ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––
NGUYỄN NGỌC HẢI YẾN
TRUYỆN THƠ NÔM "BÍCH CÂU KỲ NGỘ”
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2020
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––––––
NGUYỄN NGỌC HẢI YẾN
TRUYỆN THƠ NÔM "BÍCH CÂU KỲ NGỘ”
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã ngành: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ NHUNG
THÁI NGUYÊN - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và nội dung này chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đó.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Ngọc Hải Yến
i
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Nhung - người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cán bộ, giảng viên khoa Ngữ văn, khoa
Sau Đại học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã chỉ bảo tận tình và
tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu để hoàn
thành luận văn.
Trong quá trình thực hiện luận văn, do hạn chế về mặt thời gian cũng như trình độ
chuyên môn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý
kiến quý báu của các thầy cô giáo, các nhà khoa học và bạn bè.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái nguyên, tháng 9 năm 2020
Tác giả luận văn
Nguyễn Ngọc Hải Yến
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề.................................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9
6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 10
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 10
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG......................................................... 11
1.1. Khái quát về văn hóa, văn học và mối quan hệ giữa văn hóa và văn học.. 11
1.1.1. Khái niệm về “văn hoá” và “văn học”..................................................... 11
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học..................................................... 15
1.1.3. Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu văn học....................... 17
1.2. Đạo giáo và ảnh hưởng của Đạo giáo trong văn học trung đại Việt Nam . 20
1.2.1. Đạo giáo................................................................................................... 20
1.2.2. Ảnh hưởng của Đạo giáo trong văn học trung đại Việt Nam.................. 22
1.3. Tác giả Vũ Quốc Trân và truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ ..................... 26
1.3.1. Tác giả Vũ Quốc Trân ............................................................................. 26
1.3.2. Truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ........................................................... 27
Chương 2: NỘI DUNG TRUYỆN THƠ NÔM BÍCH CÂU KỲ NGỘ TỪ
GÓC NHÌN VĂN HÓA................................................................................... 30
2.1. Con người trong Bích Câu kỳ ngộ .............................................................. 30
2.1.1. Người nam trong Bích Câu kỳ ngộ .......................................................... 30
3
2.1.2. Người nữ trong Bích Câu kỳ ngộ............................................................. 39
2.1.3. Ứng xử của con người trong Bích Câu kỳ ngộ ........................................ 45
2.2. Di tích lịch sử - văn hóa Việt Nam trong Bích Câu kỳ ngộ........................ 54
2.2.1. Bích Câu đạo quán................................................................................... 54
2.2.2. Chùa Ngọc Hồ ......................................................................................... 58
2.3. Ảnh hưởng của Đạo giáo trong Bích Câu kỳ ngộ....................................... 60
2.3.1. Ảnh hưởng trong cốt truyện .................................................................... 60
2.3.2. Ảnh hưởng trong tư tưởng....................................................................... 63
Chương 3: NGHỆ THUẬT TRUYỆN THƠ NÔM BÍCH CÂU KỲ NGỘ
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA ............................................................................ 67
3.1. Kết cấu ........................................................................................................ 67
3.2. Không gian - Thời gian............................................................................... 72
3.2.1. Không gian............................................................................................... 72
3.2.2. Thời gian.................................................................................................. 77
3.3. Ngôn ngữ .................................................................................................... 80
3.4.1. Ngôn ngữ mang đậm màu sắc Đạo giáo.................................................. 81
3.4.2. Ngôn ngữ ảnh hưởng của văn hoá dân gian ............................................ 84
3.4.3. Ngôn ngữ ảnh hưởng của văn hoá phương Đông.................................... 89
KẾT LUẬN....................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 98
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Mỗi dân tộc, mỗi vùng đất trên thế giới đều có một nền văn hóa mang bản
sắc riêng, đặc thù riêng. Và cũng chính đặc thù ở mỗi nền văn hóa ấy sẽ tạo nên đặc
điểm, dấu ấn riêng cho mỗi nền văn học. Bởi, văn học chính là “tấm gương phản
chiếu” văn hoá bằng nghệ thuật ngôn từ. Tìm hiểu một tác phẩm văn học mà tách rời
văn hoá sẽ dẫn đến những khó khăn, sai lầm không thể tránh khỏi. Bởi vậy, việc tìm
hiểu văn học trong mối quan hệ với văn hoá là một hướng đi cần thiết và có triển
vọng.
1.2. Trong di sản nền văn học dân tộc, truyện thơ Nôm là một bộ phận văn học
độc đáo, chiếm số lượng khá lớn và có một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần
của dân tộc, mỗi tác phẩm đều mang đậm dấu ấn đặc trưng của văn học và văn hóa
thời đại. Bên cạnh những tác phẩm truyện thơ Nôm đặc sắc như: Truyện Kiều
(Nguyễn Du), Truyện Hoa Tiên (Nguyễn Huy Tự), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình
Chiểu) ... thì Bích Câu kỳ ngộ cũng là một truyện thơ Nôm đặc sắc. Khi tìm hiểu Bích
Câu kỳ ngộ, chúng tôi nhận thấy đằng sau câu chuyện mang màu sắc hoang đường,
kỳ ảo đó là những giá trị văn hóa, tư tưởng gắn liền với lịch sử Thăng Long, với các
sự tích lưu truyền trong dân gian, mang đậm dấu ấn thời đại. Đó chính là điều làm
nên giá trị và sức sống trường tồn của tác phẩm. Bởi vậy, chúng tôi chọn Bích Câu kỳ
ngộ làm đối tượng nghiên cứu. Trong khi đó, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên
cứu về các sáng tác truyện thơ Nôm nói chung và truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ nói
riêng nhưng lại chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống
theo hướng liên ngành văn hóa - văn học.
1.3. Các tác phẩm truyện thơ Nôm Việt Nam (trong đó có Bích Câu kỳ ngộ)
được đưa vào chương trình giảng dạy, giới thiệu ở một số trường Đại học, Cao đẳng
hiện nay. Đặc biệt, chương trình phổ thông tổng thể năm 2018 còn đề xuất tác phẩm
truyện thơ Nôm này làm văn bản tham khảo cho học sinh. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề
này sẽ phần nào giúp các thầy cô giáo, các học sinh, sinh viên có thêm tài liệu tham
khảo để giảng dạy và học tập truyện thơ Nôm ở nhà trường.
Từ những lí do trên đây, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Truyện thơ Nôm Bích Câu
kỳ ngộ từ góc nhìn văn hóa” làm vấn đề nghiên cứu cho luận văn của mình, hy vọng
sẽ góp phần đưa ra một cách đọc tác phẩm mới và có ý nghĩa thực tiễn.
1
2. Lịch sử vấn đề
Kho tàng truyện thơ Nôm Việt Nam hết sức phong phú, đa dạng về nội dung,
thể loại. Truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ đã ra đời từ lâu nhưng cho đến nay vẫn
luôn thu hút được sự chú ý của dư luận, giới phê bình nghiên cứu văn học hay độc giả
cả nước, là đề tài của rất nhiều những bài báo, công trình nghiên cứu.
2.1. Những nghiên cứu chung về truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ
Khi nghiên cứu lịch sử nghiên cứu Bích Câu kỳ ngộ, chúng tôi tìm hiểu một số
công trình về vấn đề tác giả, nguồn gốc của tác phẩm cũng như những nhận định,
đánh giá về giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện thơ.
Về vấn đề tác giả của truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ, trước đây, một số nhà
nghiên cứu (như Dương Quảng Hàm, Thanh Lãng) cho rằng: truyện thơ Bích Câu kỳ
ngộ là của một tác giả khuyết danh; nhưng theo các nhà nghiên cứu văn học Việt hiện
nay (trong đó có Trần Văn Giáp, Nguyễn Phương Chi, Hoàng Hữu Yên, Phạm Ngọc
Lan) thì người sáng tác ra truyện thơ này là Vũ Quốc Trân.
Trong cuốn Bích câu kỳ ngộ của tác giả Bùi Thức Phước sưu tầm và biên soạn,
tác giả cũng khẳng định: “Về tác giả truyện thơ là Vũ Quốc Trân. Về thời gian xuất
hiện tác phẩm: giữa thế kỷ XIX về sau, có nghĩa là Bích Câu kỳ ngộ xuất hiện sau
Truyện Kiều của Nguyễn Du” [37, tr.8].
Bài viết Vũ Quốc Trân và Bích Câu kỳ ngộ của Phạm Ngọc Lan cũng khẳng
định Vũ Quốc Trân là tác giả của truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ. Bài viết xác định
rõ nguồn gốc cốt truyện của Bích Câu kỳ ngộ là từ một câu chuyện được lưu truyền
trong dân gian, ra đời sau truyện chữ Hán Bích Câu kỳ ngộ của Đoàn Thị Điểm. Tuy
nhiên, tác giả bài viết khẳng định truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ của Vũ Quốc
Trân đã vượt ra khỏi hạn chế của văn tự sự dân gian, tránh được những nặng nề bởi
tính chất thuyết lý đạo đức trong tác phẩm của nữ sĩ họ Đoàn. Chính những điều đó
góp phần tạo nên sức sống lâu bền, hấp dẫn và độ phổ biến rộng rãi của tác phẩm
truyện thơ. Bài viết kết luận: “Với 678 câu thơ Nôm theo thể lục bát, bằng cảm quan
và tài năng của một nghệ nghĩ sinh ra ở Thăng Long giữa thế kỷ XIX đầy biến động,
Vũ Quốc Trân đã đóng góp cho nền văn học dân tộc một tác phẩm có giá trị. Bích
Câu kỳ ngộ của ông đã làm sống lại câu chuyện một mối tình thơ mộng và lãng mạn
2
giữa chàng Nho sĩ nghèo ở góc thành Thăng Long và một nàng tiên, qua đó đã thể
hiện được những vấn đề lớn của thời đại” [23, tr.6].
Như vậy, căn cứ vào những tài liệu đáng tin cậy nói trên, chúng tôi đồng ý với
quan điểm cho rằng tác giả truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ chính là Vũ Quốc Trân.
Đánh giá về những đặc sắc trong giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện thơ,
đáng chú ý có một số bài viết sau đây:
Trong bài viết Vũ Quốc Trân và Bích Câu kỳ ngộ, Phạm Ngọc Lan cho rằng,
đằng sau câu chuyện tình yêu lãng mạn của Tú Uyên và Giáng Kiều, nội dung tác
phẩm thể hiện chủ yếu là quan điểm sống chủ trương thoát ly thực tại của con người,
được thể hiện qua con đường biến đổi của Tú Uyên. Từ một Nho sĩ chuyên tâm học
hành, ôm mộng công danh để thỏa chí kinh bang tế thế, nhưng nhìn vào thực tại xã
hội, chàng nhận thấy cuộc đời thật mong manh, bởi vậy lòng muốn thoát ly mọi ràng
buộc của chế độ phong kiến lỗi thời, lạc hậu. Khao khát hạnh phúc dài lâu đã thúc
đẩy chàng đi đến quyết tâm tu tiên học đạo, hướng về tiên giới: “Rõ ràng hành động
của Tú Uyên có phần hơi cực đoan, bi quan, đó cũng chính là sự chuyển biến về tinh
thần, tư tưởng của tầng lớp Nho sĩ và sự rạn nứt không thể tránh khỏi của ý thức hệ
phong kiến trong đời sống xã hội lúc bấy giờ” [23, tr.7]. Cùng quan điểm với tác giả
Phạm Ngọc Lan, nhà nghiên cứu Nguyễn Phương Chi cũng cho rằng: “Tác phẩm bộc
lộ quan điểm nhân sinh muốn thoát ly thế giới thực tại, hướng về tiên giới mà coi rẻ
hạnh phúc ở đời. Tư tưởng yếm thế này ít nhiều thể hiện cái nhìn phê phán của tác
giả trong hoàn cảnh một đất nước loạn lạc, chiến tranh… Nhưng mặt khác đây cũng
là một xu hướng giải tỏa tâm thức của những con người thời đại, muốn rời bỏ đạo
Nho mà đến với Phật giáo và Đạo giáo”(Dẫn theo[37, tr.14]).
Bên cạnh những thành tựu về nội dung, Bích Câu kỳ ngộ cũng đạt được những
thành tựu đặc sắc về nghệ thuật. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tìm hiểu được
một số ý kiến đánh giá, nhận xét có tính chất gợi mở cho đề tài nghiên cứu của mình.
Trong số những ý kiến bàn về nghệ thuật truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ, đáng chú
ý là bài viết Thi pháp truyện thơ Nôm tài tử giai nhân và một số tiểu loại truyện thơ
Nôm khác: Nhìn từ góc độ nhân vật, mô thức cốt truyện của Nguyễn Văn Hoài.
Trong công trình nghiên cứu này, tác giả bài viết xếp Bích Câu kỳ ngộ thuộc tiểu loại
truyện thơ Nôm truyền kì bởi các đặc điểm sau: trong Bích Câu kỳ ngộ có nhân vật
3
không phải người phàm (Giáng Kiều là tiên nữ); Về cốt truyện, trong Bích Câu kỳ
ngộ, hai nhân vật chính (Tú Uyên và tiên nữ Giáng Kiều) “tiến đến hôn nhân không
trải qua những biến cố trắc trở, thử thách”, “xét về mô thức tuyến nhân vật, thì hầu
như loại truyện Nôm truyền kì khiếm khuyết hai nhóm nhân vật góp phần tham gia
vào diễn biến của câu chuyện, đó là nhóm nhân vật “gia trưởng” (cha mẹ, ông bà,
chú bác có quyền quyết định hôn nhân cho đôi tài từ giai nhân), nhóm nhân vật “trợ
thủ” (các cô cậu người hầu, bạn bè, chị em,… giữ vai trò liên lạc, môi giới cho đôi
tài tử giai nhân). Ngoài ra một số truyện còn khiếm khuyết luôn cả nhóm nhân vật
“tiểu nhân” gây ra những trắc trở, li tán đối với đôi nam nữ nhân vật chính” [19,
tr.3]. Như vậy, tác giả đã nhấn mạnh đến thi pháp sử dụng yếu tố thần kỳ trong việc
xây dựng cốt truyện, nhân vật trong Bích Câu kỳ ngộ. Những nhận xét của tác giả bài
viết chính là những gợi ý cho chúng tôi đi sâu tìm hiểu về đời sống tinh thần, đặc
điểm con người trong Bích Câu kỳ ngộ dưới góc nhìn văn hóa.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Phương Chi đánh giá Bích Câu kỳ ngộ là một tác
phẩm truyện thơ Nôm đạt tới “một bút pháp nghệ thuật tinh vi: kết hợp tả cảnh với tả
tình và khắc họa thành công tâm trạng nhân vật ở những nét tinh tế, khiến cho mạch
truyện được dẫn dắt sinh động, khéo léo” (Dẫn theo [37, tr.14]). Đặc biệt, khi nhận
xét về ngôn ngữ, tác giả nhấn mạnh vào việc vận dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca
dao dân tộc và sự tiếp thu ngôn ngữ Truyện Kiều.
Tác giả Bùi Thức Phước trong bài viết có nhan đề Nghệ thuật truyện Bích
Câu đã có những phân tích cụ thể về ba phương diện trong nghệ thuật của Bích Câu
kỳ ngộ: về kết cấu, về thể loại và về ngôn ngữ. Về kết cấu, tác giả bài viết cho đây là
một tác phẩm được kể một cách liền mạch theo trình tự thời gian, cấu trúc khá đơn
giản theo lối truyền thống. Về thể loại, Bích Câu kỳ ngộ thuộc thể loại truyện văn vần
bằng thơ lục bát. Lục bát ở Bích Câu kỳ ngộ là lục bát ở thể truyện, tác giả đã có sự
vận dụng thanh điệu, vần của ngôn ngữ và cách tạo nhịp để những câu lục bát không
bị biến thành vè. Tuy nhiên, khi nhận xét về ngôn ngữ, tác giả bài viết đã đưa ra nhận
xét thẳng thắn về những hạn chế của Bích Câu kỳ ngộ cũng như những tác phẩm
truyện thơ Nôm trung đại khác, đó là việc “sử dụng khá nhiều điển cố, những từ Hán
Việt trích trong Kinh Thi, tạo nên không ít khó khăn cho người đọc, nhất là với các
bạn trẻ” [37, tr.54]. Mặc dù vậy, tác giả cũng khẳng định: “từ cấu trúc nội dung, thể
4
loại truyện văn vần lục bát cho đến ngôn ngữ diễn đạt thì Bích Câu kỳ ngộ là tác phẩm
ghi
đậm dấu ấn về sự phát triển đi đến hoàn thiện của nền văn học chữ Nôm” [37, tr.54].
Từ những ý kiến đánh giá của các tác giả trên, có thể nhận thấy: Truyện thơ
Nôm Bích Câu kỳ ngộ từ lâu đã nhận được sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình
văn học ở nhiều phương diện như: về vấn đề tác giả, về giá trị nội dung, nghệ thuật…
Qua những bài viết đó, người đọc đã có một cái nhìn khá toàn diện về tác phẩm. Tuy
chỉ là những nghiên cứu mang tính khái quát, những nhận định chung chứ chưa thực
sự nghiên cứu một cách đầy đủ và chuyên sâu về một phương diện cụ thể của tác
phẩm nhưng đó sẽ là những tư liệu tham khảo quý báu mà chúng tôi được kế thừa
phục vụ cho quá trình hoàn thành luận văn của mình.
2.2. Những nghiên cứu về truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ từ góc nhìn văn hóa
Số lượng nghiên cứu về những dấu ấn văn hóa có trong Bích câu kỳ ngộ khá ít
ỏi. Đáng lưu ý nhất là các bài viết của Trần Nho Thìn, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn
Phương Chi, Vũ Ngọc Khánh, Trần Lê Sáng, Nguyễn Cẩm Xuyên… Nhìn chung, các
nhà nghiên cứu nhận thấy ở nội dung tác phẩm những ảnh hưởng của hệ tư tưởng
Đạo giáo trong việc xây dựng tính cách, hành động của nhân vật cũng như trong cách
phát triển cốt truyện… Đó cũng là những tư liệu quý báu, những gợi ý bước đầu để
chúng tôi triển khai luận văn này.
Cuốn sách Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu và giảng dạy văn
học của Trần Nho Thìn có phần viết về cách ứng xử với thân thể theo quan niệm của
Đạo gia và theo quan điểm về con người tự nhiên. Ở phần này, tác giả cuốn sách đã
đi sâu vào lý giải triết lý của Đạo gia về cuộc đời con người thể hiện trong nội dung
truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ. Theo đó, lời của Giáng Kiều thuyết phục Tú Uyên
bỏ trần theo tiên chính là chủ trương của Đạo gia. Cách ứng xử này của Đạo gia khác
hẳn với Phật giáo. Nếu Phật giáo ứng phó bằng triết học lý giải tính vô thường của
thân và toàn bộ cuộc sống của các nhà sư được dành cho việc chuẩn bị đón đợi cái
chết, đưa thân thể vào cõi Niết Bàn thì những người tu theo Đạo gia lại tìm thuốc tiên
hay lạc đến cõi tiên để có thể trường thọ. Tác giả nhận thấy “trong Bích Câu kỳ ngộ,
không gian chùa Ngọc Hồ không xuất hiện như một không gian tu hành của nhà sư
mà như một không gian siêu thoát, lãng mạn” [45, tr.177]. Tác giả khẳng định không
5
gian chùa Ngọc Hồ là một biểu tượng văn hóa mang tinh thần Đạo gia rất phổ biến
trong văn học trung đại.
Phạm Thế Ngũ trong bài viết về Bích Câu kỳ ngộ cũng đi sâu vào tìm hiểu
những ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang trong tác phẩm truyện thơ này. Tác giả bài
viết đã phân tích sự phát triển trong tư duy và bước vào con đường đạo sĩ để rồi đắc
đạo của nhân vật Tú Uyên chính là con đường đi vào tư tưởng Lão Trang: “Bích Câu
kỳ ngộ chính là giấc mộng giải thoát mà tư tưởng Lão Trang đem lại cho tác giả
trong một hoàn cảnh xã hội thích hợp” [37, tr.12]. Bên cạnh việc đi sâu tìm hiểu sự
ảnh hưởng của tư tưởng Lão Trang trong tác phẩm, Phạm Thế Ngũ cũng có nói đến
một nét đẹp trong văn hóa ứng xử của người Việt, đó là đạo vợ chồng : “Chồng giận
thì vợ làm lành” khi phân tích tình huống Tú Uyên say rượu đánh vợ và tấm lòng
rộng lượng, vị tha của Giáng Kiều bỏ qua cho chồng để gia đình sum họp.
Một trong những yếu tố góp phần vào việc khẳng định giá trị văn hóa lịch sử
trong tác phẩm truyện thơ này chính là sự xuất hiện của nhiều dấu ấn về các lễ hội,
địa danh Bích Câu quán, chùa Ngọc Hồ… Tuy nhiên, cho đến nay không có nhiều
những công trình nghiên cứu của giới phê bình văn học về những nội dung này.
Xét về mặt giá trị văn hóa, địa danh Bích Câu là một trong những cái tên nổi
tiếng của Thăng Long, đã từng xuất hiện trong rất nhiều những truyện dân gian xa
xưa. Tác giả Vũ Ngọc Khánh trong bài viết Văn phái Hồng Sơn và thời điểm Bích
Câu đã xem Bích Câu là một trong những địa chỉ văn hóa Việt Nam, “hơn nữa có thể
xem như một thời đại (thời điểm Bích Câu)” [58, tr.1]. Tác giả bài viết đã có những
ghi chép rất cụ thể, rõ ràng về địa danh Bích Câu trong Bích Câu kỳ ngộ: “Bích Câu
là một vị trí đẹp của Hà Nội đã từng có chùa, có quán. Quán ấy là quán đạo giáo
thuộc thôn An Thạch, phường Bích Câu (nay là phố Cát Linh - Hà Nội). Xưa kia ở
đây có con ngòi (cũng như một con sông, một dòng khe, thuyền đi lại được). Các ông
vua chúa đời Lê Trịnh, thường đi thuyền ra đây chơi câu cá, nên cũng có tên là Ngự
câu. Chuyện còn kể rằng vua Lê Thánh Tông đã gặp tiên nữ ở đây, cùng làm thơ
xướng họa”[58, tr.1]. Xét trong phạm vi tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ, tác giả cũng ghi
rõ: “Quán vốn có tên là Bích Câu đạo quán, là nơi mà người tu luyện có tên là Trần
Tú Uyên mua được bức tranh ở hội Vô Già (chùa Ngọc Hồ). Tranh vẽ hình ảnh một
6
người đẹp mặc áo đỏ”[58, tr.2]. Nhà nghiên cứu cũng nhận định, mặc dù là một địa
danh nổi tiếng nhưng những nghiên cứu về nơi này vẫn còn rất thưa thớt: “Hiện
tượng Bích Câu đã rõ ràng là một hiện tượng văn hóa đáng chú ý, nhưng từ trước
đến nay, các tác giả nghiên cứu văn học sử và sưu tầm văn học thường không nhắc
đến” [58, tr.2].
Trong một bài viết có nhan đề Di tích và tư liệu Hán Nôm ở một số đạo quán,
tác giả Trần Lê Sáng chủ yếu nói về tính hiện thực của địa danh Bích Câu quán:
“Theo sự truyền lại trong văn thơ cổ, thì vào thời vua Lê Thánh Tông, có Nho sinh họ
Trần, tên là Tú Uyên, lấy được vợ là tiên Giáng Kiều. Giáng Kiều là người vợ hiền
thục, đảm đang, còn Tú Uyên lại là người ham chơi, đến mức chè rượu bê tha. Giáng
Kiều đã khéo léo khuyên ngăn chồng, Tú Uyên trở lại sống nghiêm túc, hai người có
con trai. Sau cả nhà này thành tiên, được chim hạc đón về trời. Dân sở tại lập đền
thờ, sau đổi thành Quán. Như vậy, có thể nói, Bích Câu quán Đạo của ta, thờ Tiên
của ta. Sự tích Quán này, càng nghĩ càng thấy thấm thía, tính hiện thực rất bền”[59,
tr.3].
Cùng với việc đề nghị Bích Câu kỳ ngộ nên có một vị trí xứng đáng trong nền
văn học dân tộc, tác giả Nguyễn Cẩm Xuyên trong bài nghiên cứu Bích Câu kỳ ngộ một truyện Nôm thuần Việt bị lãng quên đã khẳng định hai địa danh Bích Câu quán
và chùa An Quốc là những địa danh có thật trong lịch sử, gắn bó với đời sống sinh
hoạt thờ cúng, tín ngưỡng và lễ hội của người dân Đống Đa - Hà Nội từ xưa đến nay:
“Để tưởng nhớ, bảy dòng họ làng An Trạch huyện Vĩnh Thuận, ngoại thành Thăng
Long (nay thuộc phường Quốc Tử Giám) đã dựng nên Bích Câu Đạo quán và chùa
An Quốc; hàng năm mở hội tế vào ngày 4/2 Âm lịch là ngày đắc đạo của Tú Uyên và
ngày 3/6 là ngày Tú Uyên cùng Giáng Kiều lên tiên” [61]. Tác giả bài viết khẳng định
những giá trị to lớn mà Bích Câu kỳ ngộ để lại cho kho tàng văn học Việt Nam với
việc nhấn mạnh “Bích Câu kỳ ngộ là truyện thơ Nôm thuần Việt gắn liền với lịch sử
Thăng Long xưa [61]”. Nhà nghiên cứu thể hiện sự tiếc nuối của mình bởi “món ăn
tình thần quen thuộc” nay đã gần như bị lãng quên và đề xuất ý kiến nên đưa Bích
Câu kỳ ngộ vào chương trình Trung học hiện nay. Tác giả viết: “Cách đây hơn 50
năm, tôi bắt đầu học lên trung học. Những năm đầu của cấp trung học thứ nhất
(Trung học đệ nhất cấp - tương tự Trung học cơ sở hiện nay), những thiếu niên mới
7
lớn ngỡ ngàng và thích thú khi được đọc - rồi thầy bắt học thuộc lòng - những trích
đoạn Bích Câu kỳ ngộ trong sách Giảng văn… Vì tính thuần Việt hiếm có ấy, tác
phẩm nên được chọn đưa vào nhà trường trung học cấp cơ sở - truyện truyền thuyết
phù hợp với lứa tuổi. Mối tình Tