ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VÕ MINH TUẤN
Ý THỨC ĐẠO ĐỨC
SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2004
4
MỤC LỤC
trang
Trang phụ bìa 2
Lời cam đoan 3
Mục lục 4
Danh mục chữ viết tắt 6
Mở đầu 7
Chương 1. Sinh viên và ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam 18
1. 1. Sinh viên và vai trò của sinh viên Việt Nam 18
1. 1. 1. Khái niệm sinh viên 18
1. 1. 2. Đặc điểm của sinh viên Việt Nam hiện nay 19
1. 1. 3. Vai trò của sinh viên Việt Nam trong đời sống xã hội 31
1. 2. Ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam 38
1. 2. 1. Ý thức đạo đức sinh viên- bộ phận của
ý thức đạo đức xã hội 38
1.2. 2. Đặc điểm ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam 50
Chương 2. Thực trạng và xu hướng vận động ý thức đạo đức
sinh viên Việt Nam hiện nay 59
2.1. Thực trạng ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay 59
2. 1. 1. Những chuẩn mực đánh giá phẩm chất
ý thức đạo đức sinh viên 59
2. 1. 2. Mặt tích cực trong ý thức đạo đức
sinh viên Việt Nam hiện nay 64
2. 1. 3. Mặt hạn chế trong ý thức đạo đức
sinh viên Việt Nam hiện nay 72
5
2. 1. 4. Nguyên nhân của thực trạng ý thức đạo đức
sinh viên Việt Nam hiện nay 79
2. 2. Xu hướng vận động ý thức đạo đức sinh viên
Việt Nam hiện nay 94
2. 2. 1. Tiếp thu có chọn lọc các giá trị đạo đức truyền thống 96
2. 2. 2. Hướng đến sự hòa hợp với các giá trị đạo đức nhân loại 98
2.2. 3. Hướng đến tính cá nhân trong sự hòa hợp với cộng đồng 100
Chương 3.Những nguyên tắc, giải pháp xây dựng và phát triển
ý thức đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay 104
3. 1. Những nguyên tắc xây dựng và phát triển ý thức đạo đức mới
cho sinh viên Việt Nam hiện nay 104
3.1. 1. Những nguyên tắc chung 104
3.1. 2. Những nguyên tắc đối với sinh viên 106
3. 2. Những giải pháp xây dựng và phát triển ý thức đạo đức mới
cho sinh viên Việt Nam hiện nay 110
3.2. 1. Xây dựng môi trường đạo đức tốt đẹp 111
3. 2. 2. Nâng cao hiệu qủa công tác giáo dục đạo đức,
quản lý sinh viên 126
Kết luận 149
Danh mục công trình khoa học của tác giả liên quan đến luận án 154
Danh mục tài liệu tham khảo 155
6
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chính trị quốc gia: CTQG
Cộng sự: cs
Hà Nội: HN
Nhà xuất bản: NXB
Sự thật: ST
Thanh niên cộng sản: TNCS
Thành phố: TP
Trung ương: TƯ
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là nguồn nhân lực rất quan trọng trong sự phát triển
của mỗi quốc gia. Trong đó, sinh viên là tầng lớp ưu tú nhất, có tri
thức, luôn đi đầu trong mọi hoạt động của thanh niên. Không một quốc
gia nào không dành sự quan tâm đặc biệt đến tầng lớp này.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay, vai trò của sinh viên càng nổi bật, vì đây là nguồn nhân lực qúy
của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện từ năm
1986, chuyển từ nền kinh tế khép kín, tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một nền kinh
tế mở đang ngày càng hòa nhập tích cực vào qúa trình toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế, bộc lộ tính hai mặt (tích cực lẫn tiêu cực) ảnh hưởng
đến việc định hướng các giá trị tinh thần, đặc biệt là vấn đề đạo đức
của con người trong nền kinh tế chuyển đổi. Trong khi đó đạo đức-
một trong các hình thái ý thức xã hội, giữ vai trò hạt nhân trong việc
hình thành nhân cách, phẩm chất con người. Huỳnh Khái Vinh (2000)
nhận xét: “Tư tưởng, đạo đức và lối sống tạo nên thế chân kiềng của
xã hội” [189, 143].
Trong những năm vừa qua, nhân loại đã đạt được một loạt
những thành tựu khoa học công nghệ mới như chuyển đổi gen (GM),
nhân bản vô tính (cloning)- được đánh dấu bằng sự kiện cừu Dolly,
gây ra nhiều tranh cãi không chỉ về mặt khoa học mà về cả đạo đức.
Dưới tác động của khoa học công nghệ, con người ngày càng bị xã hội
8
hóa cao. Người ta phải đo phẩm giá của mình bằng sự khôn ngoan,
bằng khả năng thích ứng với một xã hội hiện đại đầy phức tạp. Công
nghệ thông tin phát triển và xâm nhập tới mọi lĩnh vực, tạo ra một xã
hội với những con người rời rạc, bị xáo trộn và phần nào tách biệt khỏi
giao tiếp cộng đồng trực tiếp. Thay vào đó là những hình thức giao
tiếp mới, giao tiếp gián tiếp- giao tiếp ảo, với sự hỗ trợ của khoa học
công nghệ. Con người hiện đại đang thay đổi. Đạo đức cũng đang thay
đổi.
Tất cả những điều đó hàng ngày hàng giờ tác động rất mạnh vào
ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay- đối tượng sinh ra và lớn
lên trong thời kỳ đổi mới với những thay đổi vô cùng mạnh mẽ, cả về
đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần của xã hội, và cũng là đối
tượng nhạy cảm nhất trước những biến chuyển này. Nhiều vấn đề bức
xúc đang nổi lên gay gắt của thực tiễn đổi mới hôm nay có liên quan
đến ý thức đạo đức sinh viên, bộc lộ sự phức tạp và đa dạng. Các giá
trị đạo đức vận động, thay đổi, bao hàm cả xu hướng tích cực lẫn
khuynh hướng tiêu cực. Nó đòi hỏi cần có một sự nghiên cứu tương
đối hệ thống và toàn diện, vừa góp phần vào tổng kết thực tiễn, vừa
tham gia giải quyết ở một mức độ nhất định những yêu cầu thực tế
đang đặt ra. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu ý thức đạo đức sinh viên Việt
Nam hiện nay từ góc độ triết học là điều vô cùng cần thiết, vừa có tính
lý luận, vừa có tính thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu khoa học xã hội và nhân
văn từng đề cập các vấn đề tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách sinh
9
viên như là đối tượng nghiên cứu. Bao gồm các đề tài và chương trình
nghiên cứu, các sách, những bài báo đăng trên các tạp chí khoa học,
các luận án phó tiến sĩ và tiến sĩ. Chúng tôi xin chia làm hai loại:
những công trình có đối tượng nghiên cứu liên quan gián tiếp đến đối
tượng nghiên cứu của đề tài luận án này (sinh viên với vấn đề tư
tưởng, nhân cách và lối sống), và những công trình có đối tượng
nghiên cứu liên quan trực tiếp đến ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam
thời kỳ đổi mới.
Trước hết, là những công trình nghiên cứu có liên quan gián
tiếp.
Mạc Văn Trang (1992) với bài “Những phẩm chất nhân cách
cần giáo dục cho sinh viên”, tạp chí Đại học và giáo dục chuyên
nghiệp (4), đưa ra một số yêu cầu về phẩm chất nhân cách của sinh
viên và phương hướng giáo dục. Đề tài khoa học Đặc điểm lối sống
sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối
sống cho sinh viên, do Mạc Văn Trang làm chủ nhiệm (1995), tập
trung nghiên cứu về lối sống của sinh viên, chỉ ra một số đặc điểm và
đề xuất các biện pháp giáo dục lối sống cho đối tượng này.
Dương Tự Đam (1994) trong bài “Hiện trạng tâm lý thanh niên
sinh viên thời kỳ mới”, tạp chí Thông tin khoa học thanh niên (5), đưa
ra những phân tích về diễn biến tâm lý của sinh viên trong tình hình
mới. Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam, luận án phó tiến sĩ khoa học triết học của cùng tác giả
(1996), phân tích khái niệm giá trị, thang giá trị, định hướng giá trị, đề
10
xuất những giải pháp nhằm xây dựng định hướng giá trị đúng đắn cho
sinh viên.
Trịnh Trí Thức (1994) trong luận án phó tiến sĩ khoa học triết
học Những nhân tố khách quan tác động đến tính tích cực xã hội của
sinh viên, tập trung vào việc làm rõ tính tích cực xã hội của sinh viên
cũng như các nhân tố khách quan tác động đến tính tích cực xã hội của
sinh viên trong thời kỳ đổi mới.
Những yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến những tư
tưởng chính trị của sinh viên, thực trạng và giải pháp, luận án phó tiến
sĩ khoa học triết học của Nguyễn Đình Đức (1996), nghiên cứu các yếu
tố tác động tư tưởng chính trị của sinh viên và đề xuất một số giải pháp
cơ bản nhằm định hướng giáo dục và bồi dưỡng tư tưởng chính trị cho
sinh viên.
Những biện pháp chủ yếu để phát huy tính tích cực của thanh
niên học sinh, sinh viên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, luận án phó tiến sĩ khoa học triết học của Nguyễn Thị
Phương Hồng (1996), nghiên cứu các biện pháp nhằm phát huy vai trò
xã hội của học sinh sinh viên hiện nay.
Tổng quan tình hình sinh viên, công tác Hội và phong trào sinh
viên Việt Nam (1993-1998), một khảo sát thực tế của TƯ Hội Sinh
viên Việt Nam (1998) về định hướng giá trị, lối sống, đạo đức và nhu
cầu của sinh viên trong giai đoạn từ năm 1993 đến 1998.
Phạm Văn Đồng (1999), Một số vấn đề cần quan tâm về giáo
dục đại học nước ta hiện nay, thể hiện cái nhìn khái quát về giáo dục
đại học được tích lũy qua nhiều năm kinh nghiệm hoạt động lý luận và
11
thực tiễn của tác giả, và nhấn mạnh đến yêu cầu về giáo dục đại học
phải gắn liền với triển khai ứng dụng và đào tạo nhân cách người sinh
viên mới.
