Tải bản đầy đủ (.docx) (226 trang)

Quần thể di tích lịch sử văn hóa phố hiến thị xã hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.6 MB, 226 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
----------***___▼▲▼___***---------

TRẦN THỊ MINH AN

QUẦN THỂ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
PHỐ HIẾN - THỊ XÃ HƯNG YÊN
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 31 60

LUẬN VĂN THẠC SỸ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. NGUYỄN QUANG NGỌC

HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC
Mục lục
Danh mục các bản đồ, bảng biểu, sơ đồ, bản ảnh
MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề


3.

Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

6.

Đóng góp của luận văn

7.

Các nguồn tƣ liệu

8.

Cấu trúc luận văn

CHƢƠNG 1

: ĐẶC ĐIỂ

Diên cách, vị trí địa lý vùng Phố Hiến – Hƣng Yên
Diên cách

Vị trí địa lý
Đặc điểm tự nhiên vùng Phố Hiến – Hƣng Yên
Đặc điểm phát triển địa hình
Vùng đất được hình thành do sự bồi đắp của sông Hồng và tác động của hệ
thống đê sông.
Vùng đất chịu tác động mạnh mẽ do sự vận động đổi dòng của sông Hồng
Đặc điểm khí hậu
Đặc điểm thuỷ văn
Lịch sử phát triển vùng Phố Hiến – Hƣng Yên
Đặc điểm cƣ dân – văn hoá
Cộng đồng người Việt
Hoa Kiều và Nhật kiều
Khách thương phương Tây
Đặc điểm phát triển kinh tế
Tiểu kết
CHƢƠNG 2

: QUẦN T
PHỐ HIẾ


2.1. Quá trình hình thành quần thể di tích
2.2. Phân loại di tích
2.2.1. Đền
2.2.2. Chùa
2.2.3. Đình
2.2.4. Hội quán
2.2.5. Nhà thờ Thiên chúa giáo
2.2.6. Văn miếu
2.2.7. Nhà thờ tộc/ Từ đường

2.2.8. Nhà cổ
2.3. Tính hệ thống và đặc điểm của quần thể di tích
2.3.1. Về mật độ và quy mô
2.3.2. Đặc điểm quần thể di tích
2.4. Tiểu kết
CHƢƠNG 3

3.1. Giai đoạn tiền Phố Hiến - Vùng đất có vị trí chiến lƣợc về quân sự
3.1.1. Thời kỳ Hai Bà Trưng
3.1.2. Thế kỷ X
3.1.3. Thời Lý - Trần
3.2. Giai đoạn Phố Hiến - Vùng đất có vị trí trọng yếu trong hệ thống giao thƣơng
và truyền giáo
3.2.1. Vùng đất có vị trí trọng yếu trong hệ thống giao thương trong nước và quốc tế
3.2.2. Vùng đất quan trọng trong hành trình truyền giáo
3.3. Giai đoạn hậu Phố Hiến – Đô thị trung tâm hành chính thời Nguyễn
3.3.1. Sự suy tàn của thương cảng kinh tế
3.3.2. Sự hình thành đô thị trung tâm hành chính thời Nguyễn
3.4. Tiểu kết
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

: LỊCH SỬ P
CÁC DI TÍ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như dòng chảy quanh co bên bồi bên lở của sông Hồng, thương cảng Phố

Hiến xưa - thị xã Hưng Yên ngày nay đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm
thịnh suy. Một thương cảng sầm uất bậc nhất của Đàng Ngoài thế kỷ XVI đến
nửa đầu thế kỷ XVIII với cảnh đông vui trên bến dưới thuyền, với những khu
phố tấp nập kẻ bán người mua đã bị vùi sâu dưới lớp lớp phù sa. Một Hưng
Thành được xây dựng kiên cố với tư cách lị sở hành chính thế kỷ XIX cũng đã
biến mất chỉ còn để lại những phế tích và địa danh cổ. Năm tháng đã phủ bụi mờ
lên nhiều trang sử của miền đất này. Nhưng vẫn còn đó một quần thể di tích
(QTDT) đa dạng về loại hình, đặc sắc về kiến trúc với vẻ đẹp độc đáo của tập
quán tín ngưỡng và lễ hội dân gian tồn tại trên các phố phường.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, thị xã Hưng Yên hiện còn trên 130 di
tích phân bố trên địa bàn 12 phường, xã bao gồm các loại hình đình, đền, chùa,
miếu, phủ, hội quán, nhà cổ, nghĩa trang người nước ngoài, văn miếu, võ miếu,
nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhà thờ họ, bia đá…Số liệu này cho thấy mật độ đậm
đặc và tính đa dạng của di tích lịch sử văn hóa trong khu vực.
Mỗi di tích đều tồn tại trong mối quan hệ mật thiết với điều kiện địa – văn
hoá, địa – lịch sử của vùng đất nơi nó sinh ra. Nói cách khác, di tích không chỉ
đơn thuần là dấu vết của quá khứ mà nó còn là hệ quả, là chứng tích phản ánh
những biến thiên thăng trầm ở mỗi khu vực, mỗi địa phương. Quần thể di tích
lịch sử văn hóa Phố Hiến – Hưng Yên cũng không nằm ngoài quy luật chung đó.
Sự vận động của các yếu tố tự nhiên, sự biến thiên của lịch sử văn hoá vùng
Phố Hiến – Hưng Yên đã tạo tiền đề cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của
hệ thống di tích tại đây. Ngược lại, chính hệ thống di tích lịch sử văn hóa lại là
nguồn sử liệu trực tiếp cung cấp cho ta những thông tin quan trọng để tìm về
quá khứ, làm sáng rõ và gắng kết các mảng vỡ lịch sử văn hóa, giúp ta hình
dung rõ nét hơn diện mạo và tiến trình phát triển của vùng đất này không chỉ
trong giai đoạn thịnh đạt của thương cảng Phố Hiến thế kỷ XVI-XVII.

1



Số lượng, sự phân bố, nét độc đáo trong kiến trúc, mối quan hệ giữa các di
tích và đặc biệt là sự phù hợp, thống nhất giữa truyền thuyết dân gian với điển
tích các nhân vật được thờ tự, địa danh cổ và tập quán, lễ hội dân gian xoay
quanh hệ thống di tích đã hé lộ nhiều điều về lịch sử phát triển của Phố Hiến –
Hưng Yên. Không chỉ nổi danh với tư cách là đô thị “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì
Phố Hiến”, Hưng Yên còn là miền đất cổ có vị trí chiến lược với những đóng
góp lớn trong tiến trình phát triển chung của lịch sử đất nước qua nhiều thời kỳ.
Tuy nhiên, cho đến hiện nay, trọng tâm nghiên cứu về vùng đất này vẫn tập
trung vào giai đoạn thế kỷ XVI - nửa đầu XVIII với sự hình thành, hưng thịnh
và suy tàn của thương cảng Phố Hiến. Ngược lại, sự phát triển của vùng đất này
giai đoạn tiền Phố Hiến và hậu Phố Hiến mới chỉ được hình dung trên đại thể,
nhiều vấn đề lịch sử còn bỏ ngỏ.
Trong khi đó, trải qua bao mưa nắng thời gian, dưới tác động của khí hậu,
chiến tranh và đặc biệt là bàn tay con người, QTDT Phố Hiến – Hưng Yên nguồn sử liệu trực tiếp để nghiên cứu về tiến trình lịch sử văn hóa của vùng đất
này đang đứng trước nhiều nguy cơ. Nhiều di tích đã bị phá huỷ hoàn toàn
không còn dấu vết, nền móng cũng bị vùi lấp trong cát. Những di tích còn lại
chủ yếu là các công trình công cộng, trong đó nhiều di tích đang trong tình trạng
xuống cấp nghiêm trọng. Cổ vật bị hư hại, thất lạc và trộm cắp. Một số công
trình đang bị sụp đổ từng bộ phận. Một số đã được trùng tu nhưng không đúng
cách dẫn đến kiến trúc cổ bị biến dạng, không gian di tích bị trần tục hoá. Tính
thiêng cũng như những giá trị tâm linh khác của di tích cũng theo đó mà bị biến
đổi, mất đi bản sắc ban đầu. Điều đó cũng có nghĩa là nguồn tư liệu vô giá đối
với việc nghiên cứu tiến trình lịch sử của vùng đất này đang bị mai một, thậm
chí có nguy cơ biến mất hoàn toàn. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần khẩn trương
nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử, văn hóa Phố Hiến – Hưng Yên một cách toàn
diện và khoa học ngay từ hôm nay.
Mặt khác, nghiên cứu về lịch sử vùng đất Phố Hiến – Hưng Yên còn cung
cấp những hiểu biết căn bản và tổng thể giúp ích cho chính sự nghiệp bảo tồn,
tôn tạo và phát huy giá trị của QTDT lịch sử - văn hóa tại đây. Trong tình hình
thị xã Hưng Yên đang đô thị hóa mạnh mẽ để chuyển mình thành thành phố,

