mẫu để xem xét, đánh giá và điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội.
Những quy phạm, chuẩn mực đạo đức mà Nho giáo Khổng - Mạnh đưa ra,
gộp lại thành đạo làm người. Thông qua những mối quan hệ này có
14


thể nhận thức rõ hơn quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về vai trò của
con người. Trong đó, vai trò của con người được đề cập nhiều nhất và được
quan tâm nhiều là ở trong ba mối quan hệ đầu tiên: vua - tôi, cha - con,
chồng - vợ.
Theo Nho giáo Khổng - Mạnh, để thực hiện tốt các mối quan hệ xã
hội thì con người cần phải có các phẩm chất đạo đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Hiếu, Trung, v.v…
Khi đề cập đến các chuẩn mực cần phải có của mỗi người trong các
mối quan hệ xã hội cơ bản, Mạnh Tử đã lên tứ đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí.
Bốn đức này theo ông là, khi con người vừa sinh ra đã có sẵn và nó có
nguồn gốc, đầu mối là lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi.
Trong từng mối quan hệ, Nho giáo Khổng - Mạnh lại đưa ra những chuẩn
mực đạo đức cụ thể để ràng buộc con người vào những mối quan hệ này.
Cụ thể:

Trong gia đình: Tuy Nho giáo Khổng - Mạnh đưa ra 3 mối quan hệ
(cha - con, chồng - vợ, anh - em) nhưng chỉ có hai mối quan hệ được
Khổng Tử và Mạnh Tử tập trung lý giải, đó là quan hệ cha - con, chồng vợ.
Quan hệ cha - con là một trong những mối quan hệ cơ bản của con
người, là tiền đề, điều kiện duy trì trật tự, tôn ti trong gia đình và nhằm góp
phần củng cố trật tự, kỷ cương xã hội. Theo đó, cha mẹ phải thương yêu,
dưỡng dục con cái, con cái phải chăm sóc, kính trọng cha mẹ. Người cha có
vai trò là bề trên của con cái, sinh ra con cái cho nên Khổng Tử coi trọng
đức “Hiếu”, tức là nhấn mạnh trách nhiệm, nghĩa vụ của con cái với cha
mẹ. Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử đã nhiều lần khẳng định, trong các việc
phụng sự thì phụng sự cha mẹ là trọng đại hơn hết, là gốc vậy. Và khi người
con đạt được đức hiếu đó mới là người có nhân, nghĩa, lễ, trí.
Quan hệ chồng - vợ được Nho giáo Khổng - Mạnh nhìn nhận là “phu
phụ hữu biệt”. Do vậy, vợ chồng phải có nghĩa với nhau. “Nghĩa” là chuẩn
15


mực đạo đức để ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ vợ - chồng với
nhau.Theo đó, chồng - vợ phải yêu thương và có trách nhiệm với nhau. Tuy
nhiên, người vợ (người phụ nữ nói chung), trong quan niệm của Khổng Mạnh có vị trí, vai trò thấp hơn so với người chồng, (người đàn ông nói
chung), do vậy nhìn chung Nho giáo Khổng - Mạnh coi trọng, đề cao vai
trò của người chồng so với người vợ.
Trong xã hội, Nho giáo Khổng - Mạnh đưa ra mối quan hệ vua dân, vua - tôi, quan - dân trong đó tinh thần chung của Nho giáo Khổng Mạnh là quan tâm tới mối quan hệ vua - tôi (quân - thần).
Khổng Tử đã từng nói: “Nếu vua thương yêu (nhân) bề tôi thì bề tôi
phải trung thành với vua”, còn Mạnh Tử thì cho rằng, nhà vua mà coi bề tôi
như chó ngựa thì bề tôi coi vua như giặc thù. Cả Khổng Tử và Mạnh Tử
đều đưa ra các quy phạm đạo đức Nhân, Nghĩa, Hiếu, Trung nhằm ràng
buộc trách nhiệm, nghĩa vụ lẫn nhau giữa vua và bề tôi. Vì vậy có thể nói,
quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về quan hệ vua - tôi ít nhiều có tính
nhân văn, nhân bản sâu sắc. Theo Nho giáo Khổng - Mạnh, vua là cha mẹ