Nguyễn Ánh Hồng với đề tài Nghiên cứu một số đặc trưng trong
đời sống tình cảm của sinh viên TP. Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay (2001), và các bài viết “Mấy nhận xét về lối sống của sinh viên
TP. Hồ Chí Minh” (2003), tạp chí Phát triển giáo dục (2), phân chia
sinh viên hiện nay thành ba loại căn cứ theo tính tích cực xã hội và thái
độ đối với học tập; “Quan niệm của sinh viên về vấn đề quan hệ tình
dục trước hôn nhân” (2003), tạp chí Tâm lý học (9), qua đó cho thấy
lối sống hướng đến tính cá nhân của sinh viên hiện nay thể hiện qua
những quan niệm về tình dục.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003) với Báo cáo tổng kết công tác
sinh viên giai đoạn 1998-2002, đánh giá tình hình sinh viên trong 4
năm gần đây, trong đó có những nhận định về vấn đề tư tưởng, đạo
đức, lối sống của sinh viên, mặt tích cực và hạn chế.
Có không nhiều những công trình khoa học trên thế giới liên
quan gián tiếp đến đề tài luận án, chủ yếu nghiên cứu về vai trò của
sinh viên với tư cách là một tầng lớp đặc biệt. Micheal W. Kelley
(1998) với The Impulse of Power: Formative Ideals of Western
Civilization (Sự thúc đẩy của quyền lực: Cấu trúc lý tưởng của nền văn
minh phương Tây). Tác giả cho rằng trường đại học là một hệ thống có
tính sáng tạo, đã tạo cơ hội để sinh viên hướng tới chuyên môn hóa về
nghề nghiệp. Steve Vivian (1999) với E- books: More than E- Hype
(Sách điện tử: hơn cả siêu điện tử), chỉ rõ đối tượng sử dụng loại sách
12
này chủ yếu là thanh niên, đặc biệt là sinh viên. Hình thành một “thế
hệ ngón tay cái” (the thumb- generation) vì quen dùng bàn phím, và
phương pháp tư duy theo đó cũng thay đổi. Richard W. Clement
(2000) với Books and Universities (Sách và trường đại học), phân tích
vai trò của sách trong các trường đại học trong tương quan với chủ thể
sinh viên. Bologna (Italia) là trường đại học đầu tiên trên thế giới được
thành lập năm 1119, tiếp đến là các trường Siena và Vincenza năm
1204. Sự ra đời của các trường đại học đã tạo ra sinh viên- “những
công dân đặc biệt” (special citizens).
Và tiếp đến, là những công trình có liên quan trực tiếp đến đối
tượng nghiên cứu của đề tài luận án- ý thức đạo đức sinh viên Việt
Nam hiện nay.
Trần Sỹ Phán (1996) qua bài “Sinh viên với định hướng giá trị
đạo đức”, tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp (3), đã đưa ra
một số đề nghị về việc định hướng giá trị đạo đức cho sinh viên. Cũng
tác giả này (1996) trong bài “Sinh viên với định hướng giá trị nhân
cách”, tạp chí Nghiên cứu lý luận (9), tập trung vào vấn đề định hướng
giá trị nhân cách của sinh viên. Với luận án tiến sĩ triết học Giáo dục
đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, Trần Sỹ Phán (1999) chủ yếu nghiên
cứu vai trò của công tác giáo dục đạo đức như là yếu tố quan trọng
nhất trong việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên.
Một số bài trên các tạp chí như “Định hướng giá trị đạo đức cho
sinh viên trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” của Nguyễn
Thế Kiệt (1997), Thanh niên (1); “Mục tiêu giáo dục đạo đức cho
13
thanh niên sư phạm hiện nay” của Hà Nhật Thăng (1997), Đại học và
giáo dục chuyên nghiệp (6); “Một số ý kiến về công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng cho sinh viên hiện nay” của Lương Minh Cừ (2003), Giáo
dục (60); “Quan niệm về sự chung thủy trong tình yêu của sinh viên
hiện nay” của Lê Thị Bừng (2003), Tâm lý học (6)- những nghiên cứu
có tính bước đầu về các khía cạnh biểu hiện cụ thể khác nhau liên quan
đến đạo đức sinh viên.
Trần Minh Đoàn (2002) trong luận án tiến sĩ triết học Giáo dục
đạo đức cho thanh niên học sinh theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước
ta hiện nay, căn cứ trên các tiêu chuẩn, nguyên tắc giáo dục đạo đức
cách mạng Hồ Chí Minh, đã đi sâu phân tích vai trò của việc giáo dục
đạo đức cho thanh niên sinh viên, và đề xuất một số biện pháp giáo
dục đạo đức cho đối tượng này.
Dương Văn Duyên (2003) với bài viết “Đạo đức học mácxít với
việc giáo dục đạo đức sinh viên hiện nay ở nước ta”, trong Học thuyết
Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, sau khi sơ lược tình hình đạo
đức sinh viên, đã đề xuất một vài ý kiến về việc giáo dục đạo đức cho
sinh viên.
Trương Văn Phước (2003)- chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa
học đặc biệt cấp Đại học Quốc gia HN Đạo đức sinh viên trong qúa
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam- thực trạng, vấn đề và giải pháp, bước đầu phân tích
những tác động tích cực và tiêu cực của kinh tế thị trường với đạo đức
sinh viên, đề xuất các giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế
14
tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với đạo đức sinh viên hiện
nay.
Tháng 6-2003, một hội thảo khoa học- thực tiễn với chủ đề
Thanh niên học tập và hành động theo tư tưởng Hồ Chí Minh, do Ban
Tư tưởng- Văn hóa TƯ và TƯ Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phối hợp tổ
chức, có một số báo cáo đề cập đến thực trạng đạo đức và việc giáo
dục đạo đức cho thanh niên sinh viên hiện nay.
Trung Quốc có công trình Tu dưỡng đạo đức tư tưởng do La
Quốc Kiệt (2003) chủ biên, đề cập một cách tương đối toàn diện đặc
điểm của sinh viên Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay, tầm quan
trọng cũng như một số biện pháp chủ yếu của việc giáo dục tư tưởng
đạo đức cho sinh viên Trung Quốc, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Ngoài ra, còn một số công trình khác có liên quan ít nhiều, được
trích dẫn trong luận án và chỉ rõ ở phần danh mục tài liệu tham khảo.
Những công trình trên đây, hoặc là nghiên cứu các yếu tố tác
động đến sinh viên và vấn đề định hướng giá trị, lối sống; hoặc là
nghiên cứu một hình thái ý thức xã hội (đạo đức, chính trị) biểu hiện ở
sinh viên nhưng nghiêng theo hướng giáo dục đạo đức, tư tưởng và
nhân cách; hoặc là nghiên cứu vai trò và sự biến đổi của tri thức gắn
liền với trường đại học trong đời sống xã hội hiện đại. Nhìn chung,
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về ý thức
đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay dưới góc độ triết học, với tư cách
là một hình thái ý thức xã hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội và
trong tương quan với các hình thái ý thức xã hội khác. Vì thế, chúng
15
tôi chọn vấn đề Ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay làm đề tài
nghiên cứu của luận án.
3. Mục đích, nhiệm vụ
3. 1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng ý thức đạo đức sinh viên Việt
Nam hiện nay, đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần xây dựng và
phát triển ý thức đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam, đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới.
3. 2. Nhiệm vụ
Luận án có các nhiệm vụ chính như sau:
- Làm rõ vị trí, vai trò và đặc điểm của sinh viên Việt Nam,
phân tích khái niệm, kết cấu và đặc điểm ý thức đạo đức sinh viên Việt
Nam hiện nay.
- Khảo sát thực trạng ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện
nay, các yếu tố tác động, từ đó dự báo một số xu hướng vận động chủ
yếu trong ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần xây dựng và
phát triển ý thức đạo đức mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay, phù
hợp với yêu cầu của thời kỳ đổi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. 1. Đối tượng
Nghiên cứu ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay.
4. 2. Phạm vi
16
Được giới hạn ở hai yếu tố sau:
- Về mặt khách thể: nghiên cứu thực trạng và xu hướng vận
động ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam (hệ chính quy tập trung dài
hạn).
- Về mặt thời gian: là thời kỳ đổi mới, tính từ 1986 đến nay, đặc
biệt là trong những năm gần đây. Đây là thời kỳ xuất hiện những biến
đổi sâu sắc về cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần của xã hội
nói chung và giới trẻ, trong đó có sinh viên, nói riêng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5. 1. Cơ sở lý luận
Luận án lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội; về sự tác động qua lại giữa các
hình thái ý thức xã hội, trong đó có ý thức đạo đức; về vị trí và vai trò
của thanh niên, trong đó có sinh viên, làm cơ sở lý luận khoa học cho
việc nghiên cứu.
Luận án cũng tham khảo, kế thừa những kết qủa nghiên cứu của
các công trình đã công bố có liên quan đến đề tài.
5. 2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của
triết học Mác- Lênin, đặt đối tượng nghiên cứu trong một hoàn cảnh xã
hội xác định với tất cả những mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau,
xem xét vấn đề trong tiến trình vận động và phát triển có tính lịch sử-
cụ thể. Các phương pháp phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử sẽ
17
giúp cho việc tiếp cận đối tượng tương đối sâu sắc và toàn diện. Bên
cạnh đó, luận án sử dụng phương pháp xã hội học thực nghiệm, khảo
sát đối tượng thông qua việc định lượng (phiếu hỏi, quan sát trực tiếp)
và định tính (phỏng vấn sâu, quan sát tham gia).
Các phương pháp trên được sử dụng kết hợp, có tác dụng hỗ trợ
và bổ sung lẫn nhau, sự phân tách trên đây chỉ có ý nghĩa tương đối.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Đây là công trình nghiên cứu tương đối có tính hệ thống về ý
thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay dưới góc độ triết học, đưa ra
cái nhìn khái quát về ý thức đạo đức sinh viên- đối tượng đóng vai trò
quan trọng trong qúa trình xây dựng và phát triển đất nước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7. 1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần nghiên cứu, bước đầu tổng kết thực tiễn về sự
vận động biến đổi của ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới.
7. 2. Ý nghĩa thực tiễn
Ở một mức độ nhất định, luận án sẽ góp phần cung cấp một số
luận cứ khoa học trong việc xây dựng đường lối chính sách giáo dục
đạo đức mới xã hội chủ nghĩa cho sinh viên, phù hợp với yêu cầu mới
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận án cũng
có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy cũng như
nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến sinh viên.
8. Kết cấu của luận án
18
Luận án gồm 3 chương, 6 tiết và các tiểu mục, không kể phần
mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
19
Chương 1
SINH VIÊN VÀ
Ý THỨC ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN VIỆT NAM
1. 1. Sinh viên và vai trò của sinh viên Việt Nam
1. 1. 1. Khái niệm sinh viên
Đã có những tài liệu đưa ra các khái niệm cho thuật ngữ “sinh
viên”, về cơ bản đã đề xuất được một số tiêu chí để xác định đối
tượng.
Theo từ điển Oxford (1995), thuật ngữ student được giải thích
như sau: “(a) một người, thường ở độ tuổi trên 16, đang theo học ở
một trường đại học hoặc cao đẳng. (b) một thiếu niên nam hoặc nữ ở
trường phổ thông” [205, 1187]. Thông thường, trong tiếng Anh, thuật
ngữ student được dùng chung cho cả hai bậc học đại học và phổ thông,
nhưng khi cần phân biệt thì student được dùng với nghĩa sinh viên, còn
học sinh phổ thông được gọi là pupil, và để xác định giới tính người ta
dùng thuật ngữ schoolboy (học sinh nam), schoolgirl (học sinh nữ).
Trung Quốc gọi sinh viên là đại học sinh, tức là học sinh ở bậc đại
học, hay là học sinh bậc cao, bậc trên. Từ điển tiếng Việt (2001) xếp
“sinh viên” vào danh từ, và định nghĩa là “người học ở bậc đại học”
[187, 860]. Bậc đại học ở đây, theo quy định của Luật Giáo dục, bao
gồm đại học và cao đẳng.
Một tài liệu của TƯ Hội Sinh viên Việt Nam (1998) thì định
nghĩa: “sinh viên Việt Nam là công dân Việt Nam đang theo học tại
các trường đại học, cao đẳng trong và ngoài nước” [178, 7]. Theo Quy
20
chế công tác học sinh, sinh viên trong các trường đào tạo của Bộ Giáo
dục và Đào tạo (1993) thì “người đang học trong hệ đại học và cao
đẳng gọi là sinh viên” [13, 6].
Trương Văn Phước (2003) định nghĩa sinh viên: “nhìn chung
được hiểu đó là một nhóm xã hội đặc biệt, xét về độ tuổi, thường được
xác định đó là nhóm thanh niên tuổi từ 17-18 đến 25-30, đã tốt nghiệp
phổ thông trung học, đang được đào tạo tại các trường đại học, cao
đẳng” [142, 18].
Nhìn chung, các định nghĩa trên hoặc là đưa ra ba tiêu chí: tuổi,
trình độ và lĩnh vực hoạt động; hoặc là đưa ra một tiêu chí: lĩnh vực
hoạt động. Tuy nhiên, có một thực tế là cùng với sự đa dạng hóa các
loại hình đào tạo ở bậc đại học và sự tăng lên không ngừng nhu cầu
được đào tạo của con người, đang xuất hiện những sinh viên ít tuổi (độ
tuổi thiếu niên), nhiều tuổi (độ tuổi trung niên và trên trung niên)- điều
tương đối phổ biến ở các nước phát triển, và hiện nay cũng đã xuất
hiện ở nước ta. Với bậc học này, trên thế giới và Việt Nam hiện có
nhiều hệ đào tạo: hệ tập trung dài hạn, hệ từ xa, hệ vừa học vừa làm
(tại chức), hệ bằng hai, với nhiều loại hình trường: công lập, bán
công, dân lập, tư thục, cộng đồng, phù hợp với các nhu cầu đa dạng
khác nhau của người học.
Vì thế, theo chúng tôi, khái niệm sinh viên ở đây được hiểu theo
nghĩa chung nhất, là tất cả những ai đã tốt nghiệp trung học phổ thông
hoặc tương đương, đang theo học tại các trường đại học và cao đẳng,
thuộc mọi loại hình đào tạo.
1. 1. 2. Đặc điểm của sinh viên Việt Nam hiện nay
21
Là một tầng lớp xã hội, sinh viên trước hết mang những đặc
điểm chung của con người, mà theo Mác thì “Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ
xã hội” [101, 11]. Do mục tiêu của luận án nên chúng tôi không đi sâu
phân tích đặc điểm chung này, mà tập trung vào những đặc điểm riêng
của sinh viên hiện nay.
Hầu hết sinh viên ở độ tuổi thanh niên, là một bộ phận của thanh
niên, cho nên họ cũng có những đặc điểm của thanh niên như trẻ, khá
nhạy cảm với cái mới, hình thành một kiểu giao tiếp gián tiếp trong
một môi trường ảo.
Trước hết, đó là trẻ. Theo định nghĩa của Liên hợp quốc (2003),
“thanh niên là những người trong độ tuổi từ 15 đến 24” [19, iii]. Về
mặt số lượng “trên thế giới hiện có khoảng hơn 1 tỉ thanh niên.
Khoảng 85 phần trăm số người này sống ở các nước đang phát triển và
tới năm 2020, tỉ lệ này sẽ đạt 89 phần trăm” [19, 1]. Theo số liệu của
Vụ Dân số- Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, hiện Việt Nam có
15,5 triệu thanh niên trong độ tuổi 15-24, chiếm 19,4% dân số. Liên
hợp quốc (2003) trong Thông điệp của mình nhân Ngày quốc tế thanh
niên 12-8-2003 thì cho biết, Việt Nam hiện có 16 triệu thanh niên
trong tổng dân số 80 triệu người. Riêng bộ phận sinh viên, thống kê từ
một cuộc điều tra cho biết, số sinh viên tốt nghiệp năm 1999 từ 51
trường đại học và cao đẳng tại Việt Nam có cơ cấu độ tuổi như sau: 23
tuổi chiếm 38%, 22 tuổi chiếm 32%, trên 23 tuổi chiếm 25% và dưới
22 tuổi chiếm 5% [34, 16]. Theo đó, tỉ lệ từ 23 tuổi trở xuống trong
tổng số sinh viên là 75%.
22
Nhưng khi xem xét đặc điểm trên, cũng cần lưu ý đến một
ngoại lệ đang xuất hiện ngày một nhiều trên thế giới cũng như ở Việt
Nam, điều mà trong những công trình nghiên cứu trước đây về sinh
viên đã không đề cập: đã và đang có một số sinh viên ít tuổi (trường
hợp sinh viên Sho Yano 12 tuổi, đang theo học năm thứ nhất ngành Y
tại trường Đại học Chicago- Mỹ, năm 2003), và nhiều tuổi đang theo
học hệ chính quy dài hạn ở các trường đại học và cao đẳng. Tại nước
ta, chưa có trường hợp sinh viên ít tuổi, nhưng đã có những sinh viên
nhiều tuổi, tiêu biểu như trường hợp sinh viên Cao Giang Sơn 66 tuổi
(2003) theo học lớp 060A1 khoa Công nghệ tin học tại Viện Đại học
Mở HN, sinh viên Phan Văn Chánh 44 tuổi (2003) theo học khoa Thủy
sản khóa 24 trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, sinh viên
Nguyễn Thành Công, 41 tuổi (2003) năm thứ 5 trường Đại học Mỹ
thuật TP. Hồ Chí Minh. Với hệ đào tạo vừa học vừa làm, tình hình này
càng phổ biến. Trên thực tế, không có một hạn chế nào về độ tuổi của
sinh viên, việc quyết định đi học ở tuổi nào là quyền của mỗi người. Vì
thế, nói một cách chính xác, thì hầu hết sinh viên đều đang ở độ tuổi
thanh niên.
Do đặc điểm trẻ này mà theo Trần Thị Thìn (2003), sinh viên là
những người có tốc độ trí nhớ nhanh, khả năng chú ý tốt, ngôn ngữ và
tư duy logic phát triển trên cơ sở đặc điểm não bộ và các giác quan của
lứa tuổi; phát triển cao năng lực tình cảm đạo đức và thẩm mỹ, tính
cách hình thành và có xu hướng dần ổn định, có tính độc lập và chịu
trách nhiệm với hành vi của mình [154, 12].
Một đặc điểm tiếp theo là thanh niên, trong đó có sinh viên, là
đối tượng khá nhạy cảm với cái mới, ham thích cái mới và dễ tiếp thu
23
cái mới, thể hiện rõ nét trong các lĩnh vực liên quan đến khoa học công
nghệ, kỹ thuật mới. Căn cứ trên đặc điểm này mà các nhà sản xuất, đặc
biệt là sản xuất hàng tiêu dùng, đã không ngừng nghiên cứu, cải tiến
mẫu mã, tính năng và chất lượng sản phẩm để thu hút số lượng lớn
khách hàng tiêu thụ là thanh niên. Bên cạnh đó, là các trào lưu ca nhạc,
mốt thời trang, cũng liên tục thay đổi, cuốn theo nhiều thanh niên
tham gia một cách hào hứng.
