Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

Tính đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.34 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN

TÍNH ĐẶC THÙ TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------------------

NGUYỄN THỊ HUYỀN

TÍNH ĐẶC THÙ TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08


LUẬN VĂN THẠC SĨ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đào Ngọc Tuấn

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Nguyễn Thị Huyền
Là học viên cao học lớp Cao học Chủ nghĩa xã hội khoa học- khóa
2013- Khoa Triết- Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn- Đại học
quốc gia Hà Nội.
Tôi xin cam đoan nghiên cứu: “ Tính đặc thù trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” là kết quả của quá trình
học tập, nghiên cứu khoa học độc lập và nghiêm túc của cá nhân tôi. Các tài
liệu tham khảo và trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng, đáng tin cậy được xử lý
trung thực và khách quan.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

HỌC VIÊN

Nguyễn Thị Huyền


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đối với TS. Đào Ngọc Tuấn.
Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận
văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các giảng viên đã tham gia giảng dạy
khóa học đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu về triết học, chủ nghĩa

xã hội khoa học đã giúp tôi trưởng thành hơn trong suy nghĩ cũng như trong
nghiên cứu khoa học.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã hỗ trợ tôi hoàn thành luận văn.
HỌC VIÊN

Nguyễn Thị Huyền


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài........................................................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu........................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................................... 8
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu....................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn.............................................................................................................. 9
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn......................................................................... 9
8. Kết cấu của luận văn................................................................................................................... 9
NỘI DUNG....................................................................................................................................... 10
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA......................................................................................... 10
1.1. Bản chất và hình thức nhà nƣớc- cái phổ biến và cái đặc thù..............10
1.1.1. Cái phổ biến và cái đặc thù.......................................................................................... 10
1.1.2. Bản chất nhà nước với tư cách là cái phổ biến................................................. 13
1.1.3. Hình thức nhà nước với tư cách là cái đặc thù.................................................. 15
1.1.4. Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước......................................................... 16
1.2. Nhà nƣớc pháp quyền với việc thực hiện dân chủ........................................ 18
1.2.1. Nhà nước pháp quyền là một hình thức thực hiện dân chủ......................... 18
1.2.2. Nền dân chủ tư sản và nhà nước pháp quyền tư sản...................................... 27
1.3. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.............................................................. 30

1.3.1. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tất yếu là nhà nước pháp quyền.....................30
1.3.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lí luận và thực tiễn......................32
1.4. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam....................................... 38
1.4.1. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam................................................................................................................ 38


1.4.2. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam............................................................................................................................................... 42
KẾT LUẬN CHƢƠNG I........................................................................................................ 49
CHƢƠNG II: NHỮNG BIỂU HIỆN ĐẶC THÙ VÀ GIẢI PHÁP CƠ
BẢN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY........................................................................................ 50
2.1. Những nhân tố quy định tính đặc thù trong xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam…………………………………... ……50
2.1.1. Nhân tố chính trị................................................................................................................ 51
2.1.2. Nhân tố truyền thống văn hóa..................................................................................... 58
2.1.3. Nhân tố kinh tế- xã hội.................................................................................................... 65
2.2. Giải pháp cơ bản trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay.......................................................................................................... 73
2.2.1. Giải pháp về kinh tế......................................................................................................... 73
2.2.2. Gải pháp về chính trị....................................................................................................... 84
2.2.3. Giải pháp về văn hóa- xã hội...................................................................................... 94
KẾT LUẬN CHƢƠNG II...................................................................................................... 99
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................... 104


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Nhà nước pháp quyền- là phương thức tổ chức quyền lực tốt nhất đảm
bảo quyền con người. Hiện nay trên thế giới, xây dựng nhà nước pháp quyền
không còn là vấn đề lý luận mà đã trở thành hiện thực. Hơn hai thế kỷ qua,
các quốc gia phát triển đã và đang hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp
quyền, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, giảm thiểu biên chế trong bộ
máy nhà nước, tiết kiệm ngân sách, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân
lực, thực hiện nguyên tắc sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Xét trên bình diện quốc tế, học thuyết nhà nước pháp quyền từ lý luận
vận dụng vào thực tiễn như thế nào đến nay vẫn còn là một vấn đề cần bàn
luận. Kinh nghiệm cho thấy, việc vận dụng lý luận xây dựng nhà nước pháp
quyền ở các quốc gia trên thế giới không theo một khuôn mẫu xác định, tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế, chế độ chính trị, truyền thống lịch sử và bản sắc
văn hóa mà mỗi quốc gia xây dựng một mô hình nhà nước pháp quyền riêng.


Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam xác định phải từng bước đổi mới

và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo hướng xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Bởi
vì, đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam- một nước đang phát
triển, còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội
còn thấp như hiện nay- thì việc xây dựng nhà nước pháp quyền càng có ý
nghĩa quyết định.
Mặc dù xây dựng nhà nước pháp quyền là một tất yếu khách quan trên
con đường tạo lập một xã hội, trong đó: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh. Nhưng tính tất yếu đó chỉ được thực hiện thông
qua hoạt động có ý thức của con người. Điều đó có nghĩa là, mức độ thành
công của công cuộc xây dựng này phụ thuộc đáng kể vào năng lực hành vi
nhận thức, hành vi sáng tạo, tích cực của chủ thể, mà trước hết là năng lực


1


nhận thức bản chất của nhà nước pháp quyền, thứ nữa là năng lực thấu hiểu
các điều kiện đặc thù của từng nước đối với việc tiếp thu những giá trị phổ
biến của nhà nước pháp quyền.


mỗi quốc gia do những điều kiện lịch sử nhất định, nên việc xây

dựng nhà nước pháp quyền ở mỗi nước lại đòi hỏi những cách làm cụ thể.
Chính vì vậy khi xây dựng nhà nước pháp quyền ta cần chú ý đến tính đặc thù
của từng nước. Yêu cầu này đã trở thành tác nhân trực tiếp, thúc đẩy tôi lựa
chọn vấn đề: “Tính đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận văn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay việc đẩy mạnh nghiên cứu những vấn đề lí luận về nhà nước
pháp quyền và tổng kết kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền trong
lịch sử nhân loại để từ đó tìm ra cái thuận lợi, khó khăn cũng như việc kế thừa
những tinh hoa của nhân loại, loại bỏ những yếu tố không phù hợp với điều
kiện đất nước và bối cảnh mới (toàn cầu hóa) vẫn là vấn đề mà các nhà nghiên
cứu trong nước tìm kiếm các câu trả lời. Các kết quả nghiên cứu đã đạt được
mức độ đáng kể với kết quả chúng ta đã ban hành Hiến pháp 2013 sửa đổi bổ
xung của Hiến pháp 1992.
Theo tinh thần đấy ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu với
những quy mô và cấp độ khác nhau về nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà
nước pháp quyền được thực hiện từ những năm 1991-1995 và từ 1995 đến
nay. Có thể thấy nhiều đề tài lớn đã được thực hiện trong những năm 19911995 như một số đề tài cấp Nhà nước thuộc Chương trình KX.05, một số đề
tài cấp nhà nước thuộc các chương trình KX.08 và KX.10 cho đến nay. Có thể
kể ra một số công trình nghiên cứu sau đây:

1.

Nguyễn Văn Thảo chủ biên, Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ

máy lập pháp, hành pháp và tư pháp nước ta với nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đề tài KX.05-07 thuộc chương trình

2


KX.05 (giai đoạn 1996-2000): Hệ thống chính trị trong thời kì quá độ lên
CNXH ở Việt Nam.
2.

Đào Trí Úc chủ biên, Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân

và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đề tài KHXH 05-05 thuộc chương trình
KHXH-05 (giai đoạn 2001-2005); sau được bổ sung, phát triển và ấn hành
dưới dạng một cuốn sách chuyên khảo nhan đề:“Xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, đã nêu lên nhiều vấn đề bao quát về nhà
nước pháp quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam như: Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Tây,
phương Đông. Các tiền đề tư tưởng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ. Dân chủ và nhu
cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Những yêu cầu cơ bản đặt ra về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước
pháp quyền.
3.

Đề tài cấp nhà nước KX 04.01 “Cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” do GS.VS.
Nguyễn Duy Quý làm chủ nhiệm. Nhóm nghiên cứu đề tài đã khái quát lịch
sử hình thành và phát triển của học thuyết nhà nước pháp quyền từ thời cổ đại
đến hiện đại, từ phương Tây đến phương Đông; phân tích quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và nhà nước pháp
quyền; nêu những khái niệm, những đặc trưng cơ bản và chức năng của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; lý giải các yếu tố
quy định và chi phối quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam; trình bày những phương hướng, giải pháp chủ yếu xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo các tác giả, nan
giải trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là việc khắc phục “thái độ hư vô, coi thường pháp luật” của người dân
Việt Nam hiện nay. Vì đây là hiện tượng khá phổ biến, nó “có thể diễn ra trên

3


tất cả các mức độ trong quá trình xây dựng pháp luật, trong hoạt động áp dụng
pháp luật, trong đời sống hàng ngày của người dân” [58, 25]. Do vậy, “để xây
dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần tạo lập thói
quen chấp hành pháp luật, thái độ thượng tôn pháp luật. Nghĩa là phải xây
dựng được ý thức pháp luật ở trình độ cao trong xã hội” [58, 25]. Mà muốn
xây dựng ý thức pháp luật ở trình độ cao thì tất yếu phải xây dựng nhà nước
pháp quyền, lấy nhân dân làm chủ thể đồng thời là đối tượng của pháp luật.
4.

Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa (đồng chủ biên), Xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, (Nxb. Chính trị

Quốc gia, 2006). Đây là sự tổng kết công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà
nước với sự tham gia đông đảo của nhiều nhà nghiên cứu lý luận cũng như
nhiều cán bộ làm công tác quản lý, do đó đã bao quát được khá nhiều vấn đề
lý luận và thực tiễn đang diễn ra hiện nay ở Việt Nam.
Trong công trình này, sau khi nhìn lại thực tế 20 năm đổi mới nhà nước
và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhóm tác giả
đã đề xuất những phương án về việc: Đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc
hội. Đổi mới hoạt động hành pháp của Chính phủ. Đổi mới tổ chức và hoạt
động của các cơ quan tư pháp. Tạo dựng quan hệ biện chứng giữa bộ ba cơ
quan nhà nước. Theo các tác giả, nguyên nhân cơ bản làm chậm tiến trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hơn hai thập kỷ qua
thuộc về cải cách hành chính, vì bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay còn
“khá cồng kềnh, hoạt động chồng chéo, hiệu quả thấp”. Thực trạng đó đặt ra
cho chúng ta nhiệm vụ nặng nề sắp tới là phải nhanh chóng cải cách hành
chính, kiến tạo một bộ máy nhà nước gọn nhẹ về cơ cấu, làm việc có hiệu quả,
tiết kiệm thời gian và tiền của cho nhân dân trong quá trình giải quyết các
công việc giấy tờ hành chính.
5.

Luận án tiến sĩ triết học Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà

nước với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của

4


Trần Ngọc Liêu (Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2009) là một trong những tư liệu nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề đổi
mới tư duy lý luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền.
Theo Trần Ngọc Liêu, “từ chỗ còn mơ hồ trong nhận thức về khái niệm nhà

nước pháp quyền, Đảng ta đã đi đến thừa nhận nhà nước pháp quyền là một
phương thức tổ chức và hoạt động của một nhà nước chứa đựng những giá trị
có tính phổ biến, có thể vận dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam” [38, 49]. Không những thế, “Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn
những vấn đề có tính đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền. Tính đặc
thù này do đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong lịch sử và quá
trình phát triển hiện nay quy định” [38, 49].
6.

Một số học giả Việt Nam đã đi sâu vào vấn đề thực tiễn, nêu lên

những thuận lợi và khó khăn hiện tại và có thể có trong tương lai trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Thể hiện cụ thể trong các công trình tiêu
biểu sau: 1) Phạm Gia Đức, Lê Hải Triều, Nguyễn Văn Thảo, Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, (Nxb. Quân đội
nhân dân, 2003). 2) Nguyễn Văn Niên, Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, (Nxb. Chính trị Quốc gia, 1996). 3)
Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn,
(Nxb. Từ điển Bách khoa, 2009).
Những công trình kể trên đã nêu lên nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn mà
Việt Nam cần phải giải quyết trên từng bước đường xây dựng nhà nước pháp
quyền. Trong đó, tập trung nhất là làm gì và làm thế nào để thiết lập nền dân
chủ đúng theo nghĩa của nó. Theo các tác giả, dân chủ hoàn toàn đối lập với
quan liêu, tức xa rời thực tế, xa rời dân, cửa quyền, sách nhiễu, do vậy quá
trình đi đến dân chủ cũng là quá trình loại bỏ chế độ quan liêu - một căn bệnh
trầm kha tồn tại quá lâu cùng với nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan
liêu, bao cấp.

5



7.

Hoàng Chí Bảo trong bài báo Từ những đặc điểm của thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay, (Tạp chí Triết học, số 11, 2002) đã nêu một trong những đặc điểm
cơ bản của thời kỳ quá độ là Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Theo tác giả, đặc điểm cơ bản nhất của nước ta thời kỳ quá
độ là việc bỏ qua chế độ tư bản. Thời đại Phục hưng và Khai sáng ở châu Âu
là những bước phát triển vượt bậc về phương diện tư duy, đặc biệt tư duy
pháp lý, nhờ vậy đã làm thay đổi căn bản đời sống chính trị xã hội tư bản. Sự
nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam chắc chắn sẽ gặp nhiều
khó khăn, trở ngại về chính trị, nếu không biết tiếp thu tư tưởng pháp lý giai
đoạn này.
8.

Tiêu biểu cho những công trình nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò

lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đề tài KX 04.03, Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản do Tạ Xuân Đại làm chủ nhiệm. Nhóm nghiên cứu nêu
cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó đề xuất những
giải pháp cơ bản như: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, nâng cao
chất lượng và hiệu quả quá trình lập pháp. Đổi mới tổ chức và hoạt động của
Chính phủ, tạo dựng một chính phủ gọn nhẹ, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới
tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, tăng cường đạo đức, lương tâm

nghề nghiệp của đội ngũ cầm cân, nảy mực. Xây dựng và hoàn thiện chính
quyền địa phương đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Ngoài những công trình khoa học tiêu biểu kể trên, trong các tạp chí
Triết học, Nhà nước và pháp luật, Nghiên cứu lập pháp, Nghiên cứu pháp
luật, Dân chủ và pháp luật, Luật học, Tạp chí Cộng sản, Thông tin khoa học

6


xã hội, Lý luận chính trị, Lý luận chính trị và truyền thông,… đã đăng tải
nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, trong đó tập trung phân tích tính tất
yếu, cơ sở lý luận, điều kiện thực tiễn, đồng thời đề xuất phương hướng, giải
pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy còn
những cách lý giải khác nhau, song nhìn chung các bài viết trên các tạp chí đã
nêu đều nhất trí cho rằng, nhà nước pháp quyền không chỉ là điều kiện cần
thiết cho một phương thức quản trị hiện đại, mà còn là phương tiện hữu hiệu
để có thể giao lưu, hội nhập quốc tế trong một thế giới mà mọi vấn đề lớn nhỏ
đang trở thành vấn đề chung.
Các công trình tổng quan trên đã cung cấp cho tôi những tư liệu có giá
trị và cách tiếp cận khoa học, gợi mở cho tôi những cách nhìn mới khi thực
hiện đề tài này. Song, nhìn chung trong số các công trình tiêu biểu đã kể trên,
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống những nét đặc thù
về phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội Việt Nam trong việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền giai đoạn hiện nay, đồng thời cũng chưa nêu lên
một cách hệ thống những giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với những phương diện đặc thù đó. Xuất phát từ
yêu cầu góp phần đáp ứng tính cấp thiết của đề tài, tiếp thu có chọn lọc thành
quả nghiên cứu các công trình trên, luận văn được trình bày theo hướng: Trình
bày lý luận chung về nhà nước pháp quyền, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phân tích việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên những phương diện đặc thù về kinh tế,
về chính trị, về văn hoá - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề xuất những giải pháp chủ yếu, phù hợp với
những phương diện đặc thù đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích

7


Mục đích của luận văn là làm rõ tính đặc thù trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó chỉ
ra những vấn đề bất cập, hạn chế của nhà nước ta hiện nay và giải pháp điểu
chỉnh, khắc phục.
Nhiệm vụ
Xuất phát từ mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
-

Làm rõ nội hàm các khái niệm nhà nước pháp quyền, nhà nước xã hội

chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
-

Nêu và phân tích một số nét đặc thù nổi trội của quá trình xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
-

Đề xuất một số phương hướng, giải pháp từ đặc thù ở Việt Nam trong


xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số nét đặc thù ở

Việt Nam trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
-

Phạm vi: Phạm vi nghiên cứu ở một số nét đặc thù cơ bản trên phương

diện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội ở Việt Nam trong việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu
-

Cơ sở lí luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận chủ nghĩa

Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam
về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luận văn cũng kế thừa các thành tựu nghiên cứu vấn đề này của các học giả
Việt Nam và thế giới trong thời gian gần đây.
-

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy

vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; phương pháp hệ
thống, thống kê; phương pháp phân tích tổng hợp; tuân thủ các nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; thống nhất giữa logic và lịch sử…


8


6. Đóng góp của luận văn
-

Góp phần phân tích sâu sắc hơn tính đặc thù trong quá trình xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
-

Nêu một số kiến nghị, đề xuất cụ thể trong quá trình xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những điều kiện đặc thù.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm
về nhà nước pháp quyền. Ở chừng mực nhất định luận văn có thể đưa lại
những gợi ý gián tiếp trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của chúng ta.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 2 chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa
Chương II: Những biểu hiện đặc thù và giải pháp cơ bản trong xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

9



NỘI DUNG
CHƢƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Bản chất và hình thức nhà nƣớc- cái phổ biến và cái đặc thù
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển và
tiêu vong. Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện
của xã hội loài người. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến một
mức độ nhất định và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại
của nó mất đi. Vì thế một nhà nước vừa mang những giá trị phổ biến để nó là
nó vừa thể hiện nó trong thực tiễn thành những giá trị đặc thù.
1.1.1. Cái phổ biến và cái đặc thù
Trong tư duy triết học mac-xít, mỗi sự vật, hiện tượng đều là thể thống
nhất giữa cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến. Các phạm trù này luôn gắn
liền với cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Biện chứng giữa chúng biểu thị
biện chứng của quá trình vận động, phát triển của hiện thực.
Phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một
quá trình riêng biệt. Cái riêng là một chỉnh thể có tính toàn vẹn, tính độc lập
tương đối. Mỗi cái riêng đều là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm nhiều mặt,
nhiều yếu tố, nhiều thuộc tính cấu thành nên. Những yếu tố tạo nên cái riêng
có mức độ phổ biến khác nhau: Có những yếu tố riêng có của nó, không có sự
lặp lại ở những đối tượng khác; có những yếu tố có sự lặp lại nhiều lần ở một
số đối tượng tương tự với nó; có những yếu tố lặp đi lặp lại ở tất cả các đối
tượng. Cái xuất hiện một lần, ở một sự vật duy nhất nào đó và không có sự lặp
lại được gọi là cái đơn nhất (theo nghĩa: cái đơn nhất là cái không lặp lại thì
mỗi cái riêng đồng thời là cái đơn nhất). Cái có sự lặp lại ở nhiều sự vật, hiện
tượng khác nhau được gọi là cái chung. Cái chung có mặt xuất hiện ở một số
sự vật, nhưng không xuất hiện ở những sự vật khác được gọi là cái đặc thù.
Cái chung có mặt ở mọi sự vật được gọi là cái chung nhất hay cái phổ biến.

10



Cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến chỉ là một mặt, một bộ phận
của cái riêng cho nên chúng chỉ tồn tại trong cái riêng, tồn tại thông qua cái
riêng. Trong mỗi cái riêng đều chứa đựng những cái đơn nhất, riêng có của
nó; chứa đựng cái đặc thù, có mặt ở một số đối tượng giống nhau nào đó; và
chứa đựng những cái phổ biến của cả một lớp đối tượng rộng lớn hoặc của tất
cả các đối tượng. Tùy thuộc vào từng phạm vi xem xét, từng quan hệ cụ thể
để xác định đâu là cái đặc thù, đâu là cái phổ biến. Cái phổ biến trong phạm vi
này, trong quan hệ cụ thể này có thể chỉ là cái đặc thù ở một phạm vi khác,
trong một quan hệ khác.
Trong mỗi cái riêng đều chứa đựng cái chung, cái phổ biến. Quá trình
vận động, phát triển của cái riêng bao giờ cũng chịu sự chi phối bởi những
quy luật chung, quy luật phổ biến. Tuy nhiên, cái riêng không gia nhập vào
cái chung. Mỗi cái riêng còn chứa đựng cái đặc thù, đơn nhất. Quá trình phát
triển của mỗi cái riêng còn chịu sự tác động bởi những quy luật đặc thù, riêng
có của nó do nó còn chịu ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
mình. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, con người cần biết vận
dụng cái chung, cái phổ biến vào từng trường hợp cụ thể nhưng đồng thời
phải biết cá biệt hóa chúng, tránh thái độ trừu tượng, chung chung hay dập
khuôn, máy móc, giáo điều. Cái là đúng đắn, phù hợp với giai đoạn cụ thể
này, ở thời điểm cụ thể này có thể không còn đúng đắn, phù hợp với một giai
đoạn khác, ở một thời điểm khác và ngược lại. Cho nên không được phép áp
đặt một cách tùy tiện, chủ quan cái của sự vật hiện tượng này cho một sự vật,
hiện tượng khác.
Vạch rõ mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến
và cái đặc thù, Lênin viết: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái
chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái
riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là một bộ phận, một
khía cạnh, hay một bản chất của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao


11


quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng
không gia nhập đầy đủ vào cái chung....” [35, 38].
Trong quá trình vận động, phát triển của hiện thực, cái phổ biến và cái
đặc thù luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau. Thông qua cái đặc thù để cái đơn nhất
chuyển hóa dần dần thành cái phổ biến và ngược lại, cũng thông qua cái đặc
thù mà cái phổ biến có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất. Sự chuyển hóa này
gắn với quá trình hình thành cái mới và quá trình cái cũ mất đia. Cái mới khi
mới xuất hiện lần đầu thì nó chỉ là cái đơn nhất. Và nó là cái tích cực, cái tiến
bộ cho nên nó sẽ được khẳng định dần dần để trở thành cái chung, cái phổ
biến. Còn cái cũ, khi mất đi cũng phải thông qua quá trình chuyển biến dần
dần thành cái đặc thù, cái đơn nhất rồi mới mất hẳn. Trong xã hội, quá trình
chuyển hóa cái mới từ đơn nhất thành đặc thù, phổ biến là cả một quá trình
phức tạp, lâu dài; phải thông qua nhiều bước quá độ, trung gian, nhiều khi
phải chấp nhận cả những thất bại, những bước thụt lùi tạm thời.
Một số khái niệm, nội dung chủ yếu đã được tổng kết nêu trên về mối
quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù và cái đơn
nhất là những nền tảng quan trọng trong phương pháp tiếp cận của đề tài. Nó
chính là công cụ, là phương tiện để giúp cho việc thực hiện đề tài này.
Từ những khái niệm và mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù đã
nêu ở trên, có thể hiểu cái phổ biến của nhà nước là tất cả những phương diện
quy định sự tồn tại và phát triển của nhà nước, thể hiện trên hai bình diện giai
cấp và xã hội. Còn cái đặc thù là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và
những phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước trên ba phương diện chính
thể, cấu trúc nhà nước, chế độ chính trị.

12



1.1.2. Bản chất nhà nước với tư cách là cái phổ biến
Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Nhà nước không đồng nghĩa với xã
hội, không phải xã hội loài người hình thành là đã có nhà nước. Lịch sử xã hội
đã có một thời kỳ chưa có nhà nước- thời kỳ xã hội cộng sản nguyên thủy; chỉ
đến khi xã hội phân chia thành giai cấp nhà nước mới ra đời.
Chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia thành những giai cấp đối khángchủ nô và nô lệ. Mâu thuẫn giữa các giai cấp, cuộc đấu tranh giữa giai cấp đó
không ngừng diễn ra và ngày càng quyết liệt không thể điều hòa được. Điều
đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu
diệt luôn cả xã hội, tạo ra một tình trạng loạn lạc hỗn độn. Xã hội lúc này đòi
hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các
giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để làm cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong
lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp và để thảm họa đó không
diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời và đó chính là nhà nước.
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, tiếp đó là
nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản đều xuất hiện từ mâu thuẫn đối kháng
giai cấp vốn có của mỗi xã hội đó. Như vậy, nhà nước là sản phẩm và biểu
hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Ở đâu có mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hòa thì ở đó nhà nước xuất hiện. Nhà nước ra
đời tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật tự nhất
định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất- giai cấp thống trị về kinh
tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà nước,
giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, và do đó có
thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Vì thế, về
bản chất Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để
trấn áp một giai cấp khác, là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp
này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn
xã hội, là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Mặt khác nhà nước thực


13


hiện quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số
nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Căn
cứ vào đó có thể thấy bản chất nhà nước được thể hiện ở hai mặt, đó chính là
tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước.
Thứ nhất là tính giai cấp của Nhà nước: thể hiện ở chỗ nhà nước là
công cụ thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng
cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất của
nhà nước chỉ rõ nhà nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo,
phục vụ lợi ích của giai cấp nào?
Trong xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội
tư sản) nhà nước đều có bản chất chung là thiết chế bộ máy để thực hiện nền
chuyên chính của giai cấp bóc lột trên ba mặt: kinh tế, chính trị và tư tưởng.
Vì vậy, nhà nước tồn tại với hai tư cách: Một là bộ máy duy trì sự thống trị
của giai cấp này đối với giai cấp khác. Hai là tổ chức quyền lực công- tức là
nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa là người bảo đảm các quyền của
công dân được thực thi.
Thứ hai là tính xã hội của Nhà nước: Trong nhà nước, giai cấp thống trị
chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tầng lớp giai cấp khác, do vậy ngoài tư
cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích
chung của toàn xã hội, đó là chức năng xã hội của nhà nước. Như vậy chức
năng xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà nước. Tuy nhiên, mức
độ biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó không giống nhau giữa các nhà
nước khác nhau. Vai trò và phạm vi hoạt động của nhà nước phụ thuộc vào
từng giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của mỗi nhà nước, song phải
luôn tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước là hai mặt đối lập của cùng
một chủ thể. Chúng thống nhất trong sự đấu tranh lẫn nhau. Bản chất giai cấp

của Nhà nước giữ vai trò định hướng, chi phối chức năng xã hội. Đến lượt nó,

14


chức năng xã hội là điều kiện, là cơ sở xã hội để thực hiện chức năng thống trị
giai cấp. Tuy nhiên mức độ thể hiện tính giai cấp và tính xã hội là khác nhau
trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, tùy thuộc vào nhiều yếu tố, như lịch
sử truyền thống, quan điểm chính trị của nhà cầm quyền, mối tương quan giai
cấp trong xã hội , bối cảnh quốc tế...
1.1.3. Hình thức nhà nước với tư cách là cái đặc thù
Hình thức của Nhà nước là cách thức tổ chức và phương pháp thực hiện
quyền lực nhà nước. Hình thức của Nhà nước được xác định thông qua chính
thể, cấu trúc và chế độ chính trị. Trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, ở
những điều kiện tự nhiên và xã hội khác nhau, ở những quốc gia dân tộc có
truyền thống văn hóa, lịch sử khác nhau,... sẽ xuất hiện những hình thức nhà
nước khác nhau.
Thực tiễn lịch sử nhân loại có các loại hình thức nhà nước như:
-

Hình thức chính thể: dựa vào cách tổ chức và trình tự thành lập các cơ

quan Nhà nước, có các hình thức Nhà nước quân chủ hay cộng hòa
+

Nhà nước quân chủ: Nhà nước quân chủ tuyệt đối; Nhà nước quân chủ

hạn chế.
+


Nhà nước cộng hòa: Nhà nước cộng hòa đại nghị; Nhà nước cộng hòa

tổng thống; Nhà nước cộng hòa lưỡng tính (bán tổng thống).
-

Hình thức cấu trúc:

+

Nhà nước đơn nhất

+

Nhà nước liên bang

-

Hình thức Nhà nước theo chế độ chính trị thể hiện: Tình trạng dân chủ

hay phi dân chủ của một chế độ xã hội. Trong lịch sử tồn tại hai loại chế độ
chính trị chủ yếu: Chế độ dân chủ (dân chủ quý tộc, dân chủ tư sản, dân chủ
xã hội chủ nghĩa), chế độ chuyên chế hay độc tài (chuyên chế chủ nô, chuyên
chế phong kiến, chuyên chế phát xít...); Quyền tự do, dân chủ của công dân,
mức độ tham gia của công dân vào quá trình thiết lập các cơ quan chính

15


quyền nhà nước và thực hiện các chính sách nhà nước; Yếu tố quan trọng nhất
là phương pháp cai trị và quản lý xã hội của giai cấp cầm quyền.

Như vậy, hình thức nhà nước là sự hợp nhất của ba yếu tố: hình thức
chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị, ba yếu tố này có
mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại chặt chẽ với nhau, thực hiện
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, phản ánh bản chất của nhà nước.
1.1.4. Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước
Trong lịch sử loài người, dân chủ vừa là chế độ xã hội, một vấn đề chính
trị mang bản chất giai cấp; vừa là một trong những giá trị xã hội mang tính
phổ biến, tính nhân loại to lớn. Chính nội hàm đa nghĩa, đa chiều này đã làm
dân chủ trở thành vấn đề thời sự thu hút mối quan tâm to lớn cả về phương
diện lý luận và thực tiễn. Quá trình phát triển của lịch sử chính trị nhân loại
theo xu hướng tiến bộ cũng chính là quá trình phát triển của các nền dân chủ.
Xã hội càng phát triển thì các nhu cầu về dân chủ và quyền con người càng
trở thành đòi hỏi bức xúc.
Dân chủ, trước hết được xem xét với tư cách là một hình thức tổ chức
nhà nước, là khái niệm dùng để chỉ tính chất của mối quan hệ giữa cộng đồng
dân cư với nhà nước, theo đó cộng đồng là chủ thể gốc và có quyền năng áp
đặt ý chí lên nhà nước. Khác với các hình thức khác của thiết chế nhà nước,
trong thiết chế dân chủ, quyền của đa số, quyền bình đẳng của mọi công dân,
tính tối cao của pháp luật được chính thức thừa nhận; những cơ quan quyền
lực của nhà nước do dân bầu cử mà ra. Dân chủ được thực hiện thông qua hai
hình thức cơ bản: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Dân chủ còn được hiểu là một giá trị xã hội. Các cuộc đấu tranh giành
dân chủ đều dẫn đến khả năng giải phóng con người, nâng cao vị trí con
người trong lịch sử, hình thành và phát triển ở con người ý thức và năng lực
làm chủ xã hội. Dân chủ với ý nghĩa đó được xác định như một lý tưởng nhân
đạo, một giá trị nhân văn.

16



Dân chủ còn được xét với ý nghĩa là điều kiện để hình thành và phát triển
một nhân cách toàn diện của các chủ thể chính trị. Đó là sự hình thành thái độ,
tính tích cực chính trị, sự chủ động, nhu cầu và sự tự giác tham gia vào các quá
trình chính trị thực tiễn. Đó là tinh thần trách nhiệm của cá nhân công dân trong
cuộc đấu tranh nhằm loại bỏ những gì phản dân chủ đang tồn tại trong đời sống
cộng đồng. Do vậy, dân chủ không chỉ là phạm trù chính trị mà còn là phạm trù
đạo đức. Thực chất căn bản của nền dân chủ là đặt nhà cầm quyền dưới sự kiểm
soát của dân chúng. Không thể xây dựng được nền dân chủ nếu người dân không
có quyền hoặc không hiểu được quyền hạn của mình.

Trong lịch sử nhân loại chế dộ dân chủ được hình thành và phát triển
cùng với sự phát triển của xã hội. Nền dân chủ đầu tiên của nhân loại là nền
dân chủ Aten, kéo dài từ thế kỷ VII TCN đến cuối thế kỷ IV TCN. Nhà nước
Aten được đánh giá là nhà nước dân chủ nhất thời kỳ cổ đại, thậm chí đây còn
là hình thức dân chủ sơ khai nhất trong lịch sử từ khi có nhà nước và pháp
luật. Nhà nước Aten là nhà nước dân chủ chủ nô đầu tiên trong lịch sử nhân
loại, là nhà nước đầu tiên khai sinh ra hình thức dân chủ trực tiếp, khai sinh ra
hình thức chính thể Cộng hòa. Ở đó không chỉ quý tộc, tăng lữ mà thường dân
cũng được tham gia vào sinh hoạt chính trị của nhà nước khi thỏa mãn ba điều
kiện: là công dân tự do, cha và mẹ đều là người Aten, nam giới và đủ 18 tuổi.
Đây là một quy định đặc biệt tiến bộ đối với các nhà nước thời kỳ cổ đại.
Tuy nhiên tính chất dân chủ của nhà nước Aten cũng có nhiều hạn chế,
trước hết ta thấy số lượng những người không được tham gia vào đời sống
chính trị là phụ nữ, nô lệ và kiều dân chiếm số lượng áp đảo so với số lượng
dân tự do. Như vậy những người là lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội
không có quyền công dân. Hơn nữa trong số dân tự do, có không quá 30%
thỏa mãn đầy đủ cả ba yêu cầu: nam giới, đủ 18 tuổi, cha mẹ là người Aten.
Vì rất nhiều người già, phụ nữ và trẻ nhỏ hoặc nam giới 18 tuổi nhưng cha mẹ
là kiều dân thì cũng không được tham gia vào đời sống chính trị.


17


Trong suốt thời gian thống trị của chế độ phong kiến các tư tưởng dân
chủ xuất hiện lác đác, không điển hình và không trở thành một chính thể. Nó
lẩn khuất trong các giá trị đạo đức hay tôn giáo. Đến thế kỷ XVIII- XIX,
những tư tưởng thực sự dân chủ mới lại xuất hiện và trở thành thể chế của
phương Tây, hiện nay, mô hình chính trị này đã được nhiều nước trên thế giới
tiếp thu. Có hai nguyên tắc mà bất kỳ một thể chế dân chủ nào cũng phải tuân
thủ. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi thành viên của xã hội (công dân) đều có
quyền tiếp cận đến quyền lực một cách bình đẳng; và thứ hai là tất cả mọi
thành viên (công dân) đều được hưởng các quyền tự do được công nhận rộng
rãi. Hai nguyên tắc này đảm bảo cho nhà nước mang bản chất dân chủ (mà
không biến chất thành nhà nước chuyên chế, độc tài hay phát- xít).
Vì vậy chế độ dân chủ là một hình thái dân chủ gắn với bản chất, tính
chất của nhà nước, là trạng thái được xác định trong điều kiện lịch sử cụ thể
của xã hội có giai cấp. Chế độ dân chủ do giai cấp thống trị đặt ra và được thể
chế hóa bằng pháp luật. Nếu dân chủ là thước đo sự tiến bộ xã hội thì sự phát
triển của các chế độ dân chủ là biểu hiện của sự tiến bộ đó. Đó là một hình
thức của nhà nước được hình thành, phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử
xã hội.
1.2. Nhà nƣớc pháp quyền với việc thực hiện dân chủ
Về phương diện lý luận, nhà nước pháp quyền với tính cách là những
giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Do vậy nhà
nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước. Trong ý nghĩa này nhà
nước pháp quyền được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ,
cách thức tổ chức nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ.
1.2.1. Nhà nước pháp quyền là một hình thức thực hiện dân chủ
1.2.1.1. Lược sử tư tưởng nhà nước pháp quyền
Con người trong suốt chiều dài lịch sử xã hội luôn mơ ước khát khao về

một cuộc sống tốt đẹp hơn. Và lịch sử tiến bộ xã hội chính là quá trình đấu

18


tranh không mệt mỏi để thực hiện ước mơ ấy. Tồn tại trong xã hội, con người
luôn khát vọng, ước mơ và lý tưởng về các giá trị xã hội cao quý (như công
bằng và bác ái, nhân đạo và tình thương, dân chủ và tự do, pháp luật và pháp
chế). Thực tế các tư tưởng về nhà nước pháp quyền có cội nguồn hình thành
và phát triển từ hàng nghìn năm qua trên những chặng đường tìm kiếm các
phương tiện và phương pháp để nhằm đạt đến giá trị xã hội cao quý ấy. Có thể
tóm lược quá trình này như sau:
Về phương diện ngôn ngữ, thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” biểu hiện
trong ngôn ngữ châu Âu khác nhau. Người Đức gọi nhà nước pháp quyền là
“Rechtstaat”, trong khi đó, người Pháp gọi nhà nước pháp quyền là “Etat de
droit”, người Anh lại dùng cụm từ “The rule of law” để chỉ nhà nước pháp
quyền. Tuy dùng những cụm từ khác nhau để chỉ thuật ngữ nhà nước pháp
quyền, song nội hàm của khái niệm này ở các nước châu Âu được hiểu khá
thống nhất đó là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Về mặt lý luận, sau thời Phục hưng, do nhu cầu phải xây dựng một bộ
máy nhà nước mới, khác hẳn với nhà nước quân chủ chuyên chế phong kiến,
học thuyết về nhà nước pháp quyền tư sản đã từng bước hình thành. Đó là sự
phục hồi, kế thừa các giá trị tư tưởng về nhà nước pháp quyền thời Cổ đại và
nâng các giá trị đó lên tầm cao mới phù hợp với nhu cầu của lịch sử. Trong tác
phẩm “Leviathan” (Thủy quái), Thomas Hobbes (1588 - 1679) cho rằng, ước
muốn bảo tồn sự sống dẫn con người tới việc thiết lập các quy tắc ứng xử, các
quy tắc này được Hobbes gọi bằng một thuật ngữ khoa học pháp lý là jus
natural (quyền tự nhiên). Quyền tự nhiên hay tự do của con người là những
quyền mà con người được hưởng một cách đương nhiên, không phụ thuộc vào
bất kỳ chế độ chính trị nào. Tiếp theo tư tưởng của Hobbes, Locke (16321704) trong tác phẩm “Khảo lược thứ hai về chính quyền” đã căn cứ vào tính

chất, cách thức lập pháp để xác định các kiểu và các hình thức chính quyền
nhà nước. Ông cho rằng, trong lịch sử giai đoạn tiền tư bản, chính

19


×