Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Những yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện bình đẳng dân tộc ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.78 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



-----

------

TRỊNH MINH THÁI

NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC

HIỆN
BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn:PGS.TS: Phan Thanh Khôi

Hà Nội – 2008


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC VÀ NHỮNG YẾU TỐ CƠ
BẢN ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Quan niệm chung về bình đẳng dân tộc


1.2. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến thực hiện bình đẳng dân tộc

CHƯƠNG 2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỐI VỚI CÁC YẾU TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY
2.1. Nhóm giải pháp về lãnh đạo, quản lý
2.2. Nhóm giải pháp về kinh tế - xã hội
2.3. Nhóm giải pháp về văn hóa - tư tưởng
KẾT LUẬN
PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề dân tộc đang trở thành vấn đề quốc tế, mang tính thời sự
nóng bỏng, là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến ổn định, an ninh
chính trị ở nhiều nước và khu vực trên thế giới. Đây cũng là vấn đề mà các
thế lực thù địch thường lợi dụng triệt để nhằm kích động sự trỗi dậy của
chủ nghĩa dân tộc cực đoan hiếu chiến, chủ nghĩa tộc người là trung tâm;
kích động sự ly khai, chia rẽ giữa các dân tộc, các tộc người trong phạm vi
quốc gia và quốc tế. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề dân tộc nói chung, bình
đẳng dân tộc nói riêng là một yêu cầu cấp thiết đang được đặt ra.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với 54 dân tộc anh em sống
trên khắp các vùng miền của đất nước. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định lập trường của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi thực hiện bình đẳng dân tộc là mục tiêu
cơ bản và là nội dung chủ yếu trong giải quyết vấn đề dân tộc. Đây là quá
trình lâu dài, khó khăn, phức tạp, là động lực và nhân tố quan trọng đảm

bảo cho xã hội ổn định và phát triển như nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X đã khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí
chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong
đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa”[14;121].


Những năm qua, mặc dù việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta
đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, toàn diện trên các lĩnh vực
song trên thực tế còn nhiều vấn đề tồn tại, cần đặc biệt quan tâm, giải quyết
như sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, xã hội, về các điều kiện
giáo dục, y tế, văn hóa… giữa các dân tộc còn khá xa. Thêm vào đó, các
thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng các vấn đề dân tộc, đặc biệt là vấn
đề thực hiện bình đẳng dân tộc để kích động đồng bào dân tộc thiểu số, gây
chia rẽ dân tộc nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng, ảnh hưởng đến sự
tồn vong của chế độ ta. Vì vậy, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo
vệ và phát triển đất nước, giải quyết tốt vấn đề dân tộc trong đó có thực
hiện bình đẳng dân tộc là đòi hỏi hết sức cấp bách hiện nay.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu một cách
sâu sắc các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực hiện bình đẳng dân tộc, để
từ đó có những giải pháp hiệu quả nhằm phát huy những ảnh hưởng tích
cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực góp phần thực hiện tốt hơn bình
đẳng dân tộc là nhiệm vụ về lý luận cũng như thực tiễn đối với các nhà
khoa học, các nhà hoạch định chính sách và các cán bộ làm công tác dân
tộc.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi chọn vấn đề: “Những yếu tố ảnh
hưởng đến thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
luận văn của mình.

2.


Tình hình nghiên cứu đề tài
nước ta, nhất là những năm gần đây, vấn đề dân tộc nói chung và

bình đẳng dân tộc nói riêng đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu và
đã có nhiều công trình được công bố. Trong đó có thể kể ra đây một số
công trình tiêu biểu sau đây:


Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp của
Trịnh Quốc Tuấn (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996). Trong cuốn sách
này, tác giả đã phân tích những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc; từ đó tìm hiểu
thực trạng tình hình dân tộc ở nước ta, sự phát triển không đồng đều giữa
các dân tộc; tìm hiểu nguyên nhân chênh lệch và nêu ra những giải pháp
nhằm góp phần từng bước khắc phục sự phát triển không đồng đều giữa
các dân tộc ở nước ta.
Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế – xã hội ở miền núi
của Bế Viết Đẳng (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996). Cuốn sách đề
cập đến quan điểm, đường lối, chính sách dân tộc; những vấn đề phong
phú, sinh động, nóng hổi và cấp bách về thực trạng phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi. Đồng thời
đưa ra những đề xuất cho việc hoạch định chính sách đối với các dân tộc
thiểu số miền núi trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta
hiện nay.
Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt
Nam của Nguyễn Quốc Phẩm – Trịnh Quốc Tuấn (Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 1999). Các tác giả của cuốn sách đã tập trung trình bày những vấn

đề lý luận, nhận thức về dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta. Đồng thời, các tác giả còn đề cập đến một số nội dung như: quản
lý xã hội, nội dung công tác cán bộ, đào tạo cán bộ trong chính sách dân
tộc hiện nay ở nước ta.
Về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta của Ủy ban Dân tộc
và Miền núi (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001). Các tác giả đã đề cập
đến nhiều vấn đề cơ bản trong vấn đề dân tộc, chính sách và công tác dân