Do đó, thanh niên, trong đó có sinh viên, là những người tương
đối năng động và sáng tạo, thích tìm kiếm những sự thay đổi và không
ngừng thay đổi. Thanh niên không còn là đứa trẻ, nhưng cũng chưa
thật sự là người trưởng thành. Ranh giới phân biệt lứa tuổi thanh niên
với thiếu niên thể hiện ở sự tương đối độc lập về mặt thể xác và xúc
cảm đối với cha mẹ, thoát khỏi sự phụ thuộc và tự ý thức về trách
nhiệm mới của mình. Họ bắt đầu hướng đến những chân trời mới, háo
hức với mọi thay đổi mới mẻ. Trong qúa trình đó, thanh niên một mặt
tiếp thu những cái mới thật sự và tốt đẹp, một mặt có thể du nhập thiếu
chọn lọc cả những cái tưởng là mới nhưng thực tế đã lỗi thời không
phù hợp. Xuất hiện những mâu thuẫn tâm lý- xã hội trong con người
thanh niên: có xu hướng tự lập nhưng vẫn có sự phụ thuộc nhất định
vào gia đình, có nhu cầu cao về nhiều mặt nhưng khả năng thực tế có
hạn, ước mơ phong phú nhưng việc hiện thực hóa lại hạn chế. Gunter
(2002) cho rằng: “lứa tuổi thanh niên được nhất trí xem là một giai
đoạn cuộc sống đặc biệt quan trọng, đồng thời đầy xung đột giữa thời
kỳ thơ ấu và tuổi trưởng thành” [52, 783].
Đồng thời, đối tượng này cũng rất nhạy cảm với các vấn đề
chính trị- xã hội, thể hiện sự tích cực gia nhập vào đời sống kinh tế-
24
chính trị- xã hội. Họ luôn hăng hái đi đầu trong các hoạt động chính
trị- xã hội. Mỗi một thay đổi trong các lĩnh vực này đều tác động
nhanh và mạnh đến thanh niên. Đôi khi, sự nhạy cảm này nếu không
được định hướng đúng, sinh viên sẽ dễ bị lôi kéo và kích động nhất
thời.
Một đặc điểm nữa rất đáng chú ý đang xuất hiện trong những
người trẻ hôm nay, đặc biệt ở sinh viên, đó là sự hình thành một kiểu
giao tiếp gián tiếp trong một môi trường ảo. Liên quan đến sự phát
triển của công nghệ thông tin với tư cách một cuộc cách mạng, là
những ứng dụng kỹ thuật đã ra đời và ngày càng lan rộng, như internet
(mạng toàn cầu), forum (diễn đàn trên mạng), chat (trò chuyện trực
tuyến), ICQ (nhắn tin và trò chuyện toàn cầu), e-mail (thư điện tử).
Các tiện ích này đã nối dài phạm vi liên kết, tăng cường nhịp độ, mở
rộng không gian hữu ích và rút ngắn thời gian vô ích khi giao tiếp. Sự
di chuyển và gặp gỡ trực tiếp không còn là phương thức duy nhất để
giao tiếp. Con người vì thế sống một phần trong môi trường ảo, và cái
hiện thực ở đây một phần là cái hiện thực ảo. Điều này đang tác động
trực tiếp đến lối sống và cách nghĩ của mọi tầng lớp, nhất là thanh niên
trong đó có sinh viên.
Là một bộ phận đặc thù của thanh niên, nên sinh viên Việt Nam
bên cạnh những đặc điểm chung của thanh niên đã nêu trên, còn mang
những đặc điểm riêng của mình, được quy định bởi môi trường sống
và học tập. Đó là có trình độ văn hóa tương đối cao, chịu ảnh hưởng
của tâm lý nhóm có tính học thuật và nghề nghiệp. Bên cạnh đó, sinh
viên hiện nay cũng có những đặc điểm khác với sinh viên thời kỳ trước
25
đổi mới. Một nhóm tác giả (1998) đã đưa ra 5 đặc điểm của sinh viên
như sau:
- Là những người đã tốt nghiệp phổ thông trung học, bổ túc
trung học hoặc trung học chuyên nghiệp đang trong qúa trình
học tập, chuẩn bị nghề nghiệp chuyên môn tại các trường đại
học, cao đẳng; - Là nhóm xã hội đặc biệt gồm những thanh niên
xuất thân từ các tầng lớp xã hội khác nhau; - Là lớp người năng
động, luôn nhạy cảm và sẵn sàng tiếp thu cái mới; - Tính tích
cực xã hội, tính tự lập, độc lập và nhu cầu tự khẳng định phát
triển khá cao; - Đối với xã hội nói chung và thanh thiếu niên nói
riêng, sinh viên là một nhóm xã hội được ngưỡng mộ và quan
tâm [178, 7-8].
Luận điểm này đã vạch ra được một vài đặc điểm của sinh viên,
nhưng đôi chỗ còn nghiêng về cảm tính, đi vào định nghĩa khái niệm
“sinh viên” hơn là chỉ ra bản chất xã hội của nhóm này.
Đặc điểm có thể dễ dàng nhận thấy đầu tiên ở sinh viên, đó là có
trình độ văn hóa tương đối cao, vì đều đã tốt nghiệp bậc trung học
phổ thông, trung học bổ túc hoặc tương đương và đang theo học đại
học, cao đẳng. Theo quy chế tuyển sinh đại học và cao đẳng, chỉ
những người đã tốt nghiệp bậc học trung học phổ thông, trung học bổ
túc hoặc tương đương mới đủ điều kiện dự tuyển vào bậc cao hơn là
đại học và cao đẳng.
Do theo học đại học và cao đẳng, chuẩn bị những kỹ năng nghề
nghiệp cho tương lai, nên ở sinh viên hình thành các định hướng giá trị
xã hội liên quan đến nghề nghiệp, hình thành xu hướng cũng như một
26
số phẩm chất nghề nghiệp. Các năng lực trí tuệ, thể chất vì thế được
phát triển theo một định hướng, phụ thuộc vào cá nhân sinh viên và
ngành nghề theo học.
Gần đây, người ta ngày càng chú ý đến việc nghiên cứu những
đặc trưng và tác động của tâm lý nhóm lên mỗi thành viên, đặc biệt
trong xã hội hiện đại với quy mô và tốc độ giao tiếp ngày một cao. Nói
chung, mỗi cá nhân trong xã hội, tự giác hoặc không, đều thuộc về một
nhóm nào đó, tương đối ổn định hoặc thường xuyên thay đổi. Là một
tầng lớp xã hội đặc biệt, sinh viên chịu ảnh hưởng của tâm lý nhóm
có tính học thuật hướng đến nghề nghiệp chuyên môn - cộng đồng
mà họ gia nhập với tư cách thành viên ở mỗi trường đại học và cao
đẳng. Chưa có công trình nào nghiên cứu về đặc điểm này, vì thế
chúng tôi muốn dừng lại ở đây lâu hơn.
Các nghiên cứu của hai nhà xã hội học người Pháp về bản sắc xã
hội dưới góc độ nhóm là Taspen (2000) và Turnez (2001), đã đưa đến
kết luận: tính nhóm phụ thuộc vào môi trường xã hội xung quanh
chúng ta đang sống. Taspen thực hiện lặp đi lặp lại một test (kiểm tra,
đánh giá) “Tôi là ai?” với những nhóm khác nhau, trong đó đưa ra
những câu hỏi có tính cá nhân (họ tên, nghề nghiệp, sở thích, gia đình),
để rồi đều nhận được những phản ứng giống nhau về mặt cấu trúc:
những người được hỏi trước hết đưa ra các yếu tố liên quan đến thành
phần xã hội của mình, chỉ rõ “tôi thuộc về nhóm nào”, sau đó mới
cung cấp các thông tin cá nhân. Tỉ lệ cấu trúc này lên tới trên 90%
trong các test. Turnez phát triển lý thuyết tự phân loại bản thân, đưa ra
ba cấp độ tự đánh giá của mỗi cá nhân: liên cá nhân (giữa tôi với anh-
có sự phân biệt), giữa hai nhóm (chúng tôi và các anh- sự phân biệt
27
tăng lên), giữa các giống loài (con người và con vật- rất phân biệt). Rõ
ràng là khi phân loại với cấp độ nhóm, sự phân biệt tăng dần lên. Cá
nhân khi ở trong một nhóm sẽ xuất hiện hiện tượng thay đổi điểm tựa:
không phải là cá nhân, mà nhóm sẽ là điểm tựa cho mỗi cá nhân.
Khi nghiên cứu về các đặc trưng của nhóm, Đỗ Long (2001) cho
rằng tính tích cực của cộng đồng được khẳng định như một thuộc tính
bao trùm, đóng vai trò liên kết mọi hiện tượng nhóm: hoạt động nhóm,
giao tiếp nhóm, hành động nhóm, ứng xử nhóm, quan hệ trong nhóm
và liên nhóm [98, 3]. Thuộc tính này ảnh hưởng đến các thành viên
của nhóm và tạo nên đặc trưng phân biệt các nhóm. Tính nhóm được
hình thành dựa trên các giao tiếp cá nhân với cá nhân và cá nhân với
nhóm. Trần Trọng Thuỷ (2002) dẫn ý kiến của B. Đ. Parưghin (1967)
về vấn đề này: “Chính bầu không khí của các mối quan hệ, của các ảnh
hưởng và sự tác động qua lại trong qúa trình giao tiếp mới là nhân tố
hùng mạnh của sự hình thành nhân cách và các mối quan hệ trong
nhóm” [161, 14].
Những người trẻ luôn có xu hướng mở rộng các mối quan hệ,
đặc biệt là những quan hệ đồng đẳng, cùng nhóm. Cá nhân sinh viên
không tách rời môi trường sinh hoạt và học tập của mình, và là thành
viên của một nhóm nhất định (trong một lớp, một khoa, một khóa học,
một trường). Mỗi nhóm có một đặc trưng tâm lý của mình, phụ thuộc
vào môi trường sống và đặc điểm của các thành viên làm nên nhóm.
Sinh viên đa phần theo học tập trung, cùng sinh hoạt trong một cộng
đồng học thuật, với những đặc điểm tâm lý tương đối đồng nhất. Vì
thế, mỗi một sinh viên, bên cạnh những ảnh hưởng khác, còn chịu ảnh
hưởng của tâm lý chung trong nhóm mà họ gia nhập. Nhóm ấy được