Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Sự gắn bó mẹ con sớm và ảnh hường của nó đến quá trình phát triển tâm lý của trẻ em 2 3 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.98 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHAN THỊ NGỌC

SỰ GẮN BÓ MẸ CON SỚM VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐẾN
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ 2-3 TUỔI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội-2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

PHAN THỊ NGỌC

SỰ GẮN BÓ MẸ CON SỚM VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ
ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA TRẺ 2-3 TUỔI

Chuyên ngành Tâm lý học
Mã số: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Trần Thu Hương


Hà Nội-2014


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Người cam đoan

Phan Thị Ngọc


Lời cảm ơn
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc đến
PGS.TS Trần Thu Hương - người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đang công tác, giảng
dạy tại khoa Tâm lí học – Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội đã giúp đỡ, giảng dạy và cung cấp cho tôi rất nhiều kiến
thức trong hai năm học vừa qua.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các bạn bè cùng khoá đã giúp đỡ tôi
theo sát các ca và cung cấp các thông tin cần thiết cho đề tài, cảm ơn cha mẹ
hai trẻ tại Hà Nội đã ủng hộ và giúp đỡ tôi nhiệt tình trong quá trình quan sát.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn sự quan tâm của gia đình, bạn bè và người
thân đã ủng hộ, khuyến khích và động viên tôi để bản Luận văn được hoàn
thành.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày


tháng
4

năm 2

Học viên

Phan Thị Ngọc


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU …………………………………………………………………..1
Chƣơng 1

: CƠ SỞ

1.1.Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................

. . . Những nghiên cứu về gắn bó mẹ con sớ
. .2.

Những n

1.2.Các khái niệm cơ bản ................................

.2. . Khái niệm Gắn bó ................................

.2.2. Gắn bó mẹ con sớm ............................


1.3.Quá trình phát triển của trẻ từ 2 đến 3 tu

.3. . Sự phát triển về vận động .....................

.3.2. Sự phát triển về ngôn ngữ ....................
1.3.3. Sự phát triển tâm lý ......................................................................

.3.4. Phát triển quan hệ xã hội ....................

.3.5. Ảnh hưởng của gắn bó mẹ con sớm tớ
.........................................................................................................................

1.4.Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự gắn bó mẹ
Chƣơng 2 : TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................

2.1.Tổ chức nghiên cứu ..................................

2.2.Mẫu nghiên cứu ........................................
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN

3.1.Trƣờng hợp 1: ...........................................
3.1.1. Thông tin chung ............................................................................
3. .2. Lý do và yêu cầu can thiệp đối với L ............................................
3.1.3. Bức tranh ban đầu về vấn đề của trẻ thông qua hỏi chuyện lâm
sàng .................................................................................................................

3.1.4 Các phân tích từ quan sát lâm sàng ..............................................
3.1.5 Luận bàn về trường hợp bé L ........................................................



3.2. Trƣờng hợp 2..................................................................................... 70
3.2.1

Thông tin chung..........................................................................70

3.2.2

Lý do và yêu cầu can thiệp......................................................... 69

3.2.3

Bức tranh ban đầu về vấn đề của trẻ thông qua hỏi chuyện lâm

sàng.......................................................................................... Error! Bookmark not defined.
3.2.4

Các phân tích từ quan sát lâm sàng..........................................74

3.2.5

Luận bàn về trường hợp bé Song H.......................................... 82

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................94
PHỤ LỤC…………………………………………………………………...97


MỞ ĐẦU
1.


Lý do chọn đề tài

Hiện nay, trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, tỷ lệ trẻ rối
nhiễu tâm trí có xu hướng ngày càng gia tăng. Điều này được thể hiện rõ qua
các số liệu điều tra dịch tễ học trên thế giới. Cụ thể là, chỉ tính riêng ở trẻ em,
các báo cáo chính thức của tổ chức Y tế thế giới (WHO) đều cho thấy tỷ lệ
tăng từ 15% đến 22% ở các nước phát triển và từ 13% đến 20% ở các nước
đang phát triển (WHO, 2005). Tại Việt Nam, tác giả Trần Tuấn và cộng sự đã
tiến hành sử dụng bộ công cụ sàng lọc dịch tễ học SDQ25 của WHO dành cho
trẻ em trên 1000 trẻ 8 tuổi và phát hiện tỷ lệ nghi ngờ bị rối nhiễu tâm trí
khoảng 14% - 20% [18, tr.2]. Theo số liệu được đưa ra tại hội thảo “Can thiệp
và phòng ngừa các vấn đề sức khỏe tinh thần trẻ em Việt Nam” diễn ra tại Hà
Nội ngày 13/12/2007, điều tra của Bệnh viện Nhi Trung ương và một số
nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng, tỷ lệ có rối nhiễu tâm lý trong trẻ em ở tuổi
học đường ở các vùng miền nước ta dao động trong khoảng 15 - 30%. Trong
các nghiên cứu đã triển khai, phần lớn những rối nhiễu tâm lý ở trẻ đã được
xếp loại theo các tiêu chuẩn chẩn đoán quốc tế. Tuy nhiên, nhiều rối nhiễu
không có đủ các triệu chứng lâm sàng để được phân loại nhưng rất ảnh hưởng
tới sự phát triển tâm lý của trẻ, trong số đó có những rối loạn với các dấu hiệu
liên quan đến tiền sử bị chia tách với mẹ sớm, có vấn đề trong quan hệ gắn bó
mẹ con sớm.
Trên thực tế, các nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam đã chỉ ra sự
quan trọng của gắn bó trong những năm đầu đời của trẻ; đồng thời cho thấy sự
thiếu gắn bó, gắn bó đứt gãy hoặc sự chia tách, chia ly có tác động lớn và lâu
dài đến sự phát triển tâm lý của trẻ. Các thực nghiệm tâm lý từ lâu tại các