tộc làm cơ sở định hướng và tài liệu bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ các
cán bộ làm công tác dân tộc, góp phần quán triệt chính sách và công tác
dân tộc của Đảng và Nhà nước, đáp ứng yêu cầu thực hiện thắng lợi Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng.
Miền núi Việt Nam – Thành tựu và phát triển những năm đổi mới của
Uỷ ban Dân tộc Trung ương, xuất bản năm 2002. Cuốn sách đã đưa ra
những thông tin chung về miền núi và thực trạng phát triển miền núi hiện
nay, đặc biệt đi sâu phân tích các vấn đề: Xoá đói giảm nghèo, bảo tồn các
giá trị văn hoá và bảo vệ môi trường, giúp cho việc tăng cường nhận thức
sâu sắc của xã hội về thành tựu cũng như cơ hội, thách thức, trở ngại trong
việc phát triển miền núi trước những biến đổi kinh tế – xã hội – môi
trường.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, tôn giáo, đại đoàn kết trong cách
mạng Việt Nam của Bộ Quốc phòng (Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội,
2003). Cuốn sách được chia làm hai nội dung lớn: vấn đề dân tộc và vấn đề
tôn giáo. Trong đó, các tác giả tập hợp những bài viết, những bài nói
chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, về vấn đề tôn giáo;
đồng thời, các tác giả cũng đưa ra những suy nghĩ, phân tích về tình hình
dân tộc, tôn giáo nói chung ở nước ta hiện nay, cũng như những vấn đề liên
quan đến bình đẳng dân tộc nói riêng.
Thực hiện chính sách dân tộc, vấn đề và giải pháp. (Kỷ yếu hội thảo

của Tạp chí Cộng sản – Uỷ ban Dân tộc, Hà Nội, 2004). Các bài viết đều
tập trung vào việc làm rõ những vấn đề như: quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách
dân tộc; thực trạng vấn đề dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc ở nước
ta trong những năm gần đây; đề xuất những giải


pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc ở nước ta trong thời gian
tới.
Một số vấn đề về dân tộc và phát triển của PGS.TS. Lê Ngọc Thắng Viện Dân tộc, Ủy ban Dân tộc (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005).
Trên cơ sở phân tích một số nội dung về vấn đề lý luận, chính sách dân tộc,
các vấn đề kinh tế, mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa trong phát triển;
vai trò của cơ quan công tác dân tộc và cơ quan hành chính các cấp trong
việc thực hiện chính sách dân tộc; đổi mới nội dung công tác dân tộc..., tác
giả đưa ra một vài ý kiến, gợi ý về hệ thống các vấn đề thuộc nội dung
công tác dân tộc nhằm góp phần nâng cao nhận thức về công tác dân tộc,
góp phần hoạch định tốt việc thực hiện chính sách dân tộc trong tình hình
mới.
Công bằng và bình đẳng xã hội trong quan hệ tộc người của các
quốc gia đa tộc người của PGS.TS Nguyễn Quốc Phẩm (Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2006). Trên cơ sở phân tích quan điểm Mác – Lênin và
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng, bình đẳng xã hội từ góc độ dân tộc
và quan hệ dân tộc, tác giả đã đánh giá về những vấn đề dân tộc và sự phát
triển của các quốc gia dân tộc trong bối cảnh và xu thế hiện nay của thế
giới nói chung; về công bằng, bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các tộc
người ở các vùng dân tộc, miền núi Việt Nam nói riêng. Trong đó tác giả
cũng phân tích một số yếu tố tác động đến việc thực hiện công bằng, bình
đẳng xã hội trong quan hệ tộc người ở nước ta hiện nay.
Ngoài các tác phẩm tiêu biểu kể trên, còn có rất nhiều bài trong các
tạp chí lý luận nghiên cứu về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc, thực hiện

bình đẳng dân tộc ở nước ta.


Trong các tác phẩm và bài viết đó, tuy ở chỗ này, chỗ kia có đề cập
đến các yếu tố tác động đến việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta
hiện nay, song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên biệt, có
hệ thống về vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
*

Mục đích: Phân tích một cách có hệ thống ảnh hưởng của một số

yếu tố cơ bản đến vấn đề bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay, từ đó đề
xuất cácgiải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực để thực hiện tốt hơn vấn đề bình đẳng dân tộc


nước ta.
*

Nhiệm vụ:

Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
-

Làm rõ khái niệm dân tộc, bình đẳng, bình đẳng dân tộc.

-

Xác định những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới việc thực hiện bình


đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay.
-

Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những yếu tố ảnh hưởng

tích cực, hạn chế những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực góp phần thực hiện tốt
hơn vấn đề bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay có nhiều vấn đề đặt ra trong việc thực hiện bình đẳng dân tộc
ở nước ta, nhưng luận văn này chủ yếu tập trung nghiên cứu những yếu tố cơ
bản ảnh hưởng đến việc thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc trong quốc gia
dân tộc Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu


Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ

-

nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về
vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc, bình đẳng dân tộc.
Cơ sở thực tiễn: tình hình dân tộc, bình đẳng dân tộc ở nước ta

-

trong những năm đổi mới vừa qua.
Luận văn có kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình trong và
ngoài nước có liên quan đến đề tài những năm gần đây.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương


-

pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch
sử; ngoài ra còn kết hợp một số phương pháp cụ thể của xã hội học như
điều tra, thống kê, so sánh.
6. Đóng góp mới của luận văn
Nêu ra và phân tích những yếu tố cơ bản ảnh hưởng (cả tích cực và

-

tiêu cực)đến thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay.
Đề xuất được một số giải pháp thiết thực nhằm phát huy những yếu

-

tố ảnh hưởng tích cực, hạn chế những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến việc
thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
7.
-

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Ý nghĩa lý luận: Góp phần vào nghiên cứu vấn đề bình đẳng dân tộc

nói chung mà trước hết là vấn đề bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
-

Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham


khảo cho giảng dạy và nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến dân tộc
và bình đẳng dân tộc.


8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
một số phụ lục, luận văn còn gồm 2 chương, 5 tiết.