(phụ mẫu) của dân nên vua phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức, phải yêu
thương dân, phải hợp lòng dân, phải nuôi dưỡng và giáo hóa dân…Có như
vậy, dân mới có đạo đức, mới có khuôn phép. Còn dân (bề tôi) thì phải có
đức “Trung”, đức “Hiếu” và hơn nữa là phải tận trung, tận hiếu với vua.
Trong một chừng mực nhất định, Nho giáo Khổng - Mạnh khi bàn về
quan hệ giữa vua - tôi, cụ thể là bàn về vai trò của dân đã đưa ra được
những quan niệm có yếu tố hợp lí khi coi dân có vai trò nhất định trong
việc sáng tạo của cải vật chất, sự hưng vong của triều đại, quốc gia. Tuy
nhiên, Nho giáo Khổng - Mạnh lại đề cao quá mức địa vị và vai trò của nhà
vua, của sự tu dưỡng đạo đức, sự giáo hóa dân của nhà vua. Do đó, mặc dù
đề cao vai trò con người như thế nào đi chăng nữa nhưng xét cho cùng,
quan niệm ấy về cơ bản là duy tâm, siêu hình và chủ yếu là nhằm duy trì,
bảo vệ trật tự, cơ cấu giai cấp của xã hội phong kiến đương thời.
16


Theo Nho giáo Khổng - Mạnh, con người có vị trí và vai trò quan
trọng vì vậy cần phải chú trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện con người.
Trong đó Nho giáo Khổng - Mạnh cho rằng, đạo đức là điều kiện, tiền đề
quan trọng nhất để hình thành, hoàn thiện con người, góp phần vào việc
củng cố, duy trì trật tự, kỉ cương xã hội. Tức là phải lấy những chuẩn mực
đạo đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Tín, Trí mà bổ hóa (đức hóa) ra toàn xã hội, phải
làm cho những chuẩn mực ấy trở thành những nguyên tắc để điều chỉnh
mọi hành vi của con người và các mối quan hệ xã hội của con người. Có
như vậy, mỗi người mới có đạo đức Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, mới bảo tồn
được tính thiện, trừ bỏ được tính ác và “gia mới tề, quốc mới trị, thiên hạ
mới bình”. Để đạt được những mục đích này, theo Nho giáo Khổng - Mạnh,
mỗi người phải “tu thân”, (tu dưỡng đạo đức). Mục đích của Nho giáo
Khổng - Mạnh là giáo dục, đào tạo con người hoàn thiện và nhằm xây
dựng, duy trì một xã hội có đạo đức, ổn định, thái bình. Vì vậy, Nho giáo

Khổng - Mạnh chú trọng đến vấn đề đạo đức mà ít bàn đến lợi ích vật chất.
Tuy nhiên, mặc dù đề cao Nhân, Nghĩa, Trí, Tín là những phẩm chất đạo
đức tối thượng của con người nhưng Nho giáo Khổng - Mạnh không tách
rời với vai trò của lợi (kinh tế, vật chất) đối với cái tối thượng đấy. Trong
sách Luận ngữ, ở nhiều chỗ cho thấy, Khổng Tử không coi việc làm giàu là
xấu, cũng không phản đối việc làm giàu. Chẳng hạn có chỗ ông nói: “Giàu
với sang, ai chẳng muốn nhưng nếu chẳng phải đạo mà được sang thì mọi
người quân tử chẳng thèm. Nghèo với hèn ai mà chẳng ghét nhưng nếu
chúng nó đến với mình mà mình chẳng lỗi đạo, thì người quân tử chẳng từ
bỏ”. Chỗ khác, Khổng Tử nói rõ thêm: “Như nước nhà yên trị mà mình
chịu phận bần cùng, đê tiện đó là sự xấu hổ. Còn như nước nhà loạn lạc mà
mình hưởng phần giàu sang, đó là điều xấu hổ”. Và theo Khổng Tử, “Đứng
trước điều nghĩa và lợi nếu phải chọn một, thì người quân tử chọn theo
nghĩa đức" [59, tr.55]. Xuất phát từ quan niệm như vậy, ông khuyên người

17


quân tử phải luôn chú tâm vào học đạo, mưu đạo, theo lễ…nhằm “tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”.
Đạo đức và giáo dục đạo đức cho con người còn có vai trò quan
trọng đối với việc duy trì trật tự, kỉ cương xã hội. Xuất phát từ quan niệm
cho rằng, gia đình là tế bào của xã hội, mọi sự rối loạn của xã hội đều từ rối
loạn trong gia đình mà ra, cho nên Nho giáo Khổng - Mạnh cho rằng, muốn
xã hội ổn định, có kỉ cương, có đạo đức thì trước hết gia đình phải có trật
tự, có đạo đức, sao cho “cha ra cha, con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng”.
Để đạt được điều đó, mỗi người phải “tu thân”, phải được giáo dục theo
những chuẩn mực, luân lý đạo đức của đạo cương thường. Như trong sách
Mạnh tử có chép lại việc Thuần Vu Khôn hỏi Mạnh Tử rằng, liệu có biện
pháp nào để cứu cho thiên hạ khỏi cảnh chìm đắm thì Mạnh Tử trả lời:

“Thiên hạ chìm đắm cần cứu vớt bằng đạo (nhân, nghĩa)…ông muốn dùng
tay không để cứu vớt thiên hạ hay sao”.Hay trong chương Luy Lâu sách
Mạnh tử có viết: “Gốc của thiên hạ là quốc gia, gốc của quốc gia là nhà,
gốc của và nhà là chính bản thân mình” (Thiên hạ chi bản tại quốc; quốc
chi bản tại gia; gia chi bản tại thân) [61, tr.12-13].
Như vậy có thể nói, theo quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh,
con người có vai trò hết sức quan trọng trong mối quan hệ với tự nhiên và
xã hội, vì vậy cần phải quan tâm tới việc giáo dục đạo đức cho con người,
nhằm xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người. Khi nhân cách con
người được hoàn thiện, con người sẽ phát huy được vai trò của mình. Do
đó, con người cần phải học tập, tu dưỡng đạo đức Nhân, Nghĩa, Lễ…ở mọi
lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Điều đó không chỉ là để có đạo đức, hoàn
thiện bản thân mình trở thành bậc quân tử (con người lí tưởng) mà rèn
luyện đạo đức con người mới góp phần vào việc giữ gìn trật tự, kỉ cương
gia đình, xã hội. Như Khổng Tử đã nói: “Người quân tử chẳng bao giờ rời
bỏ điều nhân, dù chỉ trong khoảng thời gian một bữa ăn, dẫu trong cơn vội
vàng hay trong lúc nghiêng ngả, chao đảo, người ấy vẫn ở với điều
18


nhân”[59, tr.52-53]. Không chỉ vậy, mà điều quan trọng hơn là, người quân
tử phải làm gương trong việc thi hành cái đức của mình và phải đem cái
đức đó giáo hóa mọi người: “Ta dạy tất cả mọi người không có phân biệt
địa phương hay giàu nghèo” [46, tr.101]. Xuất phát từ quan niệm như vậy,
ông khuyên người quân tử phải luôn chú tâm vào học đạo, mưu đạo, theo
lễ…nhằm “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Xuất phát từ quan niệm về bản tính con người và vị trí của con
người trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội, Nho giáo Khổng- Mạnh đã
đưa ra một số chuẩn mực đạo đức nhằm giáo dục, hoàn thiện nhân cách con
người để từ đó hướng tới duy trì trật tự, kỉ cương gia đình và xã hội. Và

mặc dù, Nho giáo Khổng - Mạnh đề cao vai trò của con người, đề ra các
chuẩn mực đạo đức mà con người cần phải thực hiện trong các mối quan hệ
gia đình và xã hội nhưng xét về thực chất, xét đến cùng đó là những quan
niêm duy tâm, siêu hình, chủ yếu nhằm mục đích duy trì, bảo vệ trật tự, cơ
cấu giai cấp của xã hội phong kiến và phục vụ địa vị, lợi ích của giai cấp
phong kiến thống trị.
1.2. Những chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tƣ tƣởng đạo đức
của Nho giáo Khổng - Mạnh.
Tư tưởng đạo đức của Nho giáo Khổng - Mạnh nói riêng và Nho
giáo nói chung được ra đời ở thời Xuân Thu do Khổng Tử sáng lập. Ông là
người có công hệ thống hóa và xây dựng thành một học thuyết hoàn chỉnh,
trong đó ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức. Theo ông, phải xây
dựng những quy tắc, chuẩn mực đạo đức để điều chỉnh hành vi của con
người trong xã hội. Sau khi Khổng Tử mất, Mạnh Tử là thế hệ học trò thứ
tư tiếp tục phát triển tư tưởng đạo đức của Khổng Tử.
Trải qua các thời kỳ lịch sử, mỗi nhà Nho có sự bổ sung, sắp xếp các
phẩm chất đạo đức đúng theo trật tự khác nhau. Nếu như Khổng Tử nhấn
mạnh đức cơ bản của con người là: Nhân, Trí, Dũng như ông nói “Trí,
Nhân, Dũng, tam giả thiên hạ chi đạt đức dã” (tức là, người có ba đức
19


Nhân, Trí, Dũng là thiên hạ có đạo đức) thì Mạnh Tử lại đưa ra tứ đức:
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí [61, tr.230]. Nho giáo Khổng - Mạnh tôn trọng và đề
cao các chuẩn mực đạo đức mà con người cần phải có trong các mối quan
hệ, các Nho sỹ dựa vào đó để phát ngôn và xử thế, vì vậy các phạm trù đạo
đức căn bản được duy trì và phát huy trong suốt thời kỳ phong kiến. Có thể
nói, các chuẩn mực đạo đức cơ bản theo quan điểm Nho giáo Khổng Mạnh bao gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Hiếu, Trung.
1.2.1 Đức Nhân
Chuẩn mực đạo đức đầu tiên, cơ bản nhất trong đạo cương thường là