1



nước phương Tây đã chỉ ra rằng: nếu trẻ bị cách ly, thiếu gắn bó, chia tách với
người chăm sóc sẽ dẫn tới những rối loạn trong ứng xử của trẻ, quá trình xã
hội hoá cá nhân bị ảnh hưởng gây khó khăn trong hoà nhập xã hội. Bowbly đã
có thể khẳng định có rất nhiều lý do để tin rằng sự cách ly kéo dài một đứa bé
với mẹ nó hoặc mối quan hệ mẹ con có vấn đề trong 5 năm đầu tiên là nhân tố
chính gây nên phạm pháp sau này.[20, tr.100]. Goldfarb tóm tắt nhân cách của
những trẻ em này là: “Cư xử hung bạo, thích các trò giải trí, thiếu kiềm chế
không thấy ở chúng những dạng bình thường về lo lắng và ức chế. Những sự
đồng nhất hóa bị hạn chế và những liên hệ tình cảm hời hợt và không bền
chặt.” [20, tr.99]. Hậu quả về mặt thể chất của việc thiếu vắng mẹ đã được
các nhà tâm lý, các chuyên gia trong lĩnh vực chăm chữa sức khoẻ bà mẹ và
trẻ em cảnh báo. Có thể tóm tắt sự cần thiết khẩn cấp về sự gắn bó mẹ con, sự
có mặt của mẹ bên con qua những câu sau đây của Bowlby vừa giản dị vừa
thuyết phục: “Ấu nhi và nhi đồng cần được nuôi dưỡng trong bầu không khí
ấm cúng và được gắn bó với mẹ bằng mối liên hệ tình cảm thân thiết liên tục,
nguồn thỏa mãn và vui thú cho cả mẹ lẫn con. Đứa trẻ cần được cảm thấy
mình là đối tượng thích thú và tự hào của mẹ và người mẹ có nhu cầu cảm
thấy mình được phong phú thêm về nhân cách thông qua nhân cách của con;
hai nhân cách đó đều có nhu cầu được đồng nhất hóa một cách mật thiết với
nhau…ở đó có những quan hệ sinh động giữa con người làm biến đổi tính
cách cả mẹ và con.[20, tr.87]
Mối quan hệ đầu tiên, thân mật nhất của trẻ bị đứt gãy, thay vào cảm
giác an toàn cần thiết cho sự phát triển của một đứa trẻ là sự hụt hẫng mất
mát. Cuộc sống của trẻ nhỏ hoàn toàn phụ thuộc vào người lớn, do vậy trẻ có
cảm giác an toàn hay không phụ thuộc vào việc trẻ có được sự gắn bó với
người chăm sóc thân thuộc đó hay không. Trẻ bị chia tách hay sự gắn bó bị

2



đứt gãy thường do bố mẹ, người chăm sóc không ý thức được tầm quan trọng
của sự gắn bó, chất lượng gắn bó, mức độ gắn bó cho đến khi cảm thấy sự bất
thường ở con.
Tại Việt Nam trên các phương tiện truyền thông, các chuyên gia, bác sĩ
nhi khoa đã lên tiếng báo động về sự nghiêm trọng của thiếu hụt tình yêu
thương, thiếu hụt quan tâm chăm sóc của bố mẹ đến trẻ nhỏ, gây nên những
“nguy cơ về tâm thần”, các căn bệnh như “trầm cảm vắng mẹ”, “thiếu sự gắn
bó”… [dẫn theo 1,8,18]. Thực tế cho thấy, nhiều cha mẹ và gia đình đã chủ
quan cho rằng trẻ nhỏ chưa nhận thức được điều gì nên sao nhãng trong việc
chăm sóc, gần gũi trẻ, giao việc chăm sóc, biểu đạt tình yêu thương lại cho
ông bà hay cho người giúp việc trong gia đình. Hoặc một số bà mẹ lại gắn bó,
bao bọc con quá mức mà không cho con cơ hội được trải nghiệm với không
gian và thời gian bên ngoài. Những quan điểm sai lầm đó đã ảnh hưởng mạnh
mẽ đến sự phát triển cảm xúc, cảm giác an toàn cũng như sự khoẻ mạnh về cả
thể chất lẫn tâm lý của trẻ.
Việc nghiên cứu những trẻ có vấn đề về gắn bó mẹ con sớm là hết sức
cần thiết, giúp các nhà chuyên môn, các bậc cha mẹ, những người trực tiếp
chăm sóc trẻ có một cách nhìn rõ ràng hơn, đầy đủ hơn về những khó khăn mà
trẻ gặp phải, về các cách thức làm giảm thiểu những khó khăn ấy và về
phương thức nâng cao chất lượng mối quan hệ gắn bó mẹ con sớm trong quá
trình phát triển của trẻ trong những năm tháng đầu đời. Với những lý do trên,
tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Sự gắn bó mẹ con sớm và ảnh hưởng của nó
đến quá trình phát triển tâm lý của trẻ 2-3 tuổi”.
2.

Mục đích nghiên cứu

Phát hiện những biểu hiện của sự gắn bó mẹ con sớm; nghiên cứu ảnh
hưởng của sự gắn bó mẹ con sớm đến quá trình phát triển tâm lý của trẻ 2-3


3


tuổi. Trên cơ sở đó, đề xuất các kiến nghị, các giải pháp phù hợp cho các bậc
phụ huynh, những người chăm sóc trẻ cũng như những người làm công tác trợ
giúp tâm lý trong việc chăm sóc, can thiệp và làm giảm thiểu những khó khăn
tâm lý mà trẻ 2-3 tuổi có thể gặp phải trong gắn bó mẹ con sớm.
3.

Đối tƣợng nghiên cứu

Những biểu hiện của sự gắn bó mẹ con sớm và ảnh hưởng của gắn bó
mẹ con sớm đến quá trình phát triển tâm lý trẻ 2-3 tuổi .
4.

Nhiệm vụ nghiên cứu

4.1 Nhiệm vụ nghiên cứu lý luận
Xây dựng cơ sở lý luận về sự gắn bó mẹ con sớm ảnh hưởng đến quá
trình phát triển tâm lý ở trẻ; Hệ thống hoá và làm rõ những khái niệm căn bản
của đề tài.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn
Phân tích hai ca lâm sàng điển hình, nhằm:
- Mô tả những biểu hiện lâm sàng quan sát thấy ở trẻ có khó khăn do sự
gắn bó mẹ con sớm.
-

Phân tích các ảnh hưởng của sự gắn bó mẹ con sớm đến quá trình

phát triển tâm lý của 2 trẻ được nghiên cứu.

-

Đề xuất các giải pháp phù hợp trong chăm sóc, can thiệp và làm giảm

thiểu khó khăn tâm lý của trẻ trong các trường hợp này.
5.