Chương I

BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC VÀ NHỮNG YẾU TỐ CƠ BẢN ẢNH
HƯỞNG ĐẾN THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.1. Quan niệm chung về bình đẳng dân tộc
1.1.1. Khái niệm “dân tộc”, “bình đẳng”
-

Về khái niệm “dân tộc”

Khái niệm “dân tộc” đã được các nhà nghiên cứu thuộc nhiều ngành
khoa học khác nhau quan tâm, tuy nhiên, do đứng trên các quan điểm và
góc độ nghiên cứu khác nhau nên có khá nhiều định nghĩa về khái niệm
này.
“Dân tộc” theo từ gốc Latinh là “natio” có nguồn gốc từ chữ “nasei”
nghĩa là sinh ra. Mặt dù không được sử dụng đầy đủ ý nghĩa như ngày nay
nhưng từ cuối thời trung cổ khái niệm “dân tộc” đã được dùng rộng rãi ở
châu Âu. Nhiều nhà tư tưởng cách mạng tư sản châu Âu đã dùng khái niệm
“dân tộc” để chỉ cộng đồng nhân dân trong một quốc gia; không có vua và

quý tộc trong cộng đồng này; những thị dân và đẳng cấp thứ ba được xem
như thành phần chủ yếu của dân tộc. Như vậy, trong giai đoạn đó, khái
niệm “dân tộc” chủ yếu mang nội dung giai cấp, chưa trở thành một khái
niệm có tính học thuật.
Đến thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVII - XVIII), các nhà tư tưởng tư
sản là những người đầu tiên đưa ra các định nghĩa học thuật về dân tộc.
Theo Điđơrô (nhà tư tưởng người Pháp) thì dân tộc là một số lượng đáng
kể dân chúng sống trên phạm vi đất nước nhất định và tuân theo sự cai trị
của một chính phủ. Nghĩa là, dân tộc gắn với quốc gia và bao hàm quan hệ
chính trị (quan hệ với nhà nước) chứ chưa đề cập đến quan hệ cộng đồng
về kinh tế.


Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nhà lý luận tư sản lại phủ
nhận quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội mà nhấn mạnh yếu tố tinh thần và
yếu tố chủng tộc khi đề cập đến vấn đề “dân tộc”. So với các nhà tư tưởng
tư sản trước đây, các nhà tư tưởng tư sản thời kỳ này xem xét “dân tộc” ở
mức độ khái quát hơn. Tuy nhiên, trong những quan niệm của họ, “dân tộc”
chưa được quan niệm là hình thức cộng đồng người có tính lịch sử, họ chưa
thấy rõ cơ sở kinh tế - xã hội của sự hình thành và tồn tại của các dân tộc.
Mác và Ăngghen không đưa ra định nghĩa cụ thể nào về dân tộc, mặc
dù các ông nghiên cứu khá sâu và có những quan điểm rất khoa học về
những nội dung cơ bản và có liên quan đến vấn đề dân tộc.
Năm 1913, trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác và vấn đề dân tộc”,
Xtalin đưa ra định nghĩa: “Dân tộc là một hình thức cộng đồng người ổn
định, bền vững, hình thành trong quá trình phát triển lâu dài của lịch sử trên
một lãnh thổ nhất định, có chung các mối quan hệ về kinh tế, có chung một
ngôn ngữ, một nền văn hóa”[65;357].
Định nghĩa này đã chri ra được những đặc trưng chủ yếu của dân tộc,
nhưng lại quá nhấn mạnh yếu tố kinh tế (cộng đồng kinh tế), chưa coi trọng

nhân tố tộc người và yếu tố văn hóa, bản sắc văn hóa của dân tộc… Mặc dù
vậy, đây được coi là định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về “dân tộc”.


nước ta, “dân tộc” cũng chưa được quan niệm một cách thống

nhất. Ví dụ, theo Đại từ điển tiếng Việt, khái niệm “dân tộc” được hiểu theo
ba nghĩa:
1. Cộng đồng người ổn định hình thành trong quá trình lịch sử của xã
hội, có chung tiếng nói, lãnh thổ, đời sống kinh tế và tâm lý;
2.

Dân tộc thiểu số;


3.

Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, một

quốc gia gắn bó với nhau trong truyền thống, nghĩa vụ và quyền lợi [66,
520].
Trong Từ điển Bách Khoa Việt Nam, thì khái niệm “dân tộc” được
hiểu theo hai nghĩa là:
1.

Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là cộng đồng chính trị – xã

hội được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định,
ban đầu do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này của
nhiều cộng đồng mang tính tộc người (ethnic) của bộ phận tộc người. Một

cộng đồng dân tộc thường bao gồm nhiều cộng đồng người, với nhiều ngôn
ngữ, yếu tố văn hoá thậm chí nhiều chủng tộc khác nhau. Ngày nay, do
không gian xã hội được mở rộng mang tính toàn cầu, do phương tiện đi lại,
mỗi cộng đồng dân tộc lại có thêm nhiều bộ phận của các cộng đồng tộc
người tham gia, nên tình trạng dân tộc đa tộc người là phổ biến.
2.

Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc

người, thí dụ dân tộc Tày, dân tộc Bana, v.v.. Cộng đồng có thể là chủ thể
hay thiểu số của một dân tộc (nation) sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc
khác nhau được liên kết với nhau bằng những đặc điểm ngôn ngữ, văn hoá
và nhất là ý thức tự giác tộc người [56, 655].
Còn nhiều quan niệm khác nữa, nhưng tựu trung lại, dân tộc thường
được hiểu theo hai bình diện: dân tộc là cộng đồng tộc người và dân tộc
hiểu theo nghĩa rộng là cư dân của một quốc gia.
Theo nghĩa thứ nhất, dân tộc là khái niệm được dùng để chỉ một
cộng đồng tộc người (ethnic, ethnie) có chung ngôn ngữ, lịch sử – nguồn
gốc, đời sống văn hoá và ý thức tự giác dân tộc. Ví dụ: dân tộc Kinh, dân
tộc Mông, dân tộc Dao, dân tộc Tày, v.v..
Theo nghĩa thứ hai, dân tộc được hiểu là quốc gia dân tộc (nation), là
cư dân của một quốc gia nhất định bao gồm nhiều dân tộc, nhiều tộc


người. Ví dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc Anh, dân tộc Pháp, dân tộc Đức,
v.v..
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, “dân tộc” được sử dụng theo
nghĩa dân tộc - tộc người.
-


Về khái niệm “bình đẳng”

Trong Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học, “bình đẳng” có nghĩa
là: “những điều kiện và những khả năng như nhau đối với việc tự do phát
triển các năng lực và thoả mãn các nhu cầu của tất cả các thành viên trong
xã hội, v.v.” [60, 10].
Còn ở Từ điển luật học, “bình đẳng” có nghĩa là “quyền cơ bản của
con người không bị phân biệt theo chủng tộc, nòi giống, giai cấp, tôn giáo,
giới tính, tài sản được pháp luật của quốc gia đảm bảo, v.v.” [55, 50].
Theo chúng tôi, “bình đẳng” là khái niệm ghi nhận những điều kiện
và những khả năng như nhau đối với việc tự do phát triển các năng lực và
thoả mãn các nhu cầu của tất cả thanh viên xã hội, của các nhóm người
(trong đó có các dân tộc), địa vị như nhau của mọi người và của mọi nhóm
người trong xã hội. Song bình đẳng được hiểu theo nhiều cách khác nhau
qua các thời đại lịch sử cụ thể. Các nhà tư tưởng tư sản hiểu bình đẳng là
thủ tiêu các đặc quyền đẳng cấp và là sự bình đẳng của tất cả mọi người
trước pháp luật. Tư tưởng bình đẳng về pháp luật là tư tưởng tiến bộ, song
lại bị lạm dụng để che đậy tình trạng bất bình đẳng về kinh tế và chính trị.
Bản thân sự bình đẳng về pháp luật không thể mang tính chất triệt để nếu
nó không dựa trên sự bình đẳng thực sự giữa mọi người về kinh tế.
Các nhà tư tưởng mác xít đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử - cụ thể
về bình đẳng, vì từ trước tới nay chưa bao giờ có bình đẳng "nói chung",


bên ngoài cơ cấu kinh tế - xã hội và chính trị nhất định của xã hội. Vì địa

vị xã hội của cá nhân trong xã hội có giai cấp, trước hết do thành phần


giai cấp xác định của cá nhân ấy quy định, nên các nhà tư tưởng mác xít

hiểu bình đẳng không đơn giản là việc xoá bỏ những đặc quyền pháp lý nào
đó của một số giai cấp riêng biệt mà là việc xóa bỏ chính ngay các giai cấp,
xây dựng xã hội không có giai cấp. Theo các nhà tư tưởng mác xít, sự bình
đẳng thật sự có nghĩa là mọi người đều có một địa vị như nhau trong xã
hội, đối với tư liệu sản xuất, những điều kiện lao động và phân phối... đều
được tham gia tích cực vào việc quản lý các công việc xã hội.
1.1.2. Khái niệm “bình đẳng dân tộc”
Theo Từ điển luật học, “bình đẳng dân tộc” có nghĩa là:
1.

Quyền của các dân tộc trong một quốc gia không bị phân biệt theo

trình độ phát triển, màu da, đa số, thiểu số… họ đều có quyền và nghĩa vụ
như nhau.
2.

Quyền của các dân tộc đã hợp thành quốc gia (quyền của quốc

gia) không phân biệt lớn nhỏ, trình độ phát triển, chế độ chính trị, kinh tế,
v.v. có địa vị quốc tế bình đẳng với các quốc gia khác, tôn trọng độc lập,
lãnh thổ toàn vẹn, chủ quyền, v.v.” [55, 51-52].
Trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề cập
nhiều đến bình đẳng dân tộc. Đặc biệt, do hoàn cảnh lịch sử đương thời và
do được coi là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân nên lý luận của các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã chú ý nhiều đến mối quan hệ giữa dân tộc
và giai cấp, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Các ông đã luận chứng một
cách khoa học rằng vấn đề dân tộc luôn gắn liền với vấn đề giai cấp, mục
tiêu đấu tranh cho bình đẳng dân tộc luôn gắn liền với mục tiêu đấu tranh
cho bình đẳng xã hội, trong đó bình đẳng dân tộc là một bộ phận không thể
tách rời bình dẳng xã hội. Việc thực hiện bình đẳng xã hội nói chung là

mục tiêu bao trùm, do đó, có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện bình
đẳng dân tộc; ngược lại việc thực hiện bình đẳng dân tộc


sẽ góp phần thực hiện bình đẳng xã hội, là một trong những nhân tố thúc
đẩy thực hiện bình đẳng xã hội.
Bình đẳng dân tộc theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin gồm
những nội dung cơ bản sau:
Bình đẳng dân tộc là một quyền cơ bản, thiêng liêng của các dân tộc.
Quan điểm này được thể hiện rất rõ ở Cương lĩnh dân tộc của Lênin. Trong
đó, vấn đề bình đẳng dân tộc được đặt lên hàng đầu và nó có ý nghĩa quyết
định đến việc thực hiện quyền tự quyết của các dân tộc và liên hiệp giai cấp
công nhân ở các dân tộc.
Bình đẳng dân tộc có nghĩa là thực hiện sự ngang nhau về nghĩa vụ
và quyền lợi giữa các dân tộc không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, trình độ
phát triển cao hay thấp,...
Theo quan điểm của Lênin, bình đẳng dân tộc là xoá bỏ tình trạng
người bóc lột người để từ đó xoá bỏ tình trạng dân tộc này có đặc quyền,
đặc lợi so với dân tộc khác, dân tộc này đi áp bức dân tộc khác; các dân tộc
dù lớn hay nhỏ (kể cả bộ tộc và chủng tộc), không phân biệt trình độ phát
triển cao hay thấp, đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau, không một dân
tộc nào được giữ đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính trị, văn hoá,… Trong
quan hệ xã hội, cũng như trong quan hệ quốc tế, không một dân tộc nào có
quyền đi áp bức, bóc lột dân tộc khác. Quyền bình đẳng là quyền thiêng
liêng, đồng thời là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc. Có thực hiện được
quyền này mới có cơ sở thực hiện quyền dân tộc tự quyết và mới xây dựng
được quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc. Đối với một quốc gia đa
dân tộc như nước ta quyền bình đẳng dân tộc có nghĩa là các dân tộc không
phân biệt thiểu số hay đa số, trình độ phát triển cao hay thấp đều có quyền
lợi và nghĩa vụ ngang nhau, đều được tạo điều kiện để phát triển và xây

dựng Tổ quốc.


Bình đẳng dân tộc phải mang tính toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,... Bình đẳng dân tộc
về chính trị là trước hết, để mở đường có được các mặt bình đẳng khác cho
dân tộc. Bình đẳng dân tộc về kinh tế là nền tảng và điều kiện vật chất để
thực hiện được các mặt bình đẳng dân tộc khác một cách vững chắc và đầy
đủ.
Bình đẳng dân tộc về chính trị là quyền thiêng liêng của mỗi dân
tộc, tộc người. Đối với các dân tộc bị áp bức, bị lệ thuộc, đấu tranh giành
quyền bình đẳng về chính trị, chính là điều kiện để có bình đẳng trên các
phương diện khác của đời sống xã hội. Mọi biểu hiện của tư tưởng dân tộc
cực đoan, tư tưởng sôvanh nước lớn, sự kỳ thị, phân biệt đối xử giữa các
dân tộc – tộc người, những mưu đồ chính trị của các thế lực phản động
nhằm đồng hoá các dân tộc nhỏ, yếu, việc can thiệp vào công việc nội bộ
của các quốc gia, dân tộc,… đều vi phạm quyền bình đẳng chính trị của các
dân tộc. Lênin chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác không thể điều hoà với chủ nghĩa
dân tộc, dù là chủ nghĩa dân tộc “công bằng”, “thuần khiết”, tinh vi và văn
minh đến đâu đi nữa” [33, 167]. Nếu đặt trong mối quan hệ với nội dung
cương lĩnh dân tộc thì đó chính là quyền tự quyết dân tộc. Các dân tộc có
quyền tự quyết là một dung trước hết của bình đẳng về chính trị.
Bình đẳng về chính trị được thể hiện rõ nhất chính là sự bình đẳng về
quyền làm chủ đất nước. Mọi người dân, thuộc các dân tộc khác nhau,
không phân biệt đa số hay thiểu số, hay giữa các dân tộc thiểu số với nhau
cũng như miền xuôi và miền ngược, nếu không vi phạm pháp luật của Nhà
nước đều có quyền tham gia vào chính quyền Nhà nước, các tổ chức chính
trị – xã hội để quản lý xã hội. Sự bình đẳng về chính trị giữa các dân tộc
không chỉ được thừa nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà quan trọng hơn là
đang được thực thi trên thực tế.



Bình đẳng về chính trị luôn được thực hiện nhất quán để đảm bảo sự công
bằng và bình đẳng cho tất cả mọi người, đối với các dân tộc tiến tới bình
đẳng toàn diện.
Bình đẳng dân tộc về kinh tế có nghĩa là các dân tộc đều là các chủ
thể xây dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa và được làm chủ các tư liệu
sản xuất chủ yếu; các dân tộc đều được phát huy thế mạnh, các tiềm năng
của mình để phát triển kinh tế, làm giàu cho dân tộc mình. Đồng thời, các
dân tộc được giúp đỡ, liên kết, hợp tác giữa các dân tộc nhằm phát triển
kinh tế đồng đều, nâng cao trình độ lực lượng sản xuất. Trong “Hệ tư tưởng
Đức”, Mác và Ăngghen cho rằng những quan hệ qua lại giữa các dân tộc
khác nhau và cả toàn bộ kết cấu bên trong của bản thân mỗi dân tộc đều
phụ thuộc vào trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất và của
sự giao tiếp bên trong và bên ngoài của dân tộc ấy. Mà trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất của một dân tộc biểu lộ ra rõ nhất ở trình độ phát
triển của sự phân công lao động. Mặt khác, nghiên cứu quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, chúng ta có thể hiểu rằng lợi ích kinh tế luôn gắn liền
với lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia, bởi vậy giải quyết các mối quan hệ
liên quan đến dân tộc – quốc gia, dân tộc – tộc người đều phải tính đến
quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế. Bất cứ sự áp đặt nào trong hợp tác, giao
lưu, liên kết, bất kỳ đặc quyền kinh tế nào dành riêng cho các dân tộc, tộc
người đều dẫn đến việc vi phạm lợi ích của các dân tộc, dẫn đến sự bất
bình đẳng dân tộc.
Bên cạnh đó, người lao động của các dân tộc có cơ hội như nhau
trong tìm kiếm việc làm, trong nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động và đều
được hưởng lợi ích kinh tế trên cơ sở đóng góp công sức lao động và vốn
liếng của mình. Các dân tộc có trình độ phát triển kinh tế kém hơn, sẽ được
ưu tiên, giúp đỡ để phát triển kinh tế.



Bình đẳng dân tộc về văn hóa chính là thể hiện sự tôn trọng những
giá trị, bản sắc văn hóa, phong tục, tập quán của các dân tộc, tạo điều kiện
để văn hóa các dân tộc phát triển hài hòa trong sự phát triển chung của một
nền văn hóa đa dân tộc. Cương lĩnh về vấn đề dân tộc do Lênin soạn thảo
đã vạch trần mưu đồ chính trị của những kẻ cơ hội khi nêu khẩu hiệu “tự trị
dân tộc về văn hoá”. Lênin chỉ rõ: “Đối với những người mácxít, vấn đề
khẩu hiệu “văn hoá dân tộc” có một ý nghĩa to lớn, chẳng những vì nó xác
định nội dung tư tưởng của toàn bộ công tác tuyên truyền và cổ động của
chúng ta về vấn đề dân tộc, là khác với công tác tuyên truyền tư sản, mà
còn vì toàn bộ cái cương lĩnh về tự trị dân tộc về văn hoá trứ danh đều dựa
trên khẩu hiệu đó” [32, 166]. Liên quan trực tiếp đến bình đẳng về văn hoá
là quyền bình đẳng về ngôn ngữ - quyền tự nhiên của con người. Vấn đề
ngôn ngữ là nhu cầu máu thịt, thiêng liêng của nhân dân các dân tộc. Bởi
vậy, quyền bình đẳng về ngôn ngữ sẽ góp phần tích cực trong việc xích lại
gần nhau giữa các dân tộc tạo ra sự đoàn kết nhân dân giữa các dân tộc.
Nói cách khác, bình đẳng dân tộc về văn hóa có nghĩa là các dân tộc
đều có trách nhiệm tham gia xây dựng nền văn hóa mới của đất nước, xây
dựng đời sống tinh thần xã hội chủ nghĩa.
Các dân tộc, một mặt phải giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình,
mặt khác phải tôn trọng bản sắc văn hóa và tiếp thu sáng tạo văn hóa của
các dân tộc khác. Các dân tộc đều được động viên một mặt hưởng thụ
những giá trị văn hóa dân tộc, mặt khác phải tích cực tham gia sáng tạo giá
trị văn hóa mới.
Xây dựng dân tộc mình trở thành môi trường văn hóa qua đó xây
dựng nền văn hóa chung của đất nước, đồng thời có quyền có tiếng nói và
chữ viết riêng, nhưng lại tôn trọng ngôn ngữ chung, phổ thông. Các dân tộc
cùng tích cực, có trách nhiệm đấu tranh chống những biểu hiện phản



văn hóa, văn hóa phản động để xây dựng xã hội văn minh. Các dân tộc mà
dân trí thấp hơn, văn hóa chậm phát triển được giúp đỡ, tạo điều kiện mọi
mặt để phát triển hướng tới sự đồng đều chung.
Bình đẳng dân tộc về xã hội có thể hiểu là các dân tộc đều được học
tập không hạn chế về tuổi tác, cấp học, thời gian (hơn nữa hiện nay là học
tập suốt đời). Đồng thời, các dân tộc đều có cơ hội lựa chọn được học tiếng
nói, chữ viết của dân tộc mình và tiếng nói, chữ viết của dân tộc khác cũng
như ngôn ngữ phổ thông.
Các dân tộc đều được chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh, tiếp cận với
các điều kiện (thể dục thể thao, y tế) để phát triển thân thể, cải thiện nòi
giống, được hưởng nước sạch, kế hoạch hóa gia đình. Các dân tộc đều
được khuyến khích giúp đỡ xây dựng môi sinh lành mạnh. Các dân tộc có
dân trí thấp, sức khỏe môi sinh kém hơn được các dân tộc khác giúp đỡ để
cùng phát triển.
Mác và Ăngghen cho rằng để thực hiện triệt để bình đẳng dân tộc
trên tất cả các lĩnh vực phải xóa bỏ chế độ người bóc lột người. Quan điểm
này đã được Mác, Ăngghen trình bày tập trung trong tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản”. Trong đó, hai ông cho rằng muốn xoá bỏ được
sự áp bức của dân tộc này đối với dân tộc khác, sự thù địch giữa các dân
tộc, thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc thì phải xoá bỏ nạn người bóc lột
người. Hai ông viết: “Hãy xoá bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc
này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ. Khi sự đối kháng giữa các giai
cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc
cũng đồng thời mất theo” [35, 624].
Việc hiện thực hoá quyền bình đẳng dân tộc không chỉ phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế, văn hoá, chính trị,... mà một phần phụ thuộc vào cuộc
đấu tranh khắc phục chủ nghĩa dân tộc mà biểu hiện của nó là thói kỳ thị,
lòng thù hận lẫn nhau giữa các dân tộc. Lênin viết: “…Tôi đã nói rằng đặt
vấn đề về chủ nghĩa dân tộc nói chung một cách trừu tượng



chẳng có lợi gì. Cần phải phân biệt chủ nghĩa dân tộc của dân tộc đi áp bức
với chủ nghĩa dân tộc của dân tộc bị áp bức, chủ nghĩa dân tộc của một dân
tộc lớn và chủ nghĩa dân tộc của một dân tộc nhỏ” [33, 410]. Trong từng
hoàn cảnh cụ thể, trong từng mối quan hệ xác định , chủ nghĩa dân tộc có
thể thay đổi – dân tộc nhỏ, yếu, lạc hậu hơn dân tộc mình thì tỏ thái độ
sôvanh dân tộc lớn; đối với các dân tộc lớn, tiên tiến hơn dân tộc mình thì
biểu hiện thái độ dân tộc hẹp hòi. Như vậy, việc giải quyết đúng đắn vấn đề
bình đẳng dân tộc trong đó việc giúp đỡ các dân tộc tự vươn lên tiến kịp
trình độ phát triển với các dân tộc tiên tiến là một vấn đề quan trọng.
Vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc trước hết là đối với các dân tộc
thiểu số, dân tộc lạc hậu, kém phát triển. Theo Lênin: “nguyên tắc bình
đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ với việc bảo đảm quyền lợi của các dân
tộc thiểu số… bất cứ một thứ đặc quyền nào dành riêng cho một dân tộc, và
bất cứ một sự vi phạm nào đến quyền lợi của một dân tộc thiểu số, đều bị
bác bỏ” [32, 179]. Chỉ khi nào các dân tộc thiểu số, kém phát triển được tạo
điều kiện, hỗ trợ để vươn lên trình độ tiến bộ với các dân tộc khác thì khi
đó mới có bình đẳng thực sự giữa các dân tộc, sự hoà hợp giữa các dân tộc.
Việc thực hiện bình đẳng dân tộc không chỉ bó hẹp trong phạm vi
quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, giữa các quốc gia dân tộc với
nhau.
Sự kết hợp “nội lực” và “ngoại lực” tạo cho mỗi dân tộc có điều kiện
phát huy tối đa tiềm lực của dân tộc mình, cộng với sự tương trợ của các
dân tộc khác để phát triển. Chỉ bằng con đường ấy mới có thể thực hiện có
hiệu quả việc xoá bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển, một trong những
nguyên nhân sâu xa duy trì tình trạng bất bình đẳng dân tộc. Ngày nay, mỗi
dân tộc chỉ có thể vươn lên ngang tầm thời đại để thực sự bình đẳng với
các dân tộc khác, nếu biết hoà nhập vào xu thế vận động



chung, tiếp thu các giá trị tiến bộ của mọi dân tộc để làm giàu thêm những
giá trị vốn có của dân tộc mình. Chính vì vậy, việc giao lưu, hội nhập quốc
tế sẽ mở ra thời cơ và điều kiện phát triển cho mỗi dân tộc.
Các dân tộc đều có quyền làm chủ hay bình quyền trong việc phát
huy những khả năng của mình để xây dựng quê hương, xây dựng cuộc sống
mới, phát huy những truyền thống dân tộc và đoàn kết nội bộ dân tộc trong
sự nghiệp chung của đất nước. Nhà nước khi thực hiện chế độ tập trung dân
chủ trước hết tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát huy cao nhất những khả
năng của mình, tính đến đặc thù của từng vùng, từng địa phương trong các
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – văn hoá. Bình đẳng dân tộc
không phải là sự chia nhau về quyền lợi, mà nó là biểu hiện của quyền làm
chủ thực sự và mức độ phát triển về mọi mặt đời sống xã hội của mỗi dân
tộc. Vì thế, chừng nào mà các dân tộc còn nghèo nàn về mọi mặt, chậm
phát triển, sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc thì bình
đẳng dân tộc chưa thể được thực hiện.
Tóm lại, có thể định nghĩa bình đẳng dân tộc như sau: Bình đẳng dân
tộc là một mặt của bình đẳng xã hội nói chung (bên cạnh “bình đẳng
giới”, “bình đẳng giữa các thế hệ”, “bình đẳng tầng lớp”,...), là sự ngang
nhau về nghĩa vụ và quyền lợi, về cơ hội và điều kiện phát triển...
giữa các dân tộc trong một quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc
với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội không phân biệt đa số
hay thiểu số, sắc tộc hay chủng tộc, lớn hay nhỏ, trình độ phát triển cao
hay thấp, chế độ chính trị, kinh tế như thế nào.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ
đề cập tới vấn đề bình đẳng dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc. Vì vậy,
khi nói đến bình đẳng dân tộc ở Việt Nam là nói đến bình đẳng giữa các
dân tộc - tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.


1.2. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến thực hiện bình đẳng

dân tộc
Yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện bình đẳng dân tộc là tổng hòa các
yếu tố tự nhiên và xã hội có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, khách quan
hay chủ quan, cũng như bên trong và bên ngoài tới thực hiện bình đẳng dân
tộc. Bình đẳng dân tộc luôn chịu sự quy định và chi phối bới các yêu tố nói
trên trong quá trình vận động của nó. Trong phạm vi của luận văn, chúng
tôi chỉ đề cập đến những yếu tố khách quan và chủ quan có ảnh hưởng tới
thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay.
1.2.1. Các yếu tố khách quan
a. Điều kiện tự nhiên
Nhìn lại lịch sử của dân tộc ta, qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước đã có được một điều kiện tự nhiên với nhiều thuận lợi nhưng cũng
không ít khó khăn cho sự phát triển. Đó là do vị trí địa lý của Việt Nam
thuận lợi nằm trên đường giao lưu từ bắc đến nam, từ đông sang tây của
miền Viễn đông châu Á. Việt Nam nhìn ra biển Đông, nằm giữa hai nền
văn minh lớn cổ xưa của phương Đông, thuận lợi cả đường bộ và đường
biển. Đó cũng là vùng đất sau này đón nhận văn hoá phương Tây. Việt Nam
lại có một tài nguyên thiên nhiên giàu có, thuận lợi cho việc phát triển đất
nước.
Trong 64 tỉnh, thành phố cả nước ta hiện nay có tới 54 tỉnh thuộc địa
bàn vùng dân tộc và miền núi, và 10 tỉnh vùng cao, 9 tỉnh miền núi, 23 tỉnh
có huyện, xã miền núi, và 10 tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long
nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Các dân tộc thiểu số nước
ta cư trú tập trung chủ yếu ở miền núi, biên giới, với những đặc điểm về tự
nhiên, kinh tế – xã hội và môi trường sinh thái rất đa dạng. Trong khi diện
tích chiếm 3/4 diện tích cả nước nhưng dân số miền núi chỉ chiếm 1/4 dân
số cả nước. Vì vậy, vùng đồng bào dân tộc sinh sống