Nhân (đức Nhân).Tất cả các phạm trù đạo đức khác đều xoay quanh phạm
trù Nhân.Theo Khổng Tử và học trò của ông, Nhân là chuẩn mực đạo đức,
là tiêu chuẩn cao nhất trong đạo lý làm người. Trong sách Luận ngữ, Khổng
Tử nhắc nhiều đến đức “Nhân”. Phàn Trì hỏi về “Nhân”, Khổng Tử trả lời
rằng, “nhân là yêu người” (Phàn Trì vấn nhân, Tử viết ái nhân) [59, tr.192].
Kế thừa tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử đã nói “Nhân giả ái nhân”
(Nhân là yêu người). “Chữ nhân (đức nhân) đồng với chữ nhân (người)
vậy: hễ làm người thì phải làm nhân. Nói cho hợp nghĩa, nhân tức là đạo
làm người” (Nhân giã giả, nhân giã. Hiệp nhi ngôn chi, đạo giã). [61,
tr.264-265]. Nếu như Khổng Tử cho rằng, người có đức “Nhân” sẽ không
phải lo lắng vì không sợ ai làm hại mình thì Mạnh Tử lại giải thích rằng,
đức nhân xuất phát từ tâm lý sẵn có của con người, đó là lòng trắc ẩn (lòng
thương xót cứu vớt người hoạn nạn). “Lòng trắc ẩn là đầu mối của điều
nhân” (trắc ẩn tri tâm, nhân chi đoan dã) [60, tr.107]. Vậy con người phải
làm thế nào để có đức nhân và đức nhân được biểu hiện như thế nào?
Thứ nhất: Con người cần phải hành động và hoàn thiện nhân cách
Nhân cách là khái niệm chỉ tư cách của con người chủ yếu về
phương diện đạo đức, là phương cách làm người của con người. Nhân cách
là sự xác định của chủ thể (con người) trong các mối quan hệ xã hội là phát
20


huy các phẩm chất của chủ thể đối với mọi người xung quanh, đó là xác
định tư cách của người có đức nhân.
Để đạt được đức nhân, Khổng Tử cho rằng, đối với mình phải “Khắc
kỉ phục lễ” (Sửa mình trở về với lễ là nhân) [59, tr.180]. Có nghĩa là, để
thành người nhân thì con người phải nghiêm khắc với mình, phải chiến
thắng mọi ham muốn tầm thường, xét việc gì thì không đem ý riêng của
mình vào mà phải theo lẽ phải, không quả quyết rằng điều đó là đúng,
không cố chấp và quên mình đi, không để cho cái ta làm mờ ám, không

hiếu thắng khoe khoang, không oán hận, không tham dục vọng.
Ngoài ra, “khắc kỉ” không chỉ biểu hiện ở lời nói mà quan trọng hơn
là biểu hiện ở việc làm, hành động. Trong sách Luận ngữ có chép: khi học
trò Tử Chương hỏi về đức nhân, Khổng Tử nói: “Năng hành ngũ giả ư thiên
hạ, vi nhân hỹ.Viết: Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất vũ, khoan tắc
đắc trúng, tín tắc nhân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử
nhân” (Hãy làm được năm đức tốt trong thiên hạ là người nhân. Đó là
Cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung kính thì không bị khinh nhờn, khoan
dung thì được mọi người mến, có chữ tín thì được mọi người tin cậy, cần
mẫn thì được công việc, nhiều ơn huệ thì dễ thu hút được lòng người)
[59.tr.272 -273].
Như vậy, đức nhân trước hết đối với bản thân mình thì phải “khắc
kỷ”.Tức là phải luôn tu sửa mình, phải giữ đạo, nhưng vượt lên trên tất cả
đức nhân còn là đối với mọi người phải cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Khổng
Tử gọi người có nhân là quân tử, trượng phu để đối lập với kẻ tiểu nhân.
Theo Khổng Tử, khi hành điều nhân còn phải biết thân sơ, trên dưới. Tư
tưởng này của Khổng Tử đã được Mạnh Tử tiếp thu. Điều này được nói đến
trong sách Mạnh tử, khi người tên là Đào Ứng hỏi Mạnh Tử rằng Thuấn
làm vua, Cao Dao làm quan tòa. Cổ Tẩu (Cha của Thuấn) giết người thì
phải xử lý như thế nào? Mạnh Tử trả lời: Thuấn làm thế nào ngăn chặn
được? Điều đó là có căn cứ. Đào Ứng ại hỏi rằng Thuấn phải làm như thế
21


×