Tải bản đầy đủ (.docx) (144 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về kháng chiến toàn diện giai đoạn 1945 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.2 KB, 144 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



----------

----------

NGUYỄN MẠNH QUỲNH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
KHÁNG CHIẾN TOÀN DIỆN
GIAI ĐOẠN 1945 - 1954

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học

Hà Nội – 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



----------

----------



NGUYỄN MẠNH QUỲNH

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
KHÁNG CHIẾN TOÀN DIỆN
GIAI ĐOẠN 1945 - 1954

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60 31 27

Người hướng dẫn khoa học: PGS. Lê Mậu Hãn

Hà Nội – 2013

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 3
Chƣơng 1. ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH

PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KHÁNG CHIẾN TOÀN

DIỆN GIAI ĐOẠN 1945-1954.............................................................................................. 13
1.1. Điều kiện lịch sử và cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
kháng chiến toàn diện................................................................................................................ 13
1.1.1. Điều kiện lịch sử............................................................................................................... 13
1.1.2 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện . 19


1.2 Quá trình hình thành và phát triển tƣ tƣởng kháng chiến toàn diện
của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1945-1954.............................................................. 30
1.2.1 Khái quát chung về chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn diện....30
1.2.2 Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng kháng chiến toàn diện
của Hồ Chí Minh giai đoạn 1945-1954............................................................................ 34
Chƣơng 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ KHÁNG CHIẾN TOÀN DIỆN GIAI ĐOẠN 1945-1954...........45
2.1 Mục đích, tính chất, nhiệm vụ và đối tƣợng của cách mạng Việt Nam
trong thời kỳ kháng chiến toàn diện chống thực dân Pháp xâm lƣợc.......47
2.1.1 Mục đích, tính chất của kháng chiến.................................................................... 47
2.1.2 Nhiệm vụ của kháng chiến.......................................................................................... 54
2.1.3 Đối tượng của kháng chiến toàn diện................................................................... 61
2.2 Những mặt trận chiến lƣợc trong cuộc kháng chiến toàn diện theo tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh.................................................................................................................... 66
2.2.1 Kháng chiến trên lĩnh vực chính trị....................................................................... 67
2.2.2 Kháng chiến trong lĩnh vực quân sự...................................................................... 74

1


2.2.3 Kháng chiến trên lĩnh vực ngoại giao................................................................... 80
2.2.4 Kháng chiến trên lĩnh vực kinh tế........................................................................... 83
2.2.5 Kháng chiến trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng................................................. 86
Chƣơng 3. GIÁ TRỊ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN CỦA TƢ TƢỞNG HỒ

CHÍ MINH VỀ KHÁNG CHIẾN TOÀN DIỆN GIAI ĐOẠN 1945-195491
3.1. Giá trị thực tiễn của tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn
diện trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.......................................... 92
3.2 Giá trị lý luận của đƣờng lối chiến tranh nhân dân của Đảng thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp.................................................................................. 109

3.2.1. Giá trị lý luận về bạo lực cách mạng................................................................. 110
3.2.2 Phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng toàn dân, toàn diện
................................................................................................................................................................ 113
3.2.3 Xây dựng và phát triển nghệ thuật quân sự.................................................... 117
3.2.4. Về con đường sáng tạo sức mạnh tổng hợp để giành chiến thắng . 121

KẾT LUẬN.................................................................................................................................... 126
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................... 130

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia nằm ở vị trí chiến lược ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương nên thường xuyên phải đương đầu với những kẻ thù xâm
lược. Trong lịch sử hàng nghìn năm của mình, từ thời Vua Hùng dựng nước
Văn Lang đến nay, tổ tiên ta đã bao lần phải đương đầu với những cuộc chiến
tranh xâm lược của các nước đế quốc hùng mạnh từ phương Bắc đến phương
Tây… Nhưng với bản lĩnh tuyệt vời, nhân dân Việt Nam đã anh dũng đứng
lên, xây dựng và thực thi một nghệ thuật giữ nước độc đáo: kết hợp giữa dựng
nước và giữ nước; huy động tất cả sức mạnh, tinh hoa trên các lĩnh vực, của
mọi tầng lớp người dân tạo thành một khối thống nhất để lập nên những kỳ
tích, đánh bại những kẻ thù lớn mạnh nhất khi chúng đặt chân lên bờ cõi nước
ta: Tần, Hán, Đường, Minh, Thanh… Trong thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta tiếp tục viết tiếp những trang sử
vẻ vang của tổ tiên, đánh bại hai cuộc chiến tranh xâm lược của những cường
quốc là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc nền độc lập tự chủ
của dân tộc. Trong thắng lợi vẻ vang, vĩ đại ấy, ngoài truyền thống anh dũng
của dân tộc thì nguyên nhân quan trọng nhất chính là đường lối kháng chiến
đúng đắn của Đảng ta theo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh - sự kết hợp tuyệt

vời giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và những giá trị tiêu biểu của dân tộc. Tư
tưởng ấy đã trở thành tài sản tinh thần quý báu nhất của nhân dân Việt Nam
trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bộ phận trong hệ tư
tưởng cách mạng của Người, là cơ sở tư tưởng của đường lối quân sự của
Đảng ta, phản ánh những vấn đề có tính quy luật trong chiến tranh nhân dân
Việt Nam, một nước thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế

3


quốc. Đó là một hệ thống về quy luật khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách
mạng, chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện… nhằm thực hiện mục tiêu
khôi phục và bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Trong đó, tư tưởng kháng chiến toàn diện là một trong những tư tưởng
nền tảng, quan trọng nhất và cũng là tư tưởng vĩ đại mà Người để lại cho
chúng ta.
Tư tưởng và nghệ thuật tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn
diện của Hồ Chí Minh có thể nói một cách bao quát là quá trình phát huy đến
mức cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh giặc trên tất cả các mặt
trận quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng nhằm tạo nên
sức mạnh tổng hợp, từng bước đánh bại quân thù, đưa cuộc kháng chiến của
nhân dân ta đến thắng lợi cuối cùng. Trong quá trình thực hiện kháng chiến
toàn diện, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định rõ vai trò của từng mặt trận.
Trong đó, đấu tranh quân sự đóng vai trò chủ yếu trên chiến trường. Bởi vì
cuối cùng bao giờ cũng phải thắng địch bằng quân sự, phải đập tan những đội
quân nhà nghề là công cụ chủ yếu của kẻ xâm lược. Đấu tranh chính trị là
hình thức đấu tranh cơ bản của chiến tranh nhân dân nhằm tập hợp, mở rộng
và củng cố các tổ chức quần chúng, xây dựng và phát triển các lực lượng
chính trị, tổ chức và lãnh đạo nhân dân đấu tranh với các hình thức và quy mô

phù hợp, để phối hợp với đấu tranh quân sự chống địch ở khắp mọi nơi, làm
cho địch phải phân tán lực lượng để đối phó. Đấu tranh ngoại giao cũng là
một mặt trận có ý nghĩa chiến lược, phối hợp với mặt trận quân sự và mặt trận
chính trị, nhằm vạch rõ tính chất phi nghĩa, phản động của cuộc chiến tranh
xâm lược của địch, khẳng định tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, ý
chí quyết tâm giành và giữ độc lập tự do của nhân dân ta, để tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ của các chính phủ và nhân dân các nước. Đấu tranh kinh tế là gia
sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng hậu phương vững mạnh,

4


có đủ sức người, sức của phục vụ cho tiền tuyến. Phải phát triển kinh tế của
ta, phá hoại kinh tế của địch. Đấu tranh văn hóa - tư tưởng, là một mặt trận,
mỗi văn nghệ sỹ, mỗi trí thức, mỗi nhà văn hóa cũng là một chiến sỹ trên mặt
trận ấy nhằm xóa bỏ đi nền văn hóa phản động của kẻ thù, xây dựng nền văn
hóa phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân lao động.
Tư tưởng kháng chiến toàn diện hình thành và được Hồ Chí Minh thực
hiện trong thực tiễn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954).
Tư tưởng ấy đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giúp nhân dân
ta đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, mà đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Không chỉ phát huy vai trò to lớn trong giai đoạn 1945-1954, tư tưởng
kháng chiến toàn diện của Hồ Chí Minh tiếp tục được kế thừa, phát huy hơn
nữa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975), hoàn thành sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Trong bối cảnh xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, với những vận động, biến chuyển mới, những
thời cơ, thách thức mới, vấn đề phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
sức mạnh tổng hợp của dân tộc, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân
dân… vẫn là những vấn đề nóng hổi, cần được nhận thức và giải quyết thấu

đáo trên cơ sở kế thừa, phát triển và vận dụng khoa học những lý luận, những
tư tưởng đã có, đã được kiểm chứng. Từ tất cả ý nghĩa đó, chúng tôi xin mạnh
dạn được chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh
về kháng chiến toàn diện giai đoạn 1945 - 1954” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề.
Trong những năm qua, lĩnh vực nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đã
gặt hái được những thành quả to lớn với sự tham gia của đông đảo các nhà

5


khoa học trong và ngoài nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn
diện cũng đã được các nhà khoa học nghiên cứu ở những chiều cạnh khác
nhau. Có thể chia thành những nhóm sau:
-

Các công trình nghiên cứu chung về tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một một con người vĩ đại, đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam; đã cùng
nhân dân Việt Nam lập nên biết bao kỳ tích có một không hai, “lừng lẫy năm
châu, chấn động địa cầu” trong thế kỷ XX; là một chiến sĩ cách mạng quốc tế
chân chính, được nhân dân và bạn bè quốc tế quý mến… Chính vì vậy, việc
nghiên cứu và tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự tham gia của nhiều
tác giả trong và ngoài nước. Có thể kể đến một số công trình sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [42]; Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta
[17]; Chủ tịch Hồ Chí Minh - những cống hiến về lý luận và thực tiễn vào sự
nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trong

thế kỷ XX [52]; Hồ Chí Minh nhà cách mạng sáng tạo [77]; Chủ tịch Hồ Chí
Minh và cách mạng Việt Nam [16]; Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ
Chí Minh [33]; Tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở Việt Nam [44]; Tư tưởng của Hồ Chí Minh và con đường
cách mạng Việt Nam [42]; Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới
ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh [45]...
-

Các công trình nghiên cứu về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh - Nhà chiến lược thiên tài, người cha thân yêu của các lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam [39]; Tìm hiểu di sản và sự nghiệp quân sự Hồ
Chí Minh [18]; Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh [79]; Tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh [73]; Tư duy quân sự Hồ Chí Minh, tiếp cận từ góc độ
văn hoá [13]; Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh [74]; Quân đội nhân dân
6


học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh [36]; Hồ Chí Minh
biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự [80], Hồ Chí Minh về xây dựng
các lực lượng vũ trang nhân dân [10]...
Trong nhóm công trình này, cuốn sách Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của
Chủ tịch Hồ Chí Minh (Viện lịch sử quân sự Việt Nam, 1990) đã trình bày về sự
nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa ra biên niên sự kiện
quân sự trong quãng đời hoạt động của Người; đồng thời dẫn dụ những ca ngợi
của thế giới về sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Người. Công trình đã thành
công trong luận giải nguồn gốc, nội dung tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh; đồng
thời, khi làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng quân sự, công trình đã đề
cập đến vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng lực lượng cách mạng.
Công trình Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh (Viện Lịch sử quân sự Việt

Nam, 2002) đã phân tích một cách toàn diện, hệ thống những tác phẩm quân sự
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu bật tư tưởng quân sự của Người, khẳng định đó
là hệ thống quan điểm về quan hệ giữa chính trị và quân sự, giữa chiến tranh và
hòa bình, về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, về xây dựng lực
lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa hậu phương, về chỉ đạo và điều hành chiến
tranh… Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang, công
trình cũng đã chỉ rõ nguồn gốc hình thành, những nội dung cơ bản và khẳng định
quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang là một bộ phận cấu
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng nói chung.

Bài Tư duy quân sự Hồ Chí Minh, tiếp cận từ góc độ văn hoá (Quang
Cận, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 5/2000) đã đề cập một số nội dung cụ
thể về tư duy quân sự Hồ Chí Minh, đó là: xác định mục đích của chiến tranh
cách mạng nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội; phát động và tổ chức toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang làm nòng
cốt; phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật đánh giặc toàn diện:

7


quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao... Phân tích tư duy quân sự Hồ
Chí Minh, tác giả đồng thời cũng đề cập đến quan điểm Hồ Chí Minh về xây
dựng lực lượng cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
công nông.
-

Các công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau của tư

tưởng kháng chiến toàn diện Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)

[32]; Về chiến tranh nhân dân Việt Nam [21]; Về sức mạnh tổng hợp của cách
mạng Việt Nam [35]; Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh [71]; Những kinh
nghiệm lớn của Đảng ta về lãnh đạo đấu tranh vũ trang và xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng [38]...
Các công trình kể trên đã đề cập và tìm hiểu tương đối sâu sắc về các
khía cạnh khác nhau trong tư tưởng kháng chiến toàn diện của Hồ Chí Minh
như: Xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt cho mặt trận đấu
tranh quân sự; Xây dựng lực lượng chính trị và tổ chức Đảng trong kháng
chiến; Nghệ thuật huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc trong
quá trình đấu tranh bảo vệ đất nước... Tuy nhiên, do mục đích và đối tượng
nghiên cứu của các tác giả chủ yếu là nhấn mạnh đến tư tưởng và vai trò của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực khác nhau nên chưa có công trình
chuyên khảo nào đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến
toàn diện, đặc biệt là trong giai đoạn 1945-1954.
Tổng quan tình hình công tác nghiên cứu có liên quan đến vấn đề mà
luận văn tìm hiểu, có thể đưa ra một số kết luận sau:
-

Các nhà nghiên cứu đi trước chủ yếu nghiên cứu về tư tưởng quân sự

quân sự Hồ Chí Minh, về xây dựng lực lượng vũ trang theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện được đề cập đến chủ

8


yếu với tư cách là một minh chứng, một nội dung liên quan, nhằm làm bổ trợ,
làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu chính là tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
-


Các công trình nghiên cứu đã liệt kê là những tư liệu quý, những cơ sở

quan trọng để tác giả luận văn tham khảo, kế thừa trong quá trình hoàn thành
mục đích nghiên cứu của luận văn.
-

Cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ, hệ thống,

toàn diện mọi chiều cạnh của tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn
diện, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) cũng như sự
vận dụng tư tưởng ấy của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng
như trong giai đoạn hiện nay.
-

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện và vai trò của nó

trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) cần được nghiên cứu một
cách toàn diện, hệ thống, dựa trên việc khai thác và xử lý tư liệu một cách
khoa học; làm rõ những những nội dung cơ bản, cốt yếu trên mọi chiều cạnh;
chỉ ra tính độc đáo, đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn
diện; chỉ ra những giá trị thực tiễn và giá trị lý luận để phục vụ cho sự nghiệp
xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc hiện nay. Đó cũng chính là những mục
tiêu, nhiệm vụ mà tác giả luận văn cố gắng giải quyết và hoàn thành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
-

Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện, sự vận dụng

tư tưởng của Người vào thực tiễn trong giai đoạn 1945-1954 trên tất cả các

mặt: quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa - xã hội; mối quan hệ biện
chứng giữa các yếu tố kể trên để tạo nên thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.
-

Chỉ ra những giá trị thực tiễn và giá trị lý luận của tư tưởng Hồ Chí

Minh về kháng chiến toàn diện, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm phục

9


vụ cho quá trình xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh tổng hợp, toàn diện
của dân tộc trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như đã xác định, luận văn giải quyết những
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
-

Trình bày nguồn gốc, quá trình hình thành, những nội dung cơ bản của

tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện.
-

Phân tích quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến

toàn diện vào thực tiễn đấu tranh trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp
1945-1954.
-


Làm rõ những giá trị trong thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về

kháng chiến toàn diện trong giai đoạn cách mạng 1945-1954; trình bày và
phân tích những giá trị lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn
diện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống các văn kiện, bài viết của
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như của Đảng ta phản ánh tư tưởng Hồ Chí Minh
về kháng chiến toàn diện trong giai đoạn 1945-1954.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành, những nội dung cơ bản của
tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện trong cuộc kháng chiến
chống Pháp 1945-1954.

10


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và nguồn tư liệu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
khởi nghĩa vũ trang, về chiến tranh cách mạng, về đấu tranh quân sự; ngoài ra
còn là những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và
đường lối của Đảng ta…
Nguồn tư liệu của luận văn bao gồm:
-

Các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh cách


mạng, về hoạt động quân sự, về khởi nghĩa vũ trang, về vai trò của quần
chúng nhân dân… là nguồn tài liệu quan trọng.
-

Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn kiện Đảng là những tài

liệu gốc của luận văn.
-

Các công trình nghiên cứu khoa học, các sách, báo có liên quan do các

cơ quan nghiên cứu uy tín đã công bố như Viện Lịch sử Đảng, Viện Lịch sử
quân sự Việt Nam, Viện Sử học… là nguồn tư liệu quan trọng, dùng để làm
sáng tỏ các nội dung nghiên cứu khác nhau của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi đã sử dụng
rộng rãi các phương pháp khoa học phổ quát như lịch sử, lôgic... Trong đó,
phương pháp lịch sử được sử dụng trong quá trình sưu tầm và lựa chọn tài liệu
có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để làm rõ các yếu tố như: Sự kiện, thời
gian, nhân vật… Phương pháp lôgic được sử dụng trong quá trình sắp xếp các
tư liệu, các vấn đề theo một trình tự khoa học nhất nhằm thể hiện rõ nội dung
của đề tài luận văn. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học cơ bản khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, để khảo cứu toàn
diện, hệ thống những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí

11


Minh về kháng chiến toàn diện; sự vận dụng trong thực tiễn tư tưởng Hồ Chí
Minh về kháng chiến toàn diện trong giai đoạn 1945-1954. Nhằm làm rõ tính

hệ thống, toàn diện, giá trị độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến
toàn diện, phương pháp khái quát hóa cũng được sử dụng tích cực.
6. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất, góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc, quá trình hình thành, những
nội dung cơ bản, những giá trị thực tiễn và lý luận, những độc đáo của tư
tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện.
Thứ hai, góp phần làm rõ thành công, những bài học kinh nghiệm của
quá trình vận dụng trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của tư tưởng Hồ Chí
Minh về kháng chiến toàn diện trong giai đoạn 1945-1954; phát huy, vận dụng
sáng tạo tư tưởng ấy vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.
Thứ ba, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, hoặc giảng dạy những vấn đề, môn học liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận văn được kết cấu thành ba chương, 6 tiết:
Chương 1. Điều kiện lịch sử, cơ sở hình thành và quá trình phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn diện giai đoạn 1945-1954.
Chương 2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng
chiến toàn diện giai đoạn 1945-1954.
Chương 3. Giá trị thực tiễn và lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về
kháng chiến toàn diện giai đoạn 1945-1954.

12


Chƣơng 1
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ, CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH
THÀNH, PHÁT TRIỂN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KHÁNG
CHIẾN TOÀN DIỆN GIAI ĐOẠN 1945-1954
1.1. Điều kiện lịch sử và cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về

kháng chiến toàn diện.
1.1.1. Điều kiện lịch sử
Từ năm 1858, thực dân Pháp phát động cuộc chiến tranh xâm lược, thôn
tính lãnh thổ Việt Nam. Vấp phải sự chống trả quyết liệt của nhân dân ta, thực
dân Pháp không thể thực hiện được chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh nên
phải sau hơn một phần tư thế kỷ, đến năm 1884, với Hiệp ước Pa-tơ-nốt, thực
dân Pháp mới cơ bản chiếm được Việt Nam. Các phong trào đấu tranh vũ
trang của nhân dân ta dưới ngọn cờ phong kiến bị đàn áp và tổn thất nặng nề.
Sự thất bại của các phong trào đó bộc lộ sự yếu kém của lực lượng lãnh đạo,
của đường lối đấu tranh. Biểu hiện cụ thể nhất của điều này, chính là việc
trong khi dựng cờ cứu nước, những sĩ phu yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ
XIX vẫn giương cao ngọn cờ phong kiến, theo đuổi tư tưởng phong kiến đã
lỗi thời và lạc hậu... nên thất bại là điều không thể tránh khỏi.
Sau khi bình định xong các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân
Pháp tiến hành quá trình khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột
nhân công rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của
chính quốc... Các chương trình khai thác thuộc địa ấy đã có tác động rất lớn đối
với Việt Nam, làm cho nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu, trì trệ, ngày càng trở
nên què quặt, lệ thuộc vào kinh tế chính quốc. Việt Nam từ một xã hội phong
kiến đơn thuần với hai giai cấp cơ bản, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đã
trở thành một xã hội nửa thuộc địa nửa phong kiến, với sự xuất

13


hiện của các tầng lớp và giai cấp mới. Các mâu thuẫn trong xã hội ngày càng
diễn ra gay gắt, trong đó, nổi bật lên là mâu thuẫn dân tộc - mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc ta với bọn đế quốc thực dân xâm lược.
Một hệ quả khác của quá trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
chính là sự xuất hiện của những tầng lớp, giai cấp xã hội mới, cũng như sự

“du nhập” của các luồng tư tưởng dân chủ tư sản của cách mạng tư sản Pháp
(1789), của phong trào Duy Tân ở Nhật Bản (1868), của cuộc vận động Duy
Tân (1898) và cách mạng Tân Hợi (1911) ở Trung Quốc... vào nước ta trong
những thập niên đầu của thế kỷ XX. Điều này đã dẫn tới sự hình thành và
phát triển của các phong trào đấu tranh cách mạng chống Pháp mới, tiêu biểu
là phong trào Đông Du (1905-1908), Đông Kinh nghĩa thục (1907), cuộc vận
động Duy tân và chống thuế ở Trung Kỳ (1908), Việt Nam Quang phục hội
(1912), phong trào yêu nước của các tầng lớp tiểu tư sản thành thị,... Mặc dù
phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng tư sản diễn ra sôi nổi,
nhưng cuối cùng đều bị thực dân Pháp đàn áp và thất bại. Nguyên nhân chủ
yếu là do điều kiện lịch sử hạn chế, lãnh đạo các phong trào đều chưa nhận rõ
được kẻ thù, chưa nhận rõ được nhiệm vụ cơ bản và đề ra được một đường lối
đấu tranh thực sự đúng đắn; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả
dân tộc...
Sự thất bại của các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân nước
ta lúc bấy giờ đã làm cho cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng
hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, “đen tối như không có đường ra”. Một
yêu cầu cấp bách được lịch sử đặt ra lúc bấy giờ là cần phải có một đường lối
cứu nước, đấu tranh đúng đắn, phù hợp hơn, giải quyết được vấn đề cấp bách
nhất mà xã hội nước ta lúc bấy giờ đặt ra: đánh đổ ách thống trị của thực dân
Pháp - một kẻ thù lớn mạnh hơn chúng ta rất nhiều lần.

14


Đáp ứng yêu cầu lịch sử, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
xuất hiện. Thông qua quá trình bôn ba tìm đường cứu nước của mình, Người
đã tìm ra và truyền bá con đường cách mạng vô sản vào Việt Nam, từng bước
tập hợp và lãnh đạo nhân dân ta đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp.
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh

ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại Nam Đàn, Nghệ An trong một gia đình trí thức
yêu nước. Ngay từ khi còn rất nhỏ, Người đã được giáo dục về truyền thống
dân tộc, tinh thần đấu tranh của nhân dân… lại lớn lên trong hoàn cảnh đất
nước bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ, nhân dân phải sống trong cảnh cơ
cực, bần hàn nên Người sớm có hoài bão cứu nước, cứu dân ra khỏi cảnh nô
lệ.
Năm 1911, Người ra đi tìm đường cứu nước, bôn ba khắp các châu lục,
các quốc gia khác nhau để tìm hiểu các cuộc cách mạng trên thế giới, với
mong muốn tìm ra một con đường phù hợp nhất, tiến bộ nhất về cứu nước cứu
dân. Năm 1920, Người tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin từ khi đọc được
bản sơ thảo lần thứ nhất “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
Lênin. Thông qua đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước chân chính cho sự
nghiệp cứu dân, giải phóng dân tộc. Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp, tán thành tham gia Quốc tế III… Những sự kiện đó đánh dấu sự chuyển
biến quan trọng về chất lượng trong tư tưởng của Người: Từ một người yêu
nước trở thành một người cộng sản, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai
cấp…
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Người tiếp tục nghiên cứu về chủ
nghĩa Mác - Lênin tại Liên Xô, Trung Quốc đồng thời tích cực chuẩn bị về tư
tưởng và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản đầu tiên ở nước ta.
Mùa xuân năm 1930, Người đứng ra thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,

15


soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng - sự cụ thể hóa con đường
cứu nước, giải phóng dân tộc ta. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ muốn tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, nhất thiết phải
huy động sức mạnh của toàn thể dân tộc, phải tập hợp được khối đoàn kết
toàn dân rộng lớn lấy liên minh công nông làm nòng cốt, phấn đấu vì mục tiêu

giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Đường lối ấy đã chấm dứt sự khủng
hoảng đường lối cứu nước từ khi phong trào đấu tranh chống Pháp của sĩ phu
phong kiến, trí thức tiểu tư sản và tư sản dân tộc, đánh dấu bước đầu sự thắng
lợi của con đường cách mạng vô sản ở nước ta.
Năm 1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước ở hải ngoại, Người
trở về Việt Nam, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Tháng
8 năm 1945, Hồ Chí Minh lãnh đạo cả nước đứng lên tiến hành Cách mạng
tháng Tám, lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật, thực dân Pháp và bè lũ
phong kiến tay sai, thành lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước
công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Thắng lợi vĩ đại ấy đã đưa nước ta từ một
nước nửa thuộc địa nửa phong kiến trở thành nước độc lập và tự do, tiến bước
vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do; nhân dân ta từ thân phận nô lệ
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Tuy vừa mới ra đời, nhưng gần như ngay lập tức, nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn, thách thức.
Nạn đói khủng khiếp, hậu quả nặng nề của chính sách vơ vét, bóc lột
thuộc địa của đế quốc, phát xít Nhật - Pháp diễn ra từ đầu năm 1945 chưa
chấm dứt. Vùng Bắc Bộ xảy ra nạn lụt lớn và sau đó là hạn hán nghiêm trọng
làm cho hơn 50% ruộng đất bị hoang hoá. Mọi ngành sản xuất đình đốn, các
kho tàng trống rỗng, hàng hoá trở nên hết sức khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tình
hình tài chính vô cùng khó khăn, kho bạc chỉ có hơn 1,2 triệu đồng,

16


trong đó quá nửa là tiền rách nát, không tiêu được. Ngân hàng Đông Dương
vẫn nằm trong tay tư bản Pháp. Khi quân Tưởng kéo vào lại tung tiền quốc tệ
và quan kim ra thị trường, gây rối loạn tài chính.
Di sản văn hoá lạc hậu do chế độ thực dân, phong kiến hết sức nặng nề:
hơn 95% số dân nước ta bị mù chữ; các tệ nạn xã hội như thuốc phiện, nghiện

rượu, nạn cờ bạc, trộm cắp, mê tín dị đoan... cần tập trung sức giải quyết.
Bên cạnh những khó khăn trên, nước ta lại bị đe dọa bởi nhiều thế lực đế
quốc và phản động. Theo thỏa thuận của các nước lớn trong phe Đồng minh
sau khi thắng trận, việc giải giáp quân Nhật ở Bắc Đông Dương giao cho
Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch); ở Nam Đông Dương giao cho Anh. Vì vậy,
ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng tràn vào phía bắc vĩ tuyến 16 nước ta với
danh nghĩa tước vũ khí quân đội Nhật, nhưng thực chất là thi hành âm mưu
thâm độc nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá Mặt trận Việt Minh và lật đổ
chính quyền nhân dân, lập chính phủ bù nhìn làm tay sai cho chúng. Ở miền
Nam, từ phía nam vĩ tuyến 16, quân Anh kéo vào để tước vũ khí của quân
Nhật, nhưng lại mở đường cho thực dân Pháp quay trở lại cướp nước ta một
lần nữa (kể cả quân Pháp bám theo quân Anh, số quân này lên tới gần 100.000
tên). Các tổ chức phản động như Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt
Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách), Đại Việt… núp bóng đế quốc
cũng ráo diết hoạt động chống phá cách mạng. Ngày 23-9-1945, được sự phối
hợp của quân Anh, quân Pháp đánh chiếm Sài Gòn rồi mở rộng đánh chiếm
các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ… Các thế lực đế quốc trên có những toan
tính riêng và mâu thuẫn với nhau nhưng đều có chung một mục đích tiêu diệt
chính quyền nhân dân, xoá bỏ thành quả của Cách mạng tháng Tám ở nước ta.
Biểu hiện cụ thể nhất của điều này chính là Hiệp ước Hoa - Pháp ký ngày 282-1946, giữa thực dân Pháp và quân Tưởng. Theo đó, quân

17


Pháp sẽ thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật thay cho quân
Tưởng ở miền bắc nước ta. Hiệp ước này đã tạo điều kiện để thực dân Pháp
nhanh chóng phát động cuộc chiến tranh xâm lược trên toàn lãnh thổ Việt
Nam.
Chưa bao giờ trên đất nước ta lại xuất hiện nhiều kẻ thù như lúc này.
Những khó khăn to lớn trên đặt dân tộc ta trước thử thách nghiêm trọng:

chính quyền nhân dân vừa được thành lập có nguy cơ bị lật đổ, nền độc lập
dân tộc vừa giành được có nguy cơ bị mất, tình thế cách mạng chẳng khác nào
"ngàn cân treo sợi tóc". Lịch sử đặt ra một yêu cầu cấp bách là cần phải có
một đường lối đấu tranh đúng đắn, sáng tạo để đưa nhân dân ta, dân tộc ta
vượt qua những thách thức “chưa từng có”, đập tan những âm mưu và hành
động chống phá, xâm lược của kẻ thù.
Đáp ứng yêu cầu của lịch sử, Đảng ta - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh, trên cơ sở Cương lĩnh chính trị đã đề ra và thực hiện từ năm 1930 cũng
như kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn 1930-1945,
căn cứ vào thực tế trong thời kỳ 1945-1946 đã thực hiện nhiều biện pháp, ban
hành nhiều văn kiện để đề ra và thực hiện đường lối lãnh kháng chiến chống
thực dân Pháp. Cụ thể là bản “Tuyên ngôn độc lập” (2-9-1945), “Chỉ thị
kháng chiến - kiến quốc” (25-11-1945), “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”
(19-12-1946)… Những văn kiện này đã đánh dấu sự ra đời của đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh của Đảng ta.
Đường lối này bao gồm nhiều yếu tố, nhiều nội dung phục vụ cho quá trình
lãnh đạo nhân dân ta tiến hành song song cuộc kháng chiến chống Pháp và
quá trình xây dựng, củng cố chế độ dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Trong đó, nội dung, tư tưởng kháng chiến toàn diện là là một trong
những nội dung quan trọng, độc đáo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra, nhằm

18


huy động và phát huy sức mạnh toàn thể dân tộc tham gia vào cuộc kháng
chiến chống Pháp, giữ vững nền độc lập, tự chủ vừa giành được.
1.1.2 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về kháng chiến toàn
diện
Truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc những giá trị to lớn của

truyền thống quân sự dân tộc ta qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Người trân trọng, kế thừa và phát triển những truyền thống, tinh hoa
quân sự của dân tộc lên một trình độ mới để đáp ứng những đòi hỏi của cách
mạng trong thời đại mới.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta đã biết dựa
vào dân, huy động sức mạnh của toàn thể dân tộc để chống lại những kẻ thù
lớn mạnh hơn ta gấp trăm lần về tiềm lực kinh tế, về sức mạnh quân sự bằng
cách biết “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”, “cả nước đấu sức lại
mà đánh”, “tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”
(Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn), kết hợp quân triều đình với quân địa
phương và dân binh, tổ chức lực lượng từ nhân dân với “ngụ binh ư nông”,
“trăm họ đều là binh”, “phụ tử chi binh”… Trong điều kiện một nước đất
không rộng, người không đông lại phải chống lại một đội quân xâm lược hùng
mạnh của một nước phong kiến lớn, dân tộc ta luôn nêu cao tinh thần “thực
túc binh cường”, tìm tòi và sáng tạo nên một nghệ thuật đánh giặc độc đáo:
“lấy ít đánh nhiều”, “lấy yếu trị mạnh, lấy đoản chống trường”…
Những truyền thống đó được kế thừa và phát triển trong điều kiện mới
để đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp,
bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Hồ Chí Minh khẳng định “sự đồng tâm của
đồng bào ta đúc thành một bức tường xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn,

19


xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất
bại” [58, tr.151]. Trong toàn bộ tư tưởng và thực tiễn hoạt động cách mạng
của mình, đặc biệt trong lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến chống Pháp... Người
đều dựa vào nhân dân và phát huy sức mạnh của nhân dân, sức mạnh tổng
hợp của toàn dân tộc.
Truyền thống quân sự của dân tộc ta còn được kết tinh ở ý chí bất khuất,

kiên cường, quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc. Kế thừa truyền
thống đó của dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định “toàn thể dân Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy'' [56, tr. 557]. Thực tế lịch sử trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp cho thấy tinh thần quyết tâm, ý chí sắt đá của cả dân tộc ta đã
được phát huy cao độ. Đó là cơ sở đảm bảo thực hiện việc vũ trang toàn dân,
cả nước đánh giặc, đánh địch không chỉ ở tiền tuyến mà cả ở vùng sau lưng
địch, đánh giặc trên tất cả các mặt trận để tạo nên thế trận chiến tranh toàn
diện, rộng khắp, từng bước nhấn chìm bè lũ cướp nước và bán nước.
Truyền thống quân sự Việt Nam còn được thể hiện ở nghệ thuật tiến
hành chiến tranh tài tình, độc đáo của ông cha ta. Trong lịch sử dựng nước và
giữ nước, ông cha ta đã đề ra kế sách “ngụ binh ư nông”, “thực túc binh
cường” - để có thể vừa xây dựng, vừa bảo vệ đất nước; dùng đoản binh chế
trường trận để hạn chế sức mạnh ban đầu của địch; xây dựng hậu phương
trong lòng dân, làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của mình; không
chỉ tập trung đánh địch bằng quân sự, hay “công thành” mà còn làm rất tốt
công tác địch vận, hay “công tâm”; biết khởi đầu và kết thúc chiến tranh một
cách đúng lúc... Kế thừa nghệ thuật đánh giặc của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn chủ động chuẩn bị lực lượng và điều kiện, tạo ra và đón lấy thời
cơ, buộc địch phải đánh theo cách đánh của ta, hạn chế ưu thế vũ khí của kẻ

20


thù, thực hiện phương châm toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến để
giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Hồ Chí Minh đã luôn chú trọng xây dựng lực lượng kháng chiến trong
nhân dân lớn mạnh. Kế thừa các chính sách “ngụ binh ư nông”, quan điểm
''quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa''… Người luôn quan tâm chăm lo xây dựng
lực lượng quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ, có lý tưởng chiến đấu cao

vì nhân dân, vì Tổ quốc. Để làm được điều này, Hồ Chí Minh đã thực hiện và
đáp ứng những nhu cầu thiết thân của nhân dân về kinh tế, văn hóa giáo dục
như tiến hành giảm thuế, chia ruộng đất cho nông dân; chỉ đạo ban hành bản
“Đề cương văn hóa Việt Nam” đáp ứng yêu cầu của giới văn nghệ sỹ… Chính
những chính sách này đã làm cho các tầng lớp, bộ phận nhân dân khác nhau
thấy được rằng chỉ có tham gia kháng chiến mới có cuộc sống thực sự ấm no,
hạnh phúc. Từ đó, để phát huy sức mạnh của tất cả các tầng lớp, bộ phận nhân
dân, Người chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt
cho toàn dân đánh giặc, quan tâm chăm lo xây dựng và phát huy bản chất giai
cấp công nhân, hình thành nên hình ảnh và phẩm chất của “Anh bộ đội cụ
Hồ”, để tiếp nối truyền thống của những đội quân “Sát Thát” thời Trần, đội
quân “trên trời rơi xuống, dưới đất chui lên” thời Tây Sơn...
Sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều
kiện Việt Nam.
Quyết tâm ra nước ngoài học hỏi để trở về giúp đồng bào mình, Hồ Chí
Minh đã trang bị cho mình vốn kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn phong phú và
tiếp thu văn hóa phương Tây, nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin.
Người nhận thức và lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi đó là con đường
cách mạng duy nhất phù hợp với đặc điểm tình hình của Việt Nam, phù hợp
xu thế của thời đại.

21


Học thuyết quân sự Mác - Lênin là học thuyết quân sự của giai cấp vô
sản, mang tính cách mạng và khoa học. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và
vận dụng sáng tạo học thuyết này vào thực tiễn ở Việt Nam, vào đường lối
kháng chiến toàn diện của Người với những biểu hiện chủ yếu là:
-


Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng lao động là lực lượng

quyết định sự phát triển của xã hội và thắng lợi sẽ thuộc về những người bị
bóc lột vì cuộc sống ủng hộ họ, vì họ có sức mạnh về số lượng, sức mạnh của
quần chúng, những nguồn vô tận về lòng hy sinh, về lý tưởng, về tính trung
thực của những người mà người ta gọi là “dân thường” tức là những người
công nhân và nông dân đang tiến lên phía trước, đang giác ngộ để xây dựng
một thế giới mới, có những dự trữ về nghị lực và tài năng hết sức lớn lao.
Chính vì thấy được sức mạnh cải tạo thế giới của nhân dân lao động nên chủ
nghĩa Mác - Lênin hết sức coi trọng vai trò của họ. Quá trình giải phóng nhân
dân lao động chỉ có thể là sự nghiệp của chính bản thân họ nhưng nếu không
được giác ngộ và không được tổ chức thì không thể nói đến thắng lợi. Trong
các phương thức tiến hành chiến tranh cách mạng, để có được chiến thắng
không thể không chú ý đến chiến tranh nhân dân. Ăngghen cho rằng: Một dân
tộc muốn giành được độc lập thì không tự hạn chế mình trong những phương
thức chiến tranh thông thường. Khởi nghĩa của quần chúng, chiến tranh cách
mạng, những đội du kích ở khắp nơi... là phương thức duy nhất mà nhờ nó
một dân tộc nhỏ có thể thắng một dân tộc lớn; nhờ nó một quân đội yếu hơn
có thể chống lại một quân đội mạnh hơn và được tổ chức tốt hơn. Kế thừa
những quan điểm này, Hồ Chí Minh luôn coi quần chúng nhân dân lao động,
cụ thể là liên minh công nhân - nông dân là lực lượng quan trọng nhất, là
động lực của toàn bộ cuộc kháng chiến.
-

Theo mục đích của học thuyết quân sự Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã

xác định đúng đắn mục tiêu của cuộc kháng chiến ở Việt Nam là: Giữ vững
22



nền độc lập dân tộc vừa mới giành được sau Cách mạng tháng Tám năm
1945, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Đây là nền tảng cơ sở, là gốc rễ và cũng là mục tiêu của cuộc kháng
chiến. Nó quyết định phương hướng, nhiệm vụ hoạt động quân sự, kinh tế,
ngoại giao; quyết định cách thức tổ chức, xây dựng lực lượng; quyết định
phương thức đấu tranh trên từng lĩnh vực phù hợp với từng giai đoạn lịch sử
để giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
-

Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng phương pháp biện chứng cách mạng,

khoa học trong học thuyết quân sự Mác - Lênin để giải quyết các vấn đề về
hoạt động quân sự và xây dựng hậu phương ở Việt Nam. Trong đó, Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm đến quan điểm hậu phương là nhân tố thường xuyên
quyết định thắng lợi của chiến tranh, phương pháp xây dựng lực lượng, nghệ
thuật chỉ đạo chiến tranh… Những nội dung này được coi là cẩm nang giúp
Người giải quyết sáng tạo vấn đề trọng tâm của cuộc kháng chiến, là phương
pháp làm biến đổi tương quan so sánh lực lượng để thực hiện quy luật mạnh
được, yếu thua. Đồng thời, đó còn là cơ sở quan trọng để Hồ Chí Minh phát
triển sáng tạo tư duy khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam, khai thác triệt để
thiên thời, địa lợi, nhân hoà, thực hiện tài tình việc tạo lực, lập thế, tranh thời,
dùng mưu, xây dựng sức mạnh tổng hợp trong quá trình lãnh đạo nhân dân ta
kháng chiến.
-

Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc và vận dụng tư tưởng của chủ nghĩa

Mác - Lênin về phương thức tiến hành chiến tranh là: một dân tộc nhỏ để
chiến thắng một đế quốc mạnh, giành độc lập dân tộc thì nhất thiết không
được giới hạn trong những phương thức tiến hành chiến tranh thông thường

mà phải linh hoạt trong kết hợp giữa khởi nghĩa vũ trang với chiến tranh cách
mạng; đánh địch không phải chỉ trên chiến trường mà còn phải trên tất cả các
mặt: củng cố tiềm lực kinh tế; tranh thủ ngoại giao để sự ủng hộ của bạn bè
23


×