2


vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. UBND thị xã Hưng Yên đã và đang tiến
hành xây dựng một đề án tổng thể nhằm nâng cấp thị xã thành thành phố tương
lai với những quy hoạch đồng bộ về cơ sở hạ tầng. Diện mạo đô thị đang có
những thay đổi nhanh chóng. Một đô thị Hưng Yên hiện đại đang dần hình
thành và phát triển mạnh mẽ bên cạnh một Phố Hiến cổ kính với QTDT lịch sử
văn hóa đặc sắc. Vấn đề mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển đang đặt ra bức
thiết. Quy hoạch mặt bằng tổng thể phát triển thị xã trong tương lai phải giải
quyết được bài toán đô thị hoá, phải tạo ra được sự đối thoại uyển chuyển, hài
hoà giữa di sản kiến trúc truyền thống và các công trình hiện đại, cao tầng. Thực
tế đó càng đặt ra nhiệm vụ cấp bách cho công cuộc nghiên cứu QTDT. Cần phải
nhanh chóng tiến hành nghiên cứu một cách tổng thể dựa trên những khảo cứu
nghiêm túc, toàn diện và tỉ mỉ, đảm bảo cung cấp những căn cứ khoa học để xây
dựng quy hoạch đô thị mới vừa hiện đại, vừa bảo tồn được QTDT lịch sử văn
hóa truyền thống.
Nghiên cứu về QTDT còn phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế địa
phương. Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa với nhiều giá trị độc đáo là tiềm năng
lớn để thị xã Hưng Yên phát triển thương mại du lịch, tạo ra sự chuyển đổi trong
cơ cấu kinh tế. Di tích được bảo tồn, du lịch phát triển sẽ đem lại nguồn lợi lớn
cho ngân sách, người dân cũng được hưởng lợi nhiều hơn qua việc tham gia vào
các hoạt động dịch vụ du lịch, các làng nghề truyền thống quanh khu vực thị xã
sẽ có cơ hội phục hồi. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế bền vững của thị xã – thành phố tương lai.
Tuy nhiên, để khơi dậy được tiềm năng đó, để thực sự biến di tích thành
nguồn lợi vật chất, phải bảo tồn được nét cổ, vốn cổ của mỗi di tích, phải hiểu
và trả lại cho di tích những giá trị đích thực của nó. Điều đó đòi hỏi những nỗ
lực nghiên cứu QTDT lịch sử - văn hoá thật sự nghiêm túc, công phu từ phía các
nhà nghiên cứu và quản lý văn hoá.

Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên và với tấm lòng tri ân của một người con
quê hương, chúng tôi đã chọn “Quần thể di tích lịch sử văn hóa Phố Hiến –
Hƣng Yên” làm đề tài luận văn thạc sỹ Việt Nam học.

3


Với địa bàn mang đậm yếu tố sông nước và những giá trị văn hóa lịch sử
truyền thống lâu đời, Phố Hiến - Hưng Yên có thể coi như một khu vực có tính
đặc thù. Nghiên cứu Phố Hiến - Hưng Yên với tư cách một khu vực đặc thù và
tiếp cận nghiên cứu QTDT lịch sử - văn hóa theo hướng liên ngành sẽ đem đến
hiểu biết tổng thể và sâu sắc cho người nghiên cứu. Hơn nữa, chỉ có đặt QTDT
lịch sử - văn hóa trong mối quan hệ tổng thể của các điều kiện tự nhiên, kinh tế,
xã hội của khu vực mới có thể đề ra được phương án bảo tồn, tôn tạo hợp lý nhất
và tạo tiền đề để phát huy giá trị di tích một cách hiệu quả nhất.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phố Hiến đã từ lâu đi vào lịch sử Việt Nam cũng như tâm thức dân gian với
câu ca quen thuộc “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Những công trình đầu
tiên có ghi chép về Phố Hiến là các bộ sử liệu biên niên được các triều đình
phong kiến biên soạn như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử Thông giám cương
mục…Tuy nhiên, những ghi chép này rất sơ lược, chủ yếu chỉ phản ánh chính
sách của chính quyền chúa Trịnh đối với thương thuyền nước ngoài, ghi chú về
việc chúa Trịnh cho phép các thương nhân Hoa kiều, Nhật Bản và phương Tây
lưu trú và lập hội quán, thương điếm tại Phố Hiến.
Dưới triều Nguyễn, Phố Hiến được ghi chép chi tiết hơn trong nhiều bộ địa
chí lớn. Phan Huy Chú trong phần Dư địa chí của bộ bách khoa thư Lịch triều
hiến chương loại chí có mô tả về địa thế của Phố Hiến trong phần ghi chú về
phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam. Mặc dù còn rất sơ lược song Phan Huy Chú đã
cho biết một chi tiết quan trọng là vùng Phố Hiến – bãi Xích Đằng là địa bàn
then khóa, kho lưu trữ của các đời và ghi chú về các sở đánh thuế tuần ty trên

sông Xích Đằng (đoạn sông Hồng chảy qua Phố Hiến).
Đại Nam nhất thống chí phần viết về tỉnh Hưng Yên cũng có ghi chép Phố
Hiến là nơi đặt trị sở cũ của trấn Sơn Nam. Các bến đò ngang, đò dọc trên đoạn
sông Hồng chảy qua Phố Hiến cũng được liệt kê tỉ mỉ cùng với hệ thống chợ tại
Phố Hiến và các khu vực xung quanh. Những chi tiết trên sẽ góp phần giúp
người nghiên cứu hình dung về một Phố Hiến xưa với hoạt động của các sở thu
thuế, hệ thống chợ buôn bán và phương thức vận chuyển hàng hóa. Đồng thời,

4


thông tin ghi chép trong bộ địa chí này cũng là sử liệu trực tiếp để nghiên cứu
và lịch sử vùng đất Hưng Yên thế kỷ XIX – giai đoạn hậu Phố Hiến.
Thành tỉnh Hưng Yên – Hưng Thành xây dựng đời Minh Mạng cũng được
mô tả trong Đại Nam nhất thống chí cùng với bản liệt kê chợ, phố, cầu, bến,
đường đê, một số di tích tiêu biểu và địa điểm đặt lỵ sở các huyện Kim Động,
Tiên Lữ. Đây là sử liệu quan trọng để hình dung về diện mạo của đô thị hậu Phố
Hiến, từ đó nhận định về sự suy tàn của thương cảng Phố Hiến, so sánh để thấy
sự chuyển biến của Phố Hiến từ một đô thị thương cảng sang một đô thị hành
chính vào thế kỷ XIX.
Cuối XIX, đầu XX, nhiều bộ địa chí chuyên khảo về Hưng Yên đã ra đời.
Đáng kể tới là các bộ địa chí Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí lược, phần Hưng
Yên tỉnh (Quốc sử quán triều Nguyễn); Hưng Yên tỉnh nhất thống chí, Tỉnh
Hưng Yên – La Pronvince de Hungyen (Tiếng Pháp, khuyết danh); Hưng Yên
địa chí (Trịnh Như Tấu). Các bộ địa chí này ngoài thông tin về một số di tích
tiêu biểu của Phố Hiến còn ghi chép một số cổ tích dân gian có liên quan đến
lịch sử vùng đất này giai đoạn Phố Hiến và giai đoạn hậu Phố Hiến. Thành tỉnh
Hưng Yên và các phố, phường hành chính của đô thị Hưng Yên nửa cuối XIX,
đầu XX cũng được liệt kê cùng với hệ thống chợ và bến đò ngang, đò dọc sông
Hồng.

Tất cả những công trình trên mới chỉ dừng lại ở việc ghi chép về Phố Hiến
trên một số mặt với tư cách là những sử liệu quan trọng chứ chưa phải là những
công trình nghiên cứu về Phố Hiến.
Công trình mang tính chất nghiên cứu đầu tiên về Phố Hiến phải kể đến Les
comptoirs hollandais de Pho Hien ou Pho Khach, pres Hung Yen au XVII siecle,
BHDG 1895 (Thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến hoặc Phố Khách vào thế kỷ
XVII) của học giả người Pháp G. Dumoutier. Ông đã đưa ra quan điểm về thời
điểm hình thành Phố Hiến gắn với sự thành lập thương điếm Hà Lan tại đây và
đã xác định được chính xác vị trí của Phố Hiến trên thực địa. Năm 1906, A.
Shreiner - một học giả phương Tây cũng đề cập đến Phố Hiến trong tác phẩm
Abrégé de l’s histoire d’ Annam (Lược sử An Nam). Năm 1939, học giả Kim
Vĩnh Kiện (Triều Tiên) cũng đã hoàn thành một chuyên khảo về Phố Hiến với
5


tên gọi Về Phố Khách ở Hưng Yên xứ Bắc Kỳ thuộc Đông Pháp (Tokyo 1939).
Khác với G. Dumoutier, Kim Vĩnh Kiện lại cho rằng niên đại hình thành Phố
Hiến liên quan đến chính sách dồn dân Hoa kiều của chúa Trịnh.
Nhìn chung, các tác giả trên đều không nhìn Phố Hiến như một đô thị của
người bản địa. Họ đều cho rằng Phố Hiến là một đô thị kinh tế của thương nhân
ngoại quốc, được hình thành và phát triển gắn liền với cộng đồng người Hoa và
sự xuất hiện của thương điếm Hà Lan năm 1637. Ngoài ra, Phố Hiến cũng được
đề cập đến rải rác trong bài viết về quan hệ buôn bán giữa phương Tây và Đàng
Ngoài của các tác giả P.Villai, Ch.Maybon, W.J.Buch. Trong các công trình này,
Phố Hiến được gọi bằng các tên gọi khác nhau như Hean, Heen, Hiên Nội, Hiến
Nam hay Vạn Lai Triều. Vị trí, diện mạo của đô thị này cũng được phác dựng.
Những thập kỷ cuối thế kỷ XX, Phố Hiến được các học giả quan tâm nghiên
cứu nhiều hơn. Phố Hiến đã được nhắc đến và đánh giá trong những công trình
nghiên cứu về ngoại thương Việt Nam như Ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII,
XVIII, đầu XIX (Thành Thế Vỹ, Hà Nội, 1961), Tình hình công thương nghiệp

Việt Nam trong thời Lê Mạt (Vương Hoàng Tuyên, Hà Nội, 1959) cũng như các
công trình nghiên cứu về đô thị Việt Nam như Đô thị cổ Việt Nam (Viện sử học,
Hà Nội, 1989).
Bên cạnh những nghiên cứu về Phố Hiến thông qua khảo cứu nguồn thư tịch
và văn bia, nhằm tiến tới hiểu biết toàn diện và sâu sắc hơn nữa về Phố Hiến,
công tác điều tra và khai quật khảo cổ học cũng đã bước đầu được tiến hành.
Năm 1968, trường Đại học Sư phạm I đã hai lần đào thám sát khu thương điếm
ngoại quốc ở Hiến Hạ. Tiếp theo, năm 1989, khai quật khảo cổ học tại khu Văn
Miếu Xích Đằng đã phát hiện phế tích lò gốm và chồng bát kết dính có niên đại
thế kỷ XVII, cho thấy khu vực này là nơi sản xuất gốm thủ công của thương
cảng Phố Hiến khi xưa.
Năm 1992, trước thềm Hội thảo khoa học về Phố Hiến, Sở Văn hóa Thông
tin Hải Hưng đã đào thám sát và tiến hành khai quật một số hố. Kết quả đã phát
hiện được một số dấu tích lò gốm, nền kiến trúc cổ, gạch ngói, gốm sứ Việt Nam
và nước ngoài có khung niên đại thế kỷ XVII-XVIII. Đặc biệt, kết quả
6


khai quật còn thu được những di vật có niên đại sớm hơn như mảnh gốm Trần
(thế kỷ XIII-XIV), chân đèn Mạc (thế kỷ XVI)…Những di vật này cho phép
hình dung phần nào về lịch sử của vùng đất này giai đoạn tiền Phố Hiến. Ngoài
ra, cũng trong năm này, Bảo tàng tỉnh Hải Hưng kết hợp với một số nhà khoa
học đã tiến hành đợt điều tra tổng thể di sản văn hoá vật thể khu vực Thị xã
Hưng Yên lần đầu tiên. Kết quả là đã thống kê được 60 di tích trên địa bàn thị
xã, trong đó có 24 đền miếu, 1 hội quán, 17 chùa, 1 nhà thờ thiên chúa giáo, 10
đình, 1 nhà dòng, 2 nhà thờ họ, 1 nghĩa địa người nước ngoài, 1 văn miếu, 1 võ
miếu, 1 chợ [69, 89].
Năm 1990, hội thảo khoa học về đô thị cổ Hội An được tổ chức với sự tham
gia của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Bên cạnh
những nghiên cứu chuyên sâu về Hội An, Phố Hiến cũng được đề cập đến trong

các tham luận nghiên cứu về quan hệ thông thương giữa Hội An với các địa
phương trong nước cũng như vị trí của các cảng thị ven biển Đông Nam Á trong
lịch sử.
Năm 1992, một hội thảo khoa học quy mô về Phố Hiến lần đầu tiên được tổ
chức tại thị xã Hưng Yên. Hội thảo đã quy tụ đông đảo các giáo sư, tiến sĩ, nhà
khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của các trung tâm
nghiên cứu và giảng dạy trong nước và quốc tế. Sự ra đời của Phố Hiến, cơ sở
kinh tế - xã hội, kết cấu dân cư, đời sống văn hóa cũng như quan hệ thông
thương của Phố Hiến với trong và ngoài nước, vấn đề sự hưng thịnh, suy tàn của
Phố Hiến và việc bảo tồn, tôn tạo QTDT Phố Hiến…đều được thảo luận. Cho
đến nay, đây vẫn là công trình nghiên cứu chi tiết nhất, quy mô nhất, toàn diện
nhất về lịch sử đô thị Phố Hiến.
Sau hội thảo, năm 1998, nhằm phục vụ công tác giới thiệu, quảng bá hình
ảnh Phố Hiến, giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ Hưng Yên, Sở Văn
hóa Thông tin Hưng Yên kết hợp với Hội văn học Nghệ thuật Hưng Yên đã xuất
bản công trình Phố Hiến – lịch sử văn hóa. Với bản in màu đẹp, đây là công
trình đầu tiên đem đến cho độc giả trực quan sinh động về các di tích tiêu biểu
của Phố Hiến. Di tích và danh thắng tiêu biểu của Phố Hiến một lần nữa được
tập hợp và giới thiệu trong cuốn sách Những danh thắng tiêu biểu của Phố Hiến
7


của tác giả Lâm Hải Ngọc (HY, 2005). Tuy nhiên, các tuyển tập này mới chỉ
dừng lại ở việc giới thiệu những di tích tiêu biểu nhất của Phố Hiến chứ chưa
đem đến cho độc giả cái nhìn tổng quan về toàn bộ QTDT Phố Hiến với những
đặc trưng riêng độc đáo của nó.
Ngoài những công trình nghiên cứu, sưu tầm, khảo sát được đề cập đến ở
trên, Phố Hiến còn là chủ đề được quan tâm với nhiều bài viết, chuyên khảo
đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành lịch sử văn hoá. Năm 1968, đề tài Phố
Hiến lần đầu tiên được đề cập đến trên tạp chí đầu ngành của sử học Việt Nam –

Nghiên cứu lịch sử - với bài viết “Bước đầu tìm hiểu về Phố Hiến” của hai tác
giả Trương Hữu Quýnh và Đặng Huyền Chi. Còn trên tạp chí Xưa và Nay, đáng
chú ý là ba bài viết của các tác giả Tôn Nữ Quỳnh Trân (1996) – “Người Pháp
tại PH”, Hoàng Kim Đáng (1999) – “Phố Hiến qua một tấm bản đồ cổ”,
Nguyễn Văn Chiến (2005) – “Thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến”. Các bài viết
trên đã phần nào làm rõ nét hơn về cơ cấu dân cư, vị trí các phường xã, thương
điếm trong cơ cấu đô thị của thương cảng Phố Hiến.
Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật cũng đăng tải một số chuyên khảo về Phố Hiến.
Đáng chú ý là hai bài viết của tác giả Trần Quốc Vượng (2001) với “Sông Nhị
Hồng với Hưng Yên - một tiếp cận địa văn hoá” và tác giả Nguyễn Quang Ngọc
(2001) với “Sông Đàng Ngoài với vị thế Phố Hiến xưa”. Trong khi giáo sư Trần
Quốc Vượng làm sáng tỏ phần nào vị thế của vùng đất Phố Hiến – Hưng Yên
dựa trên những nghiên cứu tiếp cận từ khía cạnh địa văn hoá thì giáo sư Nguyễn
Quang Ngọc lại đặt Phố Hiến trong mối tương quan với tuyến sông Đàng Ngoài.
Đây cũng là chuyên khảo đầu tiên chỉ ra mối quan hệ hữu cơ giữa Phố Hiến với
hai cảng thị cũng nằm trên tuyến sông này là Thăng Long và Domea (thuộc Hải
Phòng ngày nay).
Với việc tiếp cận được một số bản đồ cổ được vẽ bởi các nhà du hành
phương Tây đã từng đến Đàng Ngoài trong thế kỷ XVI, XVII và nguồn tư liệu
lưu trữ của công ty Đông Ấn VOC tại Hà Lan, nghiên cứu về thương mại Đàng
Ngoài thế kỷ XVII đã đạt được những thành tựu mới. Liên tục trong ba năm
2005 – 2008, hàng loạt bài viết của nhóm tác giả Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn
Văn Kim, Đỗ Thuỳ Lan, Hoàng Anh Tuấn liên tục xuất hiện trên tạp chí Nghiên
8


cứu lịch sử. Với những chuyên khảo “Vùng cửa sông Đàng Ngoài thế kỷ XVIXVII” (Đỗ Thùy Lan, 2005); “Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Đàng Ngoài” (2005),
“Kế hoạch Đông Á và sự thất bại của Công ty Đông Ấn Anh ở Đàng Ngoài thế
kỷ XVII qua tư liệu phương Tây” (2005), “Mậu dịch tơ lụa của công ty Đông
Ấn Hà Lan với Đàng Ngoài 1637-1670” (2006), “Hải cảng miền Đông Bắc và

hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII qua các nguồn tư liệu phương
Tây” (2007) của tác giả Hoàng Anh Tuấn và các bài viết “Vị trí của Phố Hiến
và Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVI-XVIII” (Nguyễn
Văn Kim, 2007), “Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII,
XVIII” (Nguyễn Quang Ngọc, 2007), bức tranh toàn cảnh về thương mại Đàng
Ngoài được phục dựng khá rõ nét. Hệ thống tuyến giao thương và vị trí của từng
thương cảng cũng như mối quan hệ buôn bán giữa Đàng Ngoài với Anh, đặc biệt
là với Hà Lan được các tác giả khảo cứu tỉ mỉ. Trong đó, vị thế của Phố Hiến
được làm sáng tỏ hơn trên từng chức năng tuần ty thu thuế, kiểm soát cũng như
chức năng thương mại của nó. Tuy nhiên, từ những nguồn tư liệu phương Tây,
các tác giả nhận định về vai trò của Phố Hiến với nhiều quan điểm chưa thống
nhất với nhau. Mặc dù vậy, những chuyên khảo này đã góp phần đem đến những
hiểu biết xác đáng, toàn diện và khách quan hơn về vị thế của Phố Hiến trong
toàn cảnh thương mại Đàng Ngoài.
Năm 2004, Phòng Văn hóa Thông tin Thị xã Hưng Yên đã tiến hành kiểm kê
và biên soạn tập tài liệu QTDT Phố Hiến – Thị xã Hưng Yên. Tuy nhiên đây vẫn
chỉ là một bản thống kê di tích còn chưa đầy đủ, chưa đem đến nhận thức chung
về vẻ đẹp, tính hệ thống và giá trị của QTDT lịch sử văn hóa trên địa bàn 12
phường của thị xã.
Điểm qua lịch sử nghiên cứu vấn đề, có thể thấy rõ Phố Hiến - Hưng Yên là
một vùng đất trọng tâm được các học giả nghiên cứu từ rất sớm. Tuy nhiên, do
hạn chế về tư liệu, nhiều vấn đề còn chưa có điều kiện làm sáng tỏ, đặc biệt là
lịch sử vùng đất này giai đoạn tiền và hậu Phố Hiến. Về mặt di tích đã có tổng
kiểm kê di tích song vẫn chưa đầy đủ và chưa làm sáng tỏ tính hệ thống cũng
như giá trị của di tích.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
9


Đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn thị xã Hưng Yên bao gồm 12

phường xã, đồng thời mở rộng phạm vi khảo sát thực địa sang bờ hữu ngạn sông
Hồng đối diện với Phố Hiến thuộc đất Duy Tiên (Hà Nam) và vùng ngã ba cửa
Luộc thuộc Lý Nhân (Hà Nam) và Hưng Nhân (Thái Bình). Nhằm tìm mối liên
hệ và làm sáng tỏ vị trí của các bến đò và hệ thống di tích dọc sông Hồng, sông
Luộc, địa bàn khảo sát thực địa cũng được mở rộng sang các huyện Kim Động
và Tiên Lữ của tỉnh Hưng Yên.
Luận văn được tiến hành dựa trên kết quả tổng kiểm kê di tích và hệ thống
hồ sơ di tích của Bảo tàng tỉnh Hưng Yên, Phòng Văn hoá Thông tin thị xã
Hưng Yên kết hợp với việc kế thừa thành quả nghiên cứu trực tiếp của Hội thảo
khoa học năm 1992. Đặc biệt, nguồn tư liệu đóng vai trò chủ yếu để hình thành
nên các luận điểm khoa học trong luận văn là tư liệu dân gian dựa trên kết quả
tập hợp, thống kê, điều tra điền dã của tác giả qua các đợt khảo sát thực địa
trong năm 2008.
Luận văn mong muốn đem đến cái nhìn toàn diện về QTDT lịch sử văn hóa
Phố Hiến với các loại hình di tích đa dạng, phong cách kiến trúc độc đáo. Trên
cơ sở thống kê, phân loại, luận văn tập trung tìm hiểu và phân tích đặc điểm,
mối quan hệ giữa các di tích. Qua đó, phác dựng diện mạo đô thị Phố Hiến theo
từng thời kỳ lịch sử, làm rõ nét hơn tiến trình lịch sử của vùng đất này không chỉ
trong giai đoạn hưng thịnh của thương cảng Phố Hiến thế kỷ XVII – XVIII mà
còn phác dựng lịch sử giai đoạn tiền Phố Hiến và hậu Phố Hiến.
Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn dựa trên những kết quả nghiên cứu
về bức tranh toàn cảnh của QTDT trong tương quan các điều kiện tự nhiên, xã
hội sẽ cung cấp thêm hiểu biết để các nhà quy hoạch, quản lý văn hoá đề ra các
biện pháp bảo tồn, giữ gìn hệ thống di tích này một cách hiệu quả trong quy
hoạch thành phố tương lai.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Qua nghiên cứu QTDT lịch sử - văn hóa, góp phần phác dựng lại diện mạo
đô thị Phố Hiến cũng như tiến trình phát triển của Phố Hiến - Hưng Yên trong
lịch sử.


10


Luận văn tiến hành theo phương pháp liên ngành, nghiên cứu QTDT lịch sử
- văn hóa trong mối quan hệ tổng thể với các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội,
nghiên cứu di tích không tách rời khỏi các đặc trưng văn hóa dân gian của vùng.
Từ đó, chúng tôi Hưng Yên vọng đưa ra những giả thiết tổng hợp dựa trên
những luận cứ khoa học về các giai đoạn phát triển của Hưng Yên – Phố Hiến,
đồng thời góp phần đề ra, kiến nghị về phương pháp bảo tồn, phát huy giá trị di
tích trong bối cảnh thị xã Hưng Yên chuyển mình thành thành phố tương lai.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của các ngành khoa học
lịch sử, văn hoá, bảo tồn, bảo tàng: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp phỏng vấn, khảo sát thực địa, phương pháp so sánh, phân tích, đối
chiếu, thống kê, tổng hợp…
Ngoài những phương pháp truyền thống và cơ bản trên, cần thiết phải sử
dụng phương pháp liên ngành, khu vực học trong nghiên cứu đề tài này bởi:
Di tích lịch sử văn hoá không tồn tại một cách tự thân, tự phát mà nó ra đời,
phát triển và được bảo tồn trên cơ sở tổng hoà các điều kiện tự nhiên, lịch sử, tín
ngưỡng, văn hoá trong một thời kỳ nhất định hoặc trong cả một chuỗi các giai
đoạn phát triển của lịch sử đất nước nói chung và địa phương nói riêng. Vì vậy,
để hiểu về bản thân từng di tích, chúng ta phải nghiên cứu theo hướng tiếp cận
tổng thể, tránh tách biệt di tích với tổng thể những điều kiện mà trên đó di tích
đã được hình thành và phát triển.
Nghiên cứu về cả một QTDT lịch sử, càng cần thiết phải tiếp cận theo hướng
tổng thể bởi đây là phương thức tốt nhất và hiệu quả nhất giúp nhà nghiên cứu
có được cái nhìn toàn cảnh, hệ thống để trên cơ sở đó, phân loại và đánh giá
được chính xác giá trị của từng di tích và cụm di tích.
Phương án bảo tồn và phát huy đầy đủ giá trị của di tích lịch sử văn hoá chỉ
khả thi khi nó được đề ra trên cơ sở nghiên cứu tổng thể các điều kiện, định

hướng kinh tế xã hội hiện nay của địa bàn – nơi di tích tồn tại, đảm bảo sự
tương quan hài hoà giữa cái cũ và cái mới, giữa vấn đề bảo tồn vốn cổ và định
hướng phát triển. Để bảo tồn di tích, cần thiết phải có sự phối kết hợp chặt chẽ
giữa các nhà nghiên cứu văn hoá, lịch sử, bảo tàng với các nhà kinh tế học, xã
11


hội học, địa lý học…và các cấp chính quyền quản lý và hoạch định chiến lược
phát triển của từng địa phương. Do vậy, trong quá trình làm luận văn, chúng tôi
đã hệ thống hóa tư liệu theo phương thức tổng hợp liên ngành để phân tích các
vấn đề được đặt ra trong luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Tập hợp, hệ thống, loại hình hóa di tích khu vực Phố Hiến – Hưng
Yên.
-

Bổ sung, làm đầy đặn hơn hệ thống tư liệu về di tích lịch sử văn hóa

Phố Hiến - Hưng Yên.
Làm rõ sự tương tác giữa điều kiện tự nhiên và lịch sử - xã hội tác
động tới
QTDT.
-

Tiếp cận nghiên cứu QTDT nhằm khôi phục lại phần nào quá trình

hình thành, thay đổi, phát triển của vùng đất Phố Hiến - Hưng Yên qua các
thời kỳ lịch sử.
-


Luận văn góp phần tăng thêm cứ liệu cho công tác bảo tồn, tôn tạo di

tích trong giai đoạn thị xã Hưng Yên chuẩn bị trở thành thành phố trực thuộc
tỉnh trong tương lai.
7. Các nguồn tƣ liệu
Nguồn tư liệu ghi chép, khảo sát về Phố Hiến - Hưng Yên không nhiều. Do
vậy, để giải quyết những yêu cầu đặt ra trong luận văn, chúng tôi cố gắng khai
thác tối đa các nguồn sử liệu gốc như thư tịch cổ, ghi chép của các tác giả trong
và ngoài nước, đồng thời sử dụng những tư liệu thống kê, khảo sát, đo vẽ, bản
ảnh di tích đã được các cơ quan văn hóa trên địa bàn thị xã tiến hành tập hợp
trong nhiều năm. Một nguồn tư liệu khác được khai thác và có vai trò quan
trọng để tiến hành nghiên cứu luận văn chính là tư liệu dân gian , tư liệu hồi cố,
bản ảnh di tích…do tác giả luận văn trực tiếp thực hiện qua các đợt khảo sát
thực địa tiến hành trong năm 2008.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, luận văn được chia thành 3
chương chính như sau:
Chƣơng 1: Đặc điểm tự nhiên, xã hội vùng Phố Hiến - Hƣng Yên.
(40 trang)


12


Luận văn tập trung phân tích những đặc điểm về diên cách, vị trí địa lý, điều
kiện tự nhiên và những điều kiện lịch sử - cư dân - văn hóa tác động tới sự hình
thành, phát triển của QTDT Phố Hiến – Hưng Yên. Đặc biệt, luận văn tập trung
phân tích, tổng hợp những nguồn tư liệu khai thác trên thực địa để phác dựng lại
sự đổi dòng của sông Hồng, qua đó phân tích vai trò của dòng sông này đối với
sự tồn tại, phát triển của hệ thống di tích tại Phố Hiến - Hưng Yên.

Qua phân tích những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và xã hội, có thể nhận
định rõ nét một vùng Phố Hiến - Hưng Yên với nhiều nét riêng biệt – một khu
vực mang tính “đặc thù”. Trên tổng quan của những yếu tố đó, di tích tại khu
vực này cũng mang nhiều nét riêng biệt.
Chƣơng 2: QTDT lịch sử văn hóa Phố Hiến - Hƣng Yên: Lịch sử và
thực trạng (40 trang)
Trong chương 2, luận văn tập trung tái hiện về quá trình hình thành QTDT
qua các thời kỳ lịch sử. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ đặc điểm phát triển di tích
từng thời kỳ, phân tích mối quan hệ giữa diễn tiến lịch sử vùng đất và quá trình
hình thành di tích.
Một nội dung quan trọng trong chương này là tác giả đã cố gắng loại hình
hóa hệ thống di tích Phố Hiến - Hưng Yên. Khu vực này hiện còn tới 134 di tích
bao gồm nhiều loại hình đa dạng. Do đó, việc phân loại di tích là vô cùng cần
thiết. Công việc này không chỉ giúp nhận định chính xác hơn về giá trị của từng
di tích, cụm di tích mà còn làm sáng tỏ diện mạo đời sống văn hóa – tín ngưỡng
của cộng đồng cư dân khu vực này. Hơn nữa, việc loại hình hóa di tích sẽ là cơ
sở quan trọng để tác giả luận văn đánh giá tính hệ thống, mối quan hệ giữa các
di tích cũng như rút ra những nhận xét quan trọng về đặc điểm của QTDT tại
đây. Từ những phân tích trên, một kết luận quan trọng được rút ra đó là 134 di
tích tồn tại trên khu vực Phố Hiến - Hưng Yên không phải là những di tích rời
rạc, riêng lẻ mà chúng thực sự tạo thành một hệ thống, một quần thể với mối
quan hệ, gắn bó mật thiết. Do đó, giá trị chung của toàn bộ QTDT được nâng
cao hơn, là một nhân tố quan trọng để các nhà quy hoạch du lịch căn cứ vào đó
vạch ra những chiến lược phát huy giá trị di tích một cách hợp lý, hiệu quả.

13


Chƣơng 3: Lịch sử Phố Hiến - Hƣng Yên qua hệ thống di tích lịch
sử văn hoá (47 trang)

Luận văn phác dựng lại phần nào về diễn tiến lịch sử miền đất Phố Hiến Hưng Yên trên cơ sở tổng hợp các nguồn tư liệu khai thác tại di tích và xung
quanh di tích. Lấy thời kỳ Phố Hiến – giai đoạn phát triển vàng son nhất của
vùng đất này làm mốc phân chia, lịch sử Phố Hiến - Hưng Yên được tác giả chia
làm 3 thời kỳ: tiền Phố Hiến, Phố Hiến, hậu Phố Hiến.
Trong giai đoạn tiền Phố Hiến, vị trí trọng yếu của vùng đất này về quân sự
được thể hiện rõ qua những sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra tại đây trong
các thời kỳ: khởi nghĩa Hai Bà Trưng, loạn 12 sứ quân và kháng chiến chống
quân Tống xâm lược năm 981, kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên
Mông lần thứ 2.
Giai đoạn phát triển của thương cảng Phố Hiến, vùng đất này nổi bật với vị
thế quan trọng trong hệ thống giao thương của Đàng Ngoài. Những điều kiện
thuận lợi trong và ngoài nước đã đưa Phố Hiến trở thành một thương cảng sầm
uất nhất của Đàng Ngoài trong các thế kỷ XVI – XVII. Trong thời kỳ này, Phố
Hiến còn là địa bàn quan trọng trên hành trình truyền bá đạo Thiên Chúa vào
Đàng Ngoài. Tại đây đã diễn ra “Công đồng” đầu tiên của Công giáo Việt Nam
– Công đồng Dinh Hiến - cũng như lễ phong linh mục người Việt đầu tiên.
Sau thời kỳ Phố Hiến, vùng đất này dần bị nông thôn hóa trở lại. Thế kỷ
XIX, việc triều Nguyễn đặt tỉnh lỵ của toàn tỉnh Hưng Yên tại đây cũng không
thể khôi phục lại được diện mạo đô thị huy hoàng của thương cảng khi trước. Sự
suy tàn của nhân tố kinh tế đã biến Phố Hiến từ một đô thị kinh tế thế kỷ XVI –
nửa đầu XVIII trở thành một đô thị hành chính – chính trị vào thế kỷ XIX.

14


CHƢƠNG 1
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÙNG PHỐ HIẾN – HƢNG YÊN
----------***-----------***----------DIÊN CÁCH, VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÙNG PHỐ HIẾN – HƢNG
YÊN Diên cách
Phố Hiến xưa - Thị xã Hưng Yên ngày nay là tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Yên,

nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 60 km theo hướng Đông Bắc, ở vào vị trí gần trung
tâm điểm châu thổ Bắc Bộ.
Cũng như mọi vùng miền khác trên châu thổ Bắc Bộ, vùng Phố Hiến Hưng Yên “là miền đất được giành giật từ biển do sức lao động bồi đắp cần cù
và nhẫn nại của sông Hồng qua hàng triệu năm” [148,111]. Theo kết quả nghiên
cứu mới nhất của các nhà địa chất thì châu thổ Bắc Bộ thực sự hình thành cách
đây khoảng 30.000 năm, “đó là kết quả của các quá trình địa chất cửa sông xảy
ra theo các chu kỳ cơ bản trong một chu kỳ kiến tạo thống nhất từ Pleistoxen
sớm đến Holoxen muộn (cách đây khoảng 3000 năm) [72,43]. Trên diễn trình
thời gian đó, một châu thổ thống nhất có dạng tam giác cân rộng lớn đã được
kiến lập với các thế hệ đồng bằng và châu thổ chồng gối lên nhau: “đồng bằng
Vĩnh Phúc (Pleistoxen muộn) bị đồng bằng – vũng vịnh Hải Hưng tuổi Holoxen
sớm - giữa (cách đây 6000 – 4000 năm) phủ lên hơn một nửa diện tích phía
đông của đồng bằng. Ranh giới phía Tây có hình cánh cung chạy từ Hà Đông
qua Bắc Ninh rồi vòng về Quảng Ninh, cả hai đồng bằng này lại bị phủ bởi đồng
bằng Thái Bình bắt đầu từ Holoxen muộn”[73,43]. Như vậy, đồng bằng Bắc Bộ
như một tam giác cân tiến dần ra phía biển, đỉnh thành tạo thứ nhất của nó chính
là Việt Trì (Phú Thọ), ngã ba sông Hồng – sông Đuống (Dâu Canh) là đỉnh thứ
hai và vùng Phố Hiến - Hưng Yên chính là đỉnh thứ ba [190,480]
Như vậy, có thể thấy rằng Phố Hiến – Hưng Yên là vùng đất rất cổ xưa, nó
đã được hình thành từ trước khi có những cuộc khai phá đồng bằng châu thổ đầu
tiên của người Việt cổ. Vì vậy mà lịch sử vùng đất này cũng được bắt đầu từ rất
sớm.

15


Đời Hùng Vương, Phố Hiến – Hưng Yên thuộc bộ Giao Chỉ. Trong hơn
một nghìn năm Bắc thuộc (179 TCN-938), quận huyện nước ta nhiều lần bị
chính quyền đô hộ thay đổi. Theo đó, diên cách vùng Phố Hiến - Hưng Yên
cũng có sự thay đổi theo. Thời thuộc Triệu và thuộc Hán, vùng Phố Hiến - Hưng

Yên ở vào đất huyện An Định, quận Giao Chỉ. Sang thời Tam Quốc và Lưỡng
Tấn, nhiều huyện bị cắt đất để lập thêm các huyện mới, huyện An Định thu hẹp
lại, trong khi đó huyện Chu Diên “không còn là đất huyện Chu Diên đời Hán
nữa, tức là nó không phải ở lưu vực sông Đáy nữa mà ở về tả ngạn sông Hồng”
[1,86]. Theo đó, Phố Hiến - Hưng Yên chuyển từ đất An Định sang thuộc đất
Chu Diên, quận Giao Chỉ. “Từ đời Ngô đến đời Tuỳ, huyện Chu Diên không
thay đổi vị trí một lần thứ hai nữa” [1,86]. Sang thế kỷ VII, nhà Đường đổi quận
Giao Chỉ thành An Nam đô hội phủ, gồm 8 huyện, trong đó có huyện Chu Diên
(hay Diên Châu). “Diên Châu hay huyện Chu Diên đời Đường gồm cả đất Tiên
Lữ ở tả ngạn sông Hồng, như thế thì cũng không khác gì Chu Diên đời Lương”
[1,97]. Như vậy, từ thế kỷ III cho đến khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam
Hán mở đầu kỷ nguyên độc lập tự chủ lâu dài cho dân tộc ta, diên cách miền
Phố Hiến - Hưng Yên không thay đổi, đều lệ thuộc vào đất huyện Chu Diên,
quận Giao Chỉ hay An Nam đô hộ phủ (đời Đường).
Thế kỷ X, miền đất này có tên gọi là Đằng Châu - địa bàn cát cứ của sứ
quân Phạm Bạch Hổ. Năm 1005, vua Lê Long Đĩnh đổi Đằng Châu thành phủ
Thái Bình. Năm 1010, sau khi lên ngôi hoàng đế, vua Lý Thái Tổ chia cả nước
thành 24 lộ, miền Hưng Yên ngày nay thuộc vào lộ Khoái. Song bên cạnh đó,
tên gọi châu Đằng vẫn được nhắc đến với tư cách là khu vực hành chính nhỏ
ngang với địa vị các huyện và vẫn lệ thuộc vào các châu lộ [1,121]. Như vậy,
đời Lý, miền Phố Hiến - Hưng Yên chính là đất châu Đằng thuộc lộ Khoái. Sang
thời Trần, năm 1249, cả nước được chia thành 12 lộ, miền đất này lại thuộc về
huyện Vĩnh Động, lộ Khoái Châu (hay Khoái Lộ). Đầu thế kỷ XV, nhà Minh
xâm lược và đô hộ nước ta. Về địa lý hành chính, nước ta bị đổi đặt làm quận
Giao Chỉ và đặt các châu huyện lệ thuộc vào 15 phủ và 5 châu lớn. Lộ Khoái
Châu và phủ lộ Long Hưng đời Trần gộp lại thành phủ Trấn Man. Theo đó, Phố
Hiến - Hưng Yên lệ thuộc vào phủ Trấn Man, quận Giao Chỉ. Sau khi
16



Lê Lợi đánh đuổi quân Minh xâm lược và khôi phục nền độc lập dân tộc, cả
nước được chia làm 5 đạo. Hưng Yên thuộc về Nam Đạo. Đến năm 1466, Lê
Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, Hưng Yên thuộc thừa tuyên
Thiên Trường. Năm 1469 đổi gọi là Sơn Nam. Phố Hiến - Hưng Yên đổi thuộc
vào huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, thừa tuyên Sơn Nam, sau thuộc vào Sơn
Nam Thượng từ năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741). Đến năm 1802, Gia Long lấy hai
trấn Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ lệ vào Bắc Thành.
Năm 1831, Minh Mệnh chia lại địa giới các trấn, phủ, đặt thành 18 tỉnh.
Tỉnh Hưng Yên được thành lập thống trị 2 phủ với 8 huyện. Vùng Phố Hiến Hưng Yên vẫn thuộc về đất huyện Kim Động, phủ Khoái Châu.
Tháng 8 năm 1946, thị xã Hưng Yên được thành lập. Vùng đất này chính
thức tách khỏi huyện Kim Động về mặt địa giới hành chính. Khi đó, thị xã được
chia thành hai khu phố Đẩu Lĩnh và Đằng Giang. Sau một thời gian sát nhập với
tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng, năm 1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập, thị
xã Hưng Yên trở thành tỉnh lỵ và là một trong 6 đơn vị hành chính cấp huyện,
thị của tỉnh. Hiện nay, thị xã Hưng Yên có tổng diện tích tự nhiên là 46,8 km 2,
số dân thường trú là 7,6 vạn dân, bao gồm 12 đơn vị hành chính:
Bảng 1.1: Diện tích, dân số các đơn vị hành chính trực thuộc thị xã Hƣng
Yên
(Nguồn: Bản đồ thị xã Hưng Yên 2004)

Tên đơ

STT
1
2
3
4
5
6
7

8
9
10

17

hành c
Phường Lam
Phường An
Phường Hiế
Phường Lê
Phường
Trung
Phường Min
Phường Hồ
Xã Bảo Khê
Xã Trung N
Xã Liên Ph


11
12

Xã Hồng N
Xã Quảng C
Toàn thị xã

Vị trí địa lý
Hưng Yên là tỉnh nằm giữa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ (điểm trung tâm
của châu thổ Bắc Bộ nằm tại thôn Dung, xã Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ trên vĩ

tuyến 20043’ và kinh độ 106006’) với cảnh quan sinh thái điển hình là ruộng
đồng bằng phẳng được bao bọc bởi hệ thống đê sông dày đặc và những bãi sông
màu mỡ chạy dọc sông Hồng và sông Luộc. Về hình dáng, Hưng Yên giống như
một lá cờ bay trước gió với những nếp nhăn là hệ thống sông ngòi ngang dọc.
Hay có thể nói Hưng Yên giống như một hình chữ nhật với các góc gần vuông.
Vùng Phố Hiến xưa - Hưng Yên nay nằm chính trên một góc gần vuông đó và ở
về phía tây nam của tỉnh.
Về ranh giới hành chính, vùng đất này nằm sát sông Hồng về phía Tây, đối
ngạn với huyện Duy Tiên (Hà Nam) bên hữu ngạn. Phía tây bắc và bắc, giáp các
xã Hùng Cường, Hiệp Cường, huyện Kim Động. Phía đông và đông nam giáp
các xã Nhật Tân, An Viên, Thủ Sỹ, Phương Chiểu, Tân Hưng và Hoàng Hanh
của huyện Tiên Lữ. Tính từ trung tâm thị xã đến ngã ba cửa Luộc – nơi sông
Hồng và sông Luộc giao nước - ước chừng khoảng 4 km theo đường chim bay.
Vùng đất này đã trải qua nhiều thay đổi về diên cách, song về cơ bản đây
vẫn là địa bàn có vị trí đặc biệt quan trọng đối với hệ thống giao thông đường
thuỷ của châu thổ Bắc Bộ. Là đỉnh của “hạ châu thổ”, Phố Hiến - Hưng Yên
nằm sát sông Hồng và được giới hạn bởi sông Luộc ở phía đông bắc và sông
Châu Giang (hiện nay đã bị lấp) ở phía tây nam. Thuận đường sông Hồng xuôi
xuống phía đông nam có thể tiến ra Vị Hoàng (Nam Định ngày nay) và đến các
địa phương khác thuộc Sơn Nam Hạ xưa theo đường sông Châu Giang. Theo
tuyến sông Luộc, từ Phố Hiến - Hưng Yên có thể tới Hải Dương, An Quảng.
Như vậy, theo các tuyến đường sông chính, Phố Hiến - Hưng Yên có khả năng
kết nối với hầu hết các địa phương ở vùng hạ châu thổ.
Ngoài ra, vị trí của vùng đất này còn có ý nghĩa chiến lược đối với Thăng
Long Hà Nội – trung tâm chính trị, kinh tế lớn nhất của châu thổ Bắc Bộ từ năm
18


1010. Các địa phương ở hạ châu thổ muốn lên Thăng Long theo đường thuỷ đều
phải đi qua Phố Hiến. Mọi tuyến giao thương liên khu vực từ vịnh Bắc Bộ lên

Thăng Long đều phải qua Phố Hiến. Rõ ràng sự kiện Lý Công Uẩn dời đô về
Thăng Long đã góp phần nâng tầm ý nghĩa chiến lược của vùng Phố Hiến lên
thêm một bước. Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc nhận định “Vào đầu thế kỷ XI,
khi Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long thì khu vực Phố
Hiến đã trở thành đầu mối giao thông quan trọng nhất nối liền kinh đô với các
miền đất nước, vì thế đương nhiên nó trở thành cửa ngõ quan trọng hàng đầu
ảnh hưởng trực tiếp đến sự an nguy của quốc gia cả về kinh tế và quốc phòng”.
[116,17]. Đúng vậy, vị trí chiến lược về quốc phòng của vùng đất này đã được
chứng minh qua hàng loạt các sự kiện quân sự diễn ra tại đây trong các thế kỷ I,
thế kỷ X, XIII, XVIII.
Thế kỷ XVI – XVII, vị thế chiến lược về kinh tế của khu vực này được
khẳng định với việc Phố Hiến trở thành thương cảng sầm uất vào bậc nhất của
Đàng Ngoài. Nằm án ngữ cửa ngõ vào Thăng Long, mọi thuyền buôn nước
ngoài từ vịnh Bắc Bộ dù đi theo cửa sông Thái Bình, sông Hồng (cửa Ba Lạt)
hay cửa sông Đáy (cửa Rokbo) muốn lên kinh thành cũng đều phải qua Phố
Hiến. Điều này được minh chứng rõ rệt qua hệ thống Bản đồ sông Đàng Ngoài
thế kỷ XVII (BĐ1.4, BĐ1.5) do các thương nhân, nhà hàng hải Hà Lan, Anh
Quốc vẽ khi đến buôn bán ở Bắc Bộ cũng như mô tả trong các tập du ký của nhà
hàng hải William Dampier, JB Tavernier viết vào thế kỷ XVII khi các tác giả
này có cơ hội du hành đến Đàng Ngoài.
Theo các sử liệu này, thương nhân phương Tây đến buôn bán ở Đàng Ngoài
đều từ vịnh Bắc Bộ đi vào theo lối cửa sông Thái Bình đến buông neo tại
Domea (Tiên Lãng, Hải Phòng) và dùng thuyền nhỏ theo đường sông Luộc đến
Phố Hiến rồi vào sông Hồng trước khi lên Thăng Long. Vị trí của Phố Hiến theo
William Dampier mô tả thì “ở cách nơi chúng tôi để tàu (tức Domea) độ 60 dặm
(96 km) và cách biển chừng 80 dặm (128 km)” [45,35]. Do vậy, đây là vị trí lý
tưởng để thiết lập các trạm tuần tra thu thuế. Có lẽ đây chính là lý do quan trọng
nhất quyết định đến việc chính quyền chúa Trịnh đã đặt Hiến ty của toàn vùng

19



Sơn Nam ở Phố Hiến để kiểm soát và thu thuế của các thương thuyền ngoại
quốc.
Trong tập du ký của William Dampier, nhà hàng hải người Anh cũng ghi
chép rõ điều này: “Quan tổng trấn hoặc viên phó quan cấp giấy thông hành cho
tất cả mọi thuyền bè đi ngược xuôi trên sông. Người ta không cho phép một
thuyền nào đi mà không có giấy thông hành” [45,37]. Vào thế kỷ XIX, Nguyễn
Siêu cũng khẳng định rõ chức năng tuần ty, thu thuế của Phố Hiến trong tác
phẩm Phương Đình địa dư chí: “Trấn Sơn Nam thời Lê Trung Hưng còn có Đại
An hải khẩu (thuộc tỉnh Nam Định), thuyền buôn nước ngoài đến đây có quan
khám xét nhưng kém hơn Cửa Hiến ở huyện Kim Động”. PGS Nguyễn Văn
Kim trong công trình nghiên cứu Quan hệ của Nhật Bản và Đông Nam Á thế kỷ
XV – XVI cũng nhận định rõ: “Đối với Đại Việt, thuyền của các thương nhân
ngoại quốc đến buôn bán với Đàng Ngoài phải đi theo hệ thống sông Hồng và
thường dừng lại ở khu vực cửa sông hay Phố Hiến để kiếm tra hàng hoá và định
mức thuế” [94,171]. Như vậy có thể thấy, không chỉ là đô thị kinh tế, Phố Hiến
trong thế kỷ XVI-XVII còn là đô thị hành chính, trung tâm chính trị của toàn
vùng Sơn Nam rộng lớn. “Nhìn dưới góc độ an ninh, Phố Hiến còn như một
trạm kiểm soát vòng ngoài bảo vệ kinh đô Thăng Long, điều tiết các hoạt động
ngoại thương và ở một mức độ nào đó có thể đại diện cho chính quyền Đàng
Ngoài giao dịch với thương nhân ngoại quốc. [94,22]
Vị trí cửa ngõ giao thương đã biến Phố Hiến thành đầu mối gặp gỡ, trung
chuyển của các luồng ngoại thương và nội thương lớn nhất Đàng Ngoài. Hàng
hoá của Đàng Trong hay các địa phương khác muốn lên Thăng Long đều qua
Phố Hiến. Ngược lại, hàng hoá của Đàng Ngoài muốn vận chuyển ra nước ngoài
hay vào Đàng Trong cũng đều tập kết tại Phố Hiến. Điều này càng được minh
chứng rõ ràng khi các nhà nghiên cứu đã tìm ra được mối quan hệ giữa Phố
Hiến với các thị trường xa thông qua các thương cảng Hội Triều (Thanh Hoá),
Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An) [40,210-214] và các phố cảng khác ở Đàng

Trong. [30,188-195].
Với vị trí chiến lược về kinh tế này và các nguyên nhân khách, chủ quan
khác, Phố Hiến đã trở thành thương cảng sầm uất của Đàng Ngoài suốt hơn hai
20


thế kỷ. Vị trí địa lý đặc biệt của khu vực này đã có ảnh hưởng lớn đến sự hình
thành, phát triển của QTDT tại đây. Có thể khái lược trên ba điểm chính:
1> Phố Hiến - Hưng Yên gần như được bao bọc bởi hai mặt sông. Dấu ấn sông
nước đã in đậm trong tín ngưỡng của người dân vùng này. Điều này lý giải
tại sao số lượng các đền thờ thuỷ thần, thần hàng hải lại chiếm đa số trong
QTDT. Về sự phân bố, phần nhiều di tích cũng nằm ven sông nước, ven các
dòng chảy cổ và bên các đầm, vực nước lớn.
2> Phố Hiến - Hưng Yên là địa bàn có ý nghĩa chiến lược về quân sự. Dấu ấn
chiến trận đã để lại tại đây một hệ thống đền thờ các nhân vật lịch sử cùng
với hệ thống các truyền thuyết dân gian phong phú, thống nhất về nhiều thời
kỳ khác nhau trong tiến trình lịch sử dân tộc. Rất nhiều di tích trong đó được
xây dựng trên chính nền đại bản doanh của các đội quân từng đóng quân tại
đây hoặc xây dựng để tưởng niệm những chiến công lớn đã xảy ra trên địa
bàn này.
3> Phố Hiến - Hưng Yên là địa bàn có ý nghĩa chiến lược về kinh tế. Sự phát
triển thương mại hàng hoá của vùng đất này, đặc biệt trong giai đoạn thế kỷ
XVI – XVII đã kéo theo hệ quả tất yếu là sự giao lưu về văn hoá. Sự đa dạng
về tín ngưỡng, tôn giáo, sự đa dạng về phong cách kiến trúc của QTDT lịch
sử cho thấy dấu ấn đậm nét của quá trình giao lưu văn hoá trên địa bàn này
trong lịch sử.
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÙNG PHỐ HIẾN – HƢNG
YÊN Đặc điểm phát triển địa hình
Miền đất được hình thành do sự bồi đắp của sông Hồng và tác
động của hệ thống đê sông.

Phố Hiến - Hưng Yên là đỉnh thành tạo thứ ba của tam giác châu thổ Bắc
Bộ. Miền đất này được bồi đắp hoàn toàn do lượng phù sa lớn của sông Hồng đổ
về từ thượng lưu qua hàng ngàn năm. Khi chưa có hệ thống đê lớn và hoàn
chỉnh chạy dọc sông, nước lũ hàng năm của sông Hồng tràn qua bờ sông chính
và các sông nhánh. Một phần vật liệu đọng lại ngay ven sông tạo thành các gờ
sông. Cũng như trên toàn bộ đồng bằng châu thổ, gờ sông Hồng tại Phố Hiến Hưng Yên cũng tạo ra “một địa thế tương đối cao so với các vùng bao quanh (từ
21


×