2


thường có mật độ dân số rất thấp (như Kon Tum 33 người/km , Bắc Kạn
2

2

2

57

người/km , Gia Lai 64 người/km , Cao Bằng 74 người/km , Hà Giang

77

người/km … so với bình quân cả nước là 232 người/km ).
Các vùng rừng núi ở nước ta là nơi tập trung tài nguyên, khoáng sản

2

2

và tiềm năng lớn về thủy điện, là nơi đầu nguồn của hàng ngàn sông, suối,
cung cấp nước ngọt, duy trì cân bằng sinh thái. Hầu hết các địa bàn miền
núi đều có đường biên giới chung với các nước bạn (Trung Quốc, Lào,
Campuchia) nên có vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng, tạo điều kiện
cho việc mở rộng giao lưu văn hóa và có tiềm năng trong phát triển kinh tế
dịch vụ. Với đặc điểm là “phên dậu”, là “cửa ngõ” của đất nước như vậy,
có thể thấy quan tâm đến miền núi, hay nói cách khác là quan tâm đến
đồng bào dân tộc thiểu số, không chỉ là vì lợi ích của đồng bào dân tộc mà
còn vì lợi ích quốc gia.

Vùng miền núi nước ta cũng là nơi tập trung nhiều tài nguyên,
khoáng sản, rừng và có nhiều sông, suối tạo điều kiện cho phát triển thủy
điện và cung cấp nước ngọt, duy trì cân bằng sinh thái. Với nguồn tài
nguyên rừng rất đa dạng, phong phú, với nhiều loại quý hiếm đã tạo điều
kiện cho việc phát triển kinh tế ở nhiều vùng. Điều kiện khí hậu ở nhiều
vùng cũng giúp cho việc phát triển nông, lâm nghiệp và chăn nuôi.
Tuy nhiên, miền núi nước ta phần lớn là địa hình trung du (dưới
500m so với mặt biển) và vùng núi thấp (500 – 1500m). Khoảng 70% diện
tích đất nước có độ cao từ 500m trở xuống là 85% là dưới 1000m. Trong
15% diện tích lãnh thổ cao trên 1000m thì chỉ có 1% là trên
o

2000m. Trong đó phần lớn là độ dốc núi, với 29% diện tích dốc dưới 15 ,
o

o

14% là từ 15-25 , trên 57% là độ dốc trên 25 . Độ dốc lớn làm khả năng
sản xuất nông nghiệp của miền núi bị hạn chế. Thêm vào đó địa hình miền
núi thường chia cắt, hiểm trở; đất đai dễ bị trượt lở, xói mòn, bạc màu;
thường xuyên xảy ra sự cố môi trường rất nghiêm trọng ảnh hưởng


đến đời sống, sản xuất, chăn nuôi của đồng bào và gây nhiều khó khăn,
phức tạp trong phát triển kinh tế.
Mặt khác, miền núi nước ta có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên
giữa các vùng (Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ) dẫn đến sự khác biệt về điều kiện kinh tế, văn
hóa, xã hội của đồng bào dân tộc tại các vùng miền. Đây cũng là đặc điểm
cần chú ý trong quá trình thực hiện các chính sách dân tộc và bình đẳng

dân tộc ở nước ta.
b. Điều kiện kinh tế - xã hội
Hiện nay, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc thiểu số
ở nước ta rất thấp so với dân tộc Kinh. Các dân tộc sinh sống chủ yếu bằng
nghề khai thác rừng, đốt rừng (trừ dân tộc Khmer và dân tộc Chăm sinh
sống ở vùng đồng bằng, ven biển, canh tác lúa nước), còn không ít các dân
tộc sống du canh du cư, đốt nương làm rẫy (Mông, Môn - Khmer…). Do
vậy, môi trường sinh thái bị hủy hoại, rừng già, rừng đầu nguồn bị triệt phá;
tài nguyên khoáng sản, rừng và động vật hoang dã ngày một cạn kiệt; kinh
tế hàng hóa còn chưa phát triển, canh tác lạc hậu, công cụ thô sơ, năng suất
cây trồng, vật nuôi vừa thấp, vừa bấp bênh., sản xuất tự cấp tự túc… Đồng
bào dân tộc thường sống tập trung trong các bản, làng mang nặng tính
huyết thống (nhất là đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên). Mặc dù những
năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng đầu tư phát triển vào
vùng dân tộc, vùng núi, nhưng miền núi vẫn còn gặp nhiều khó khăn, yếu
kém. Các dân tộc thiểu số ở nước ta nhìn chung rất nghèo. Chỉ riêng số các
xã nghèo, đặc biệt khó khăn theo Quyết định 135/1998/QĐ-TTg ngày
30/7/1998, cả nước có 1.715 xã rất nghèo và đặc biệt khó khăn cần được
tập trung giúp đỡ của Chính phủ trong tổng số 10.500 xã, phường của cả
nước (không kể con số bổ sung 447 xã theo quyết định số 22/2001/QĐTTg ngày 26/3/2001) thì trong đó có 1658 xã ở miền núi vùng đồng bào
dân tộc, chiến hơn 96,6% trong tổng


×