Khách thể nghiên cứu

Hai trường hợp trẻ em có vấn đề liên quan đến sự gắn bó mẹ con sớm
6.

Phạm vi nghiên cứu

Trong điều kiện và thời gian hạn hẹp, chúng tôi giới hạn nghiên cứu
của mình trong phạm vi sau:

4


-

Về địa bàn nghiên cứu: Địa bàn Hà Nội

Về nội dung: Nghiên cứu các biểu hiện của sự gắn bó mẹ con sớm,

chỉ ra các quá trình tâm lý và các cơ chế phòng vệ của trẻ có vấn đề liên quan
đến gắn bó mẹ con sớm, xem xét các ảnh hưởng của gắn bó mẹ con sớm đến
sự phát triển tâm lý của trẻ 2-3 tuổi.
7. Giả thuyết nghiên cứu

Các kiểu gắn bó kháng cự (bất an-chống đối) hay an toàn đến mức
bám dính phụ thuộc vào nhau sẽ để lại những ảnh hưởng nhất định đến quá
trình phát triển của trẻ, đặc biệt làm chậm sự phát triển ngôn ngữ và gây ra
những rối loạn tâm vận động ở trẻ nhỏ. Đối với những trẻ này, có thể tìm thấy
sự cắm chốt, thoái lui, hạn chế khả năng giao tiếp với xã hội.
8.

Phƣơng pháp nghiên cứu

-

Phương pháp phân tích tài liệu

-

Phương pháp quan sát lâm sàng

-

Phương pháp hỏi chuyện lâm sàng

-

Phương pháp phân tích sản phẩm

-

Nghiên cứu trường hợp

-


Phân tích lịch sử cuộc đời

5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu về gắn bó mẹ con sớm trên thế giới
Khi xem xét các nghiên cứu về sự chia tách mẹ con, chúng ta thấy vấn
đề được phát triển, mở rộng với tư cách như một mặt đối lập, một hệ quả của
chất lượng mối quan hệ gắn bó mẹ con. Như vậy, sự gắn bó mẹ-con có thể
được xem như là tiền đề nghiên cứu quan trọng trước khi đánh giá các vấn đề
về chia ly, chia tách ở một đứa trẻ. Có thể nói, mối quan hệ gắn bó mẹ con có
một tầm quan trọng không thể bàn cãi; bởi vậy, các nhà tâm lý học trên thế
giới đã quan tâm chú ý nghiên cứu đề tài này từ lâu. Freud (1933) cho rằng
cảm xúc gắn bó của trẻ đối với mẹ sẽ là tiền đề cho tất cả mọi mối quan hệ
của trẻ về sau. Những nghiên cứu theo tiếp cận phân tâm học sau này đã củng
cố thêm lý thuyết của Freud. Các chuyên đề tiêu biểu về quan hệ đối tượng
(Anna Freud, 1936; Winnicott, 1971), về gắn bó (John Bowlby, 1991; Réné
Spitz, 1946; Margaret Mahler, 1960), về người mẹ đủ tốt (Winnicott, 1975) đã
lý giải rất nhiều vấn đề trong mối quan hệ gắn bó mẹ con và trong tiến trình
phát triển của trẻ.[dẫn theo 13]
Một trong số những luận điểm chính của Anna Freud (năm 1941) cho
thấy các tuyến đường chủ yếu của sự phát triển: từ lệ thuộc đến tự chủ về cảm
xúc và có những quan hệ với đối tượng kiểu người lớn. Các tuyến đường này
gồm nhiều giai đoạn, trong đó, hai giai đoạn đầu tiên là hai giai đoạn mà sự
chia tách diễn ra sẽ bộc lộ rõ nét nhất các rối loạn của trẻ:
+


Từ cộng sinh, ái kỉ, tự kỉ dần dần tách ra khỏi mẹ, giảm dần tình trạng

khép kín. Trong giai đoạn này, bất kì một sự chia tách nào trong quan hệ mẹ con (hoặc trẻ với người chăm sóc chính) cũng đều gây ra lo hãi cho trẻ.

6


+

Sự tách dần bản thân khỏi đối tượng: Trẻ dần tách biệt được cái Tôi

của nó với đối tượng, lúc đầu còn mờ nhạt, sau rõ dần, trong một khía cạnh
nào đó, đây cũng là sự tiếp nối sau cộng sinh. Nếu có tác động xấu ở giai
đoạn này có thể dẫn tới việc rối loạn sự hình thành cái Tôi [dẫn theo 13].
Có thể nói sự kiện chia tách mẹ con sớm, ứng với từng giai đoạn, sẽ
gây lo hãi, làm rối loạn sự hình thành cái Tôi. Các triệu chứng của nó được
giải thích là rối loạn tư duy, ngôn ngữ do cấu trúc của cái Tôi bị tan vỡ; duy
kỷ quá mức, tự cao, tự đại hoặc ngược lại là mặc cảm tự ti, giải thể nhân cách
nếu năng lượng tâm thần tập trung quá mức vào bản thân [dẫn theo 35].
Winnicott, bác sĩ nhi khoa, nhà tâm thần học, tâm lý học người Anh có
đóng góp rất lớn cho hệ thống lí thuyết của Phân tâm học, đặc biệt là lí thuyết
về “Mối quan hệ đối tượng” (1971). Ông cho rằng con đường tất yếu để làm
người, làm chủ thể phải phát xuất từ quan hệ Mẹ Con. Người Mẹ là bài học
đầu tiên và cơ bản nhất, cho phép đứa con kiến dựng một nhân cách vững
mạnh. Chính người Mẹ tạo điều kiện thuận lợi cho đứa con chuyển hóa từ từ,
trên con đường thành nhân, phát triển khoẻ mạnh cả về thể chất lẫn tâm lý
[dẫn theo 13].
Tư tưởng của D.W. Winnicott (1971/1975/2004) được tóm lược trong
những điểm sau đây [30, tr15]:

Thứ nhất, sự có mặt tích cực của người Mẹ - hay một người thay thế
Mẹ - bên cạnh đứa con là con đường tất yếu, phải có, trong ba năm đầu đời,
để đứa con có cơ năng trở thành một chủ thể tự tồn, độc lập vào tuổi trưởng
thành.
Thứ hai, ngay lúc đầu, nhất là vào lứa tuổi từ hai tháng trở lên, khi đứa
bé có khả năng "sống một mình, chơi một mình" trong một vài khoảnh khắc,

7


tách rời ra khỏi vòng tay ôm của mẹ, đó là dấu hiệu cụ thể, khách quan và rõ
ràng cho chúng ta thấy : đứa bé đang ở trên tiến trình học tập trưởng thành.
Thứ ba là điều kiện do bà mẹ tạo nên. Sở dĩ đứa con bắt đầu biết sống
một mình, làm chủ thể, là nhờ bà mẹ đã và đang có mặt tích cực với trẻ, từ
ngày trẻ mới sinh ra. Nhờ đó, trẻ học nhìn, học nghe, học tiếp xúc ... Nhờ mẹ
có mặt bên cạnh con, gắn bó với con, cho nên đứa con sẽ từ từ phát triển như
một chủ thể sinh động.
Thứ tư, giúp người mẹ hiểu được một cách rõ ràng cụ thể rằng mình
phải "làm" những gì, khi có mặt một cách tích cực bên cạnh đứa con, D.W.
Winnicott (1971) đã đề xuất ba chiều hướng tác động, ba hình thức quan hệ
với đứa con. Đó là Bế ẵm, Ôm ấp và Biểu tượng về đối tượng.
Winnicott cho rằng để trẻ em có thể phát triển tốt, khoẻ mạnh, người
mẹ phải “đủ tốt”' để gắn kết với trẻ bằng “tình mẫu tử nguyên phát”. Người
mẹ đủ tốt đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ trẻ khỏi những ý nghĩ lo lắng,
những đe doạ trong giai đoạn mà cái Tôi của trẻ chưa chín muồi. Và người mẹ
đủ tốt – không phải là người mẹ hoàn hảo - có những thất bại trong việc đáp
ứng hoàn toàn nhu cầu của trẻ. Trẻ hoặc phải học dần cách tha thứ, điều chỉnh
cái Tôi của bản thân hoặc ở nó gia tăng sự lo lắng về việc bị chia tách.
Winnicott thừa nhận rằng yếu tố quan trọng cho sự phát triển nhân cách của
trẻ chính là mối quan hệ gắn bó mẹ con trong những giai đoạn đầu [30, tr16].

Lý thuyết về gắn bó và những rối loạn gắn bó đã được John Bowlby
phát triển từ những năm 1950 (J. Bowlby, 1969/1973/1978). Dựa trên giả
thuyết cho rằng sự gắn bó sớm (từ 0 – 3 tuổi) là hành vi được lập trình sẵn đặc
biệt ở con người, Bowlby coi hệ thống hành vi gắn bó được phát triển nhằm
giúp trẻ sơ sinh tăng thêm cơ hội sống còn và được bảo vệ. Việc hình thành
nên sự bảo vệ này chủ yếu trên cơ sở sự gần gũi cơ thể và sự tiếp xúc giữa mẹ

8


và trẻ trong những năm đầu đời. Nếu sự bảo vệ này bị phá vỡ hoặc không
được tạo ra, thì một số triệu chứng đặc trưng sẽ xuất hiện ở cả bố/mẹ và trẻ;
theo đó, trẻ sẽ phát triển một loạt những phản ứng hoặc những hành vi xã hội
đặc thù, bất thường. Một cách cụ thể, những trẻ có rối loạn gắn bó với
mẹ/người chăm sóc thường có xu hướng giải quyết mọi xung đột nội tâm
bằng những hành vi gây hấn với người khác hoặc tự xâm hại làm tổn thương
đến mọi tổ chức tâm thần của bản thân. Trẻ đồng thời vừa kết dính với
mẹ/người chăm sóc, vừa bị bỏ rơi bởi mẹ/người chăm sóc [30, tr.5-6]. Đặc
điểm chủ yếu của những trẻ có rối loạn gắn bó chính là việc giảm thiểu
nghiêm trọng khả năng đáp ứng cảm xúc xã hội một cách thích đáng.
Margaret Mahler đã cung cấp một nền tảng về học thuyết quan hệ đối
tượng . Theo bà, ở 3 năm đầu đời, “sự ra đời tâm lý” (Psychological birth) của
một trẻ diễn ra qua một số giai đoạn được gọi là quá trình chia tách-cá thể hoá
(Separation-Individuation) (Mahler, M. 1975). Chất lượng của mối quan hệ
đối tượng truyền đạt một thông điệp quan trọng về giá trị của trẻ và tính đáng
tin cậy ở người khác. Qua kinh nghiệm với người chăm sóc, trẻ phát triển một
biểu tượng bên trong (Internal representation) về mối quan hệ này. Những trẻ
có trải nghiệm về sự chăm sóc ấm áp và nhạy cảm sẽ nội tâm hoá một hình
ảnh cha mẹ yêu thương – “đối tượng tốt” - và bản thân trẻ cũng được xem như
một đứa trẻ đáng yêu đối với cha mẹ. Ngược lại, những trẻ có trải nghiệm về

cha mẹ kém yêu thương sẽ nội tâm hoá một hình ảnh người chăm sóc trẻ đầy
giận dữ, chối bỏ trẻ - “đối tượng xấu” – và xem trẻ như là đối tượng không có
giá trị và không có khả năng tạo nguồn cảm hứng yêu thương (Mahler, 1975).
René Spitz cũng cố gắng làm rõ tính đúng đắn của Phân tâm học trong
nghiên cứu sự phát triển của trẻ nhỏ. Sự thiếu thốn tình yêu trong quan hệ mẹ
-

con đối với trẻ là một tổn thương lớn trong quá trình phát triển tâm lí.

9


Những nghiên cứu của Spitz và Wolf (1935) tại nhà trẻ mồ côi và tại trại giam
cho thấy, cảm giác an toàn của trẻ nhờ đôi bàn tay mẹ có liên quan đến việc
tập đi. Và sự âu yếm tình cảm khi người mẹ gọi con đã làm cho con ham nói,
ham đi. Những nghiên cứu về trẻ em có hội chứng “vắng mẹ” (hospitalism)
hay trẻ bị cách li quá lâu với cha mẹ do chiến tranh cũng chỉ ra các rối loạn
tâm lí trẻ em, mà biểu hiện điển hình là chứng nhiễu tâm, kém thích nghi xã
hội [19, tr35]. Sự kém phát triển thể chất ở trẻ em và những rối loạn tâm lí của
chúng đều có nguyên nhân từ sự thiếu hụt giao tiếp ở những năm tháng đầu
đời, đặc biệt là những thiếu hụt giao tiếp với mẹ. Hậu quả của sự xa cách đã
được Spitz chia thành hai loại: thứ nhất, một số trẻ dần dần tách khỏi những
liên hệ xung quanh, chúng không nhận thấy sự khác nhau trong ứng xử giữa
người thân và người lạ. Thứ hai là, trẻ biểu lộ những nhu cầu khát khao về
tiếp xúc, chúng vồ vập với những người mà chúng không quen biết. Như vậy,
năng lực liên hệ của một cá nhân phụ thuộc vào chất lượng của những gắn bó
mà cá nhân đó có được trong tuổi thơ ấu [20, tr46].
Đến năm 1946, Spitz tiếp tục có thêm mô tả về một dạng khác của rối
loạn tâm thần ở trẻ nhỏ - rối loạn gắn bó, với tên gọi: trầm cảm vắng mẹ
(anaclitic depression). Dạng rối loạn này xảy ra chủ yếu ở trẻ nhỏ khi vắng mẹ

quá 3 tháng trong thời gian từ 6 đến 12 tháng tuổi. Sự vắng mẹ gây ra những
triệu chứng rối loạn về cả thể chất và tâm lý cho trẻ như tự cô lập, tránh tiếp
xúc xã hội, sụt cân, khó ngủ, từ chối ăn, chậm phát triển tâm vận động, dễ bị
nhiễm khuẩn, tự kích thích bằng những hành vi rập khuôn và có ánh nhìn xa
xăm [21, tr.101].
Sally Provence và Rose Lipton (1962), khi khảo sát sự liên hệ mẹ con ở
trẻ sơ sinh khỏe mạnh được nuôi tại những nhà trẻ mồ côi có mức chăm sóc
đúng đắn về y tế và thể chất, nhưng lại thiếu vắng người chăm sóc tinh thần,

10


thấy rằng: trẻ lớn lên trong điều kiện này không tỏ dấu hiệu bất thường ít nhất
ở 3 tháng đầu đời. Chúng khóc để được chú ý, mỉm cười và phát ra âm thanh
khi thấy cô bảo mẫu, nép vào người họ khi được bế, tỏ ra thờ ơ và không quan
tâm đến giao tiếp xã hội. Chúng gặp khó khăn trong việc tạo ra các mối quan
hệ cá nhân gần gũi và có xu hướng tách biệt khỏi xã hội.
Các kết quả nghiên cứu về quan hệ mẹ - con trên động vật bậc cao và ở
người đều đưa ra kết luận rằng: trẻ nhỏ từng bị thiếu hụt giao tiếp xã hội (chủ
yếu với người mẹ) nếu không được tham vấn, trị liệu thì sẽ bị tụt hậu về trí
tuệ, khó hòa nhập xã hội, thụ động, ngôn ngữ kém phát triển và hay có những
vấn đề về hành vi như hiếu động quá mức hoặc có tính hiếu chiến.
Lý thuyết “Tình huống lạ” của Mary Ainsworth – nhà tâm lí học người
M - là một đóng góp to lớn vào lý thuyết gắn bó nói riêng và tâm lí học phát
triển nói chung. Lý thuyết “Tình huống lạ” nghiên cứu sự tương tác mẹ con
trong năm đầu đời của trẻ. Tình huống lạ được xây dựng nhằm làm sáng tỏ
những sự khác biệt cá nhân trong đối phó với stress chia tách; từ đó,
Ainsworth đưa ra 4 dạng phản ứng xuất hiện ở trẻ [6, tr.66-69]:
-


Gắn bó an toàn: Trẻ thường có rối loạn stress khi bị chia tách; vui

mừng, nhanh chóng an tâm và tiếp tục vui chơi khi tái hợp với mẹ.
-

Bất an – né tránh: Trẻ chỉ thể hiện một vài dấu hiệu của rối loạn

stress chia tách, thường dỗi, không để ý đến mẹ trong lần thứ 2 tái hợp; khi
tác nhân stress mạnh hơn, trẻ chỉ nhìn mẹ, hoạt động chơi bị ức chế.
-

Bất an – nước đôi (bất an – chống đối): Trẻ bị rối loạn stress mạnh

khi chia tách và vẫn tiếp tục phản ứng khi tái hợp, đòi mẹ nhưng lại hờn dỗi
khi mẹ trở lại.
tác

Dạng còn lại, trẻ thường bị đông cứng, không có những động

định hình.

11


Ngoài những nghiên cứu điển hình được trình bày ở trên, còn có rất
nhiều nghiên cứu khác về sự gắn bó mẹ - con sớm, về sự chia tách mẹ - con
được thực hiện bởi nhiều tác giả khác nhau. Chẳng hạn, trong thí nghiệm “Nét
mặt vô hồn” do bệnh viện Nhi đồng ở Boston (M ) thực hiện dưới sự điều
khiển của T.B Brazelton, khi đứa bé nhiều lần tìm cách gây chú ý và chờ đợi
phản ứng của mẹ mà không đạt kết quả như mong muốn, đứa trẻ sẽ trở nên

buồn chán, mệt mỏi, căng thẳng, thậm chí co rút toàn thân, khép kín giác quan
và không còn lưu tâm đến người mẹ. Thái độ thất vọng và bất lực trong việc
thu hút người mẹ cũng như cảm giác bị bỏ rơi của trẻ cho thấy: trẻ cần được
tiếp xúc và đùm bọc qua tất cả những phản ứng của người mẹ. Khi nhìn mẹ,
trẻ đợi chờ một cách tự nhiên và cần thiết, gần như một qui luật rằng mẹ sẽ
nhìn mình để đáp trả. Khi chờ đợi cơ bản của trẻ không được đáp ứng, chúng
sẽ có phản ứng tự vệ là tự khép mình, đóng kín mọi cánh cửa tiếp xúc, để
khước từ cái nhu cầu “nhìn mẹ và được mẹ nhìn”. Nếu nhu cầu ấy không bị
khước từ bằng cách tống xuất ra ngoài, đứa con sẽ quá khổ đau và không thể
sống còn [18, tr.155-158].
Trong công trình nghiên cứu của mình, Bruno Betteheim (1987) bàn về
cách sống thờ ơ, không yêu con, thiên về lí trí của người mẹ có học thức cao
dẫn tới những phản ứng tiêu cực ở trẻ như không muốn gần mẹ, không muốn
ôm, hôn mẹ, không muốn nhìn vào mắt mẹ và không nói. Đồng thời, trẻ cũng
ứng xử như vậy với người khác.
Tóm lại, qua các công trình nghiên cứu, thực nghiệm nói trên, các tác
giả trên thế giới đã chỉ ra một số nội dung nổi bật sau:
-

Mẹ, người chăm sóc chính, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc

tạo ra môi trường an toàn đối với trẻ, là cầu nối để trẻ khám phá thế giới xung
quanh, tập thích nghi dần với điều kiện sống, xã hội hoá cá nhân, cũng như

12


hình thành cái Tôi và tự chủ hơn. Người mẹ tạo ra sự gắn bó xã hội, sự gắn bó
mang tính quyết định đối với sự phát triển bình thường của trẻ. Mặt khác, cảm
giác an toàn, vòng tay của mẹ, sự âu yếm tình cảm khi người mẹ vỗ về sẽ

nâng đỡ và giúp trẻ phát triển không những về thể chất mà còn về tinh thần.
-

Trải qua các giai đoạn phát triển bình thường, trẻ dần dần tách được

khỏi mẹ, khỏi người chăm sóc; tách được cái Tôi của nó với đối tượng.
-

Ở những trẻ vắng mẹ lâu ngày, thiếu hụt tình cảm của mẹ, chúng ta

có thể quan sát thấy các dấu hiệu về thể chất như sụt cân, khó ngủ, từ chối ăn,
chậm phát triển tâm vận động, dễ bị nhiễm khuẩn. Về tâm lý, trẻ tự cô lập,
tránh tiếp xúc với xã hội, tự kích thích bằng những hành vi rập khuôn và có
ánh nhìn xa xăm, thụ động. Trẻ có các vấn đề về hành vi như hiếu động quá
mức hoặc có tính hiếu chiến, ngôn ngữ kém phát triển. Trẻ thể hiện không
muốn ôm mẹ, hôn mẹ, không muốn nhìn vào mắt mẹ và không nói, với người
khác cũng ứng xử tương tự.
-

Các rối nhiễu do mối quan hệ gắn bó mẹ con sớm gồm lo hãi, khủng

hoảng sự hình thành cái Tôi, rối loạn về tư duy, ngôn ngữ, duy kỉ quá, tự cao,
tự đại; ngược lại là mặc cảm tự ti, giải thể nhân cách. Trẻ tách khỏi những liên
hệ xung quanh, không nhận thấy sự khác nhau trong ứng xử giữa người thân
và người lạ. Cũng có những trẻ bộc lộ các nhu cầu khát khao tiếp xúc, vồ vập
những người không quen biết.
-

Những trẻ chia tách mẹ sớm nhưng sau đó lại được quá đùm bọc


hoặc bị thờ ơ trong môi trường gia đình thường ít giao tiếp với bạn cùng trang
lứa, và khi đến tuổi đến trường, sẽ có những rối loạn học đường.
Những rối loạn của trẻ có thể khắc phục dần dần theo thời gian
nếu
được phát hiện sớm và có sự can thiệp kịp thời .

13


1.1.2. Những nghiên cứu về gắn bó mẹ con sớm tại Việt Nam
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, trong cuốn “Tâm lý lâm sàng trẻ em Việt
Nam”, đã chỉ ra vai trò của quan hệ mẹ - con là không gì thay thế được:
“Chính những ngày đầu tiên sau khi sinh là thời gian hết sức quan trọng để
hai mẹ con thích ứng với nhau, qua sự bế bồng săn sóc làm quen, làm thân,
hoà mình với nhau...”. Bởi vậy, “vắng mẹ cũng như vắng con trong những
ngày quyết định ấy là cơ sở tạo ra những rối nhiễu tâm tư mà hậu quả khôn
lường” [21, tr.109-110].


một tác phẩm khác “Phát triển tâm lý trong năm đầu” (2002), Bác sĩ

Nguyễn Khắc Viện đã bàn về mối quan hệ gắn bó mẹ con và vai trò của người
mẹ trong mối quan hệ này. Theo ông, từ lúc lọt lòng, trẻ em đã có những ứng
xử làm cho mẹ quan tâm và chăm sóc: mút, bám víu, khóc, mỉm cười, tìm
theo. Tuỳ theo mức độ em bé đòi hỏi và người mẹ đáp ứng, một mối gắn bó
tốt xấu, đậm nhạt khác nhau sẽ được tạo ra. Và từ 6 tháng trở đi, một hệ thống
được hình thành và dần dần chi phối toàn bộ quan hệ mẹ con, chi phối sự phát
triển của trẻ mạnh mẽ về nhiều mặt. Đây không chỉ là sự tác động của mẹ lên
con, mà còn là một sự tác động qua lại mẹ - con, ảnh hưởng đến cả tâm lý hai
bên [22, tr95].

Nghiên cứu khoa học tâm lý và Tâm bệnh lý ở giai đoạn thai nghén và
suốt trong năm đầu là một lĩnh vực có nhiều tranh luận trong những năm gần
đây ở Việt Nam. Vũ Thị Chín đã biên soạn thành công công trình trọng tâm
cho đề tài này, với sự ra đời của tác phẩm“Mẹ và con” (2002). Tác giả và
cộng sự cho rằng bà mẹ là cái nôi sinh lý của em bé mới sinh, đồng thời là cái
nôi tâm lý – xã hội – văn hoá của đứa con. Quan hệ mẹ con sớm được tác giả
trình bày rất sống động. Những giờ đầu sau đẻ là thời kỳ bà mẹ rất nhạy bén
trong việc bắt quan hệ với con, thiết lập cầu nối và sự gắn bó mẹ con. Sự gắn

14


bó mẹ con giúp mẹ và con tiếp xúc, làm quen dần với đặc tính của nhau, hoà
mình với nhau, đồng thời tác động lẫn nhau giúp cải thiện mối quan hệ mẹ
con cả về lượng và chất. Tác giả Vũ Thị Chín tổng kết lại mọi nhiễu loạn
trong tương tác mẹ con có nguồn gốc từ các nguyên do sau:
-

Kích thích quá mức không tôn trọng tín hiệu của trẻ (tránh né, quay

mặt đi, nhắm mắt...)
-

Kích thích yếu ớt nơi những bà mẹ trầm nhược ức chế, tâm thần phân

liệt.
-

Trẻ bị đẻ non, có dị tật bẩm sinh (lo âu của bố mẹ dẫn tới kém điều


hoà kém trạng thái thức tỉnh của trẻ, giao tiếp và tương tác khó).
-

Chậm sinh trưởng thai nhi dẫn tới thiếu thoả mãn ở bố mẹ so với đứa

con tưởng tượng và kém tương tác.
-

Khó khăn trong thời thơ ấu của mẹ, bên cạnh những khó khăn về gia

đình, kinh tế, văn hoá, xã hội [1, tr.37].
Văn Thị Kim Cúc trong tác phẩm “Những tổn thương tâm lí do bố mẹ
ly hôn” phân tích: “Khi nói tới chia ly tâm lý không thể không nói tới sự gắn
bó. Bởi vì nếu không có gắn bó thì chia ly tâm lý không có ý nghĩa” [2, tr.81].
Theo nghiên cứu của tác giả này, đối với trẻ có sự xa cách mẹ từ 8-18 tháng,
sự trải nghiệm cuộc sống như bị bỏ rơi, sự mất mát đối tượng yêu thương
(người mẹ) là nguồn gốc cho cảm giác lo hãi và buồn bã. Nghiên cứu đã đúc
kết lại sự chia ly hay cách biệt có khả năng gây ra tổn thương tâm lý nếu nó
xảy ra vào các thời điểm: 6 tháng tuổi và thời điểm Oedipe (3-5 tuổi). Bố mẹ
ly hôn khi đứa con còn thơ bé (0-3 tuổi) có thể gây ra ở trẻ các rối nhiễu tâm
thể và các rối nhiễu này càng trầm trọng nếu đứa con không có sự chia sẻ và
cảm thông của người nuôi dưỡng nó [2, tr.84].

15


Nguyễn Văn Thành với cuốn sách “Quan hệ mẹ con: Bài học đầu tiên
của cuộc sống” (2003) đã nhấn mạnh “Vai trò trung gian của người mẹ là tạo
nên những cơ cấu chuyển tiếp để trẻ em có thể di chuyển từ cơ cấu quen thân
đến cơ cấu xa lạ một cách hài hoà êm đẹp” [18, tr.217]. Người mẹ nếu biết rõ

vai trò chủ động của trẻ em trong tiến trình phát triển, những khả năng và các
giai đoạn phát triển, có thể tạo mọi điều kiện để trẻ em đóng góp một cách
tích cực phần của mình vào tiến trình xây dựng bản thân, hình ảnh cái Tôi.
Mặt khác, trong trường hợp những đứa con có thiệt thòi, gặp một vài khó
khăn, trắc trở trong tiến trình phát triển của mình, những kiến thức tâm lý này
sẽ giúp người mẹ sáng tạo những giải pháp thích ứng để giúp trẻ khắc phục
những khó khăn và vượt qua một số chướng ngại.
Tác giả Nguyễn Ánh Tuyết trong cuốn “Mẹ và con” (2005) cũng chỉ ra
rằng trong mối quan hệ gắn bó mẹ con, cả hai đều phải phát ra tín hiệu cho
nhau. Nhưng trong giai đoạn đầu đời, người mẹ đóng vai trò vô cùng quan
trọng cho sự phát triển bình thường của trẻ. Người mẹ chăm sóc nuôi dưỡng
trẻ hằng ngày bằng một tình yêu thương tự nhiên mang tính vô thức sẽ giúp
cho quá trình xã hội hoá của trẻ, là nhịp cầu cho trẻ bước vào khám phá thế
giới và xã hội loài người. “Chính từ trong cái nôi gia đình, ngay từ lúc lọt
lòng mẹ, đứa trẻ đã nhận được sự giáo dục xúc cảm đầu tiên thông qua cử chỉ
âu yếm hay dửng dưng; yêu thương, trìu mến hay độc ác, tàn nhẫn…của
những người trực tiếp chăm sóc, đặc biệt là người mẹ”[25, tr.11].
Kết luận của tác giả Lê Khanh trong bài viết “Ý thức và vô thức trong
lĩnh vực xúc cảm – tình cảm con người” đề cập đến giáo dục đời sống tình
cảm con cái từ tuổi ấu thơ trong cuộc sống gia đình. Cùng với nhiều công
trình nghiên cứu khác, tác giả cho rằng cách đối xử trực tiếp của cha mẹ đối
với con cái, cũng như cách bố mẹ thể hiện tình cảm với nhau trước mặt chúng

16


có những hậu quả sâu xa và lâu bền đối với đời sống xúc cảm – tình cảm của
trẻ [10, tr11].
Trong bài báo “Bệnh thiếu sự gắn bó” (2011), Phạm Ngọc Thanh đã đề
cập đến rối loạn gắn bó ở trẻ. Tác giả trình bày ngắn gọn một ca điển hình của

rối loạn gắn bó với những biểu hiện: nằm viện khoảng 6 tháng mỗi năm với
các triệu chứng nôn ói, chán ăn, thờ ơ, không thích giao tiếp, khó ăn, chỉ ăn
qua ống thông dạ dày, chỉ thích ở bệnh viện chứ không muốn về nhà. Theo đó,
các nguyên nhân dẫn đến rối loạn chủ yếu là do sự chia tách quá sớm hay sự
thiếu thốn tình cảm yêu thương từ trong mối quan hệ xã hội đầu tiên của trẻ.
Trẻ có nguy cơ rối loạn gắn bó từ trong lòng mẹ nếu bà mẹ gặp phải vấn đề
bất ổn và căng thẳng trong lúc mang thai, không quan tâm đến sự hiện diện
của bào thai. Hoặc, trẻ sống trong sự bất ổn (cha mẹ đi vắng, cha mẹ bận việc
không có thì giờ chăm sóc con; đổ vỡ gia đình do cha mẹ không hợp; trẻ phải
đi nhà trẻ sớm mà không có sự chuẩn bị; xem tivi quá sớm và suốt ngày) cũng
có những nguy cơ rối loạn. Có hai dạng phản ứng khi trẻ vắng cha mẹ không
được đáp ứng tình cảm của cha mẹ: Một là, trẻ thất vọng, tự thu mình lại
trong thế giới riêng, không tiếp xúc với ai, bỏ bú, khóc đêm, ăn kém, không
giao tiếp bằng lời hay không lời. Hai là, ngược lại, trẻ tỏ hành vi, tình cảm với
người lạ, có thể hôn bất kì ai và thích được bồng bế. Các hệ quả trong quá
trình phát triển sau này có thể gặp phải ở trẻ là rối loạn hành vi và tính khí,
hiếu động, kém tập trung, rối loạn giấc ngủ, tiểu dầm, béo phì, chậm phát
triển.
Có nhiều lý do khiến bà mẹ ruồng bỏ tâm lý với đứa con của mình và
hệ quả nhìn thấy được từ thái độ ứng xử ấy là những bệnh tâm thể ở trẻ nhỏ.
Tác giả Lê Khanh đã chỉ ra một số bệnh thường gặp ở trẻ có nguyên do tâm lý
trong mối quan hệ với mẹ: tự kỷ, hen suyễn, chứng nổi chàm (eczéma) – da

17


nổi rôm lên, chảy nước rồi bóc vảy, xuất hiện ở háng, nách, sau lỗ tai… vào
cuối năm thứ nhất, và qua đến năm thứ hai có khi là tự khỏi. Tác giả lý giải
các biểu hiện bất thường của trẻ được quan sát trong các nhà trẻ hay các trung
tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi là để bù đắp vào những thiếu hụt về cảm xúc; đây

là một tình trạng tâm lý thoái lùi về giai đoạn ấu thơ.
Tóm lại, các nghiên cứu ở Việt Nam về gắn bó mẹ con sớm đã chỉ ra
được tầm quan trọng của mối quan hệ này trong quá trình phát triển của trẻ.
Các tác giả đã bước đầu lý giải về những khía cạnh khiến mối quan hệ mẹ con
sớm gặp vấn đề, cũng như những biểu hiện trong mối quan hệ mẹ con sớm
ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của trẻ trong những năm đầu đời nghiêm
trọng đến mức nào. Theo những nghiên cứu này, cách ứng xử của cha mẹ, đặc
biệt là người mẹ, để lại một hậu quả to lớn trên đứa trẻ. Các tác giả đã dần chỉ
ra trong phạm vi nghiên cứu của mình những rối nhiễu mà trẻ có thể gặp phải
khi có vấn đề liên quan đến mối quan hệ mẹ con sớm. Trên các phương tiện
truyền thông báo chí hiện nay, các chuyên gia y học, tâm lý học cũng đã lên
tiếng cảnh báo về những hậu quả của lối sống công nghiệp, người mẹ phải
tách con sớm để để tham gia công việc xã hội khiến cho trẻ và chính những
người mẹ gặp khó khăn nhất định trong việc chăm sóc và gần gũi con. Đây
cũng là lời cảnh báo cho những rối nhiễu mà trẻ em trong độ tuổi đến trường
ngày càng gia tăng đến mức báo động.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm Gắn bó
Từ nguyên thủy của thuật ngữ gắn bó xuất hiện từ thế kỷ XIII, xuất
phát từ động từ “attacher” được dùng thay thế cho một từ cổ trong tiếng Pháp
estachier, có nghĩa là gắn bó, kết dính. Đến thế kỷ XVIII, mối liên kết kết nối
người mẹ với đứa con không gợi lên bất kỳ ý nghĩa nào; tình yêu của mẹ là tất

18


yếu, “mẹ yêu con giống như những con thú nuôi nấng những con thú con
vậy”. Quan điểm này thay đổi khi J. J. Rousseau, qua những tác phẩm của
mình, đã làm tăng thêm giá trị mối tiếp xúc giữa mẹ và con. Theo ông, mối
liên kết cảm xúc đó đã hợp nhất mẹ và con và tạo nên sự gần gũi thông qua

việc khuyến khích nuôi trẻ bằng sữa mẹ (Knibieler & Fouquet, 1980). Từ đây,
sự gắn bó mẹ con trở thành một khái niệm thu hút mối quan tâm của các nhà
khoa học trong những năm 50 của thế kỷ XX trong đó có các nhà nghiên cứu
về tập tính học, phân tâm học và về các phản ứng liên quan đến sự chia tách
mẹ (Bowlby, 1959; Ainsworth, 1962; Karen, 1994).
Nhiều tác giả đã làm rõ ảnh hưởng của sự gắn bó giữa bố mẹ và con cái
tới quá trình phát triển nói chung của trẻ và tới sự phát triển bản sắc mẹ
(Bowlby, 1969; Ainsworth, 1973; Klaus & Kennell, 1976; Cranley, 1981;
Rubin, 1984; Mercer & Ferketich, 1990). Tuy vậy, dường như chưa có một sự
nhất trí nào về định nghĩa “gắn bó”. Các định nghĩa hiện có đều khiến chúng
ta tin rằng gắn bó là một quá trình tuyến tính; các định nghĩa này đưa vào
những đặc trưng của bố mẹ và thường liên quan tới cá nhân hơn là mối quan
hệ. Trên thực tế, các tác giả có xu hướng trộn lẫn khái niệm gắn bó với các
khái nhiệm như tình yêu thương hay bản năng mẫu dưỡng, quan hệ qua lại
(accointance) hay quan hệ ràng buộc (bonding) (Bell, L., Goulet, C., St-Cyr
Tribble, D., Paul, D. & Polomeno, V., 1996).
Trong lý thuyết về sự gắn bó, Bowlby (1969) đã xác định “gắn bó như
một mối liên kết quyền năng hợp nhất hai người với nhau” . Theo Bowlby và
Ainsworth, quan hệ đầu tiên và chủ yếu của em bé khi mới sinh ra không phải
là với đồ vật chung quanh mà là với con người, với người chăm sóc trực tiếp,
có thể là mẹ đẻ hoặc là người mẹ thay thế, tức mẹ - nuôi (Caregiver). Ngay từ
trong những tháng đầu, em bé không thụ động mong đợi mẹ săn sóc, mà chủ

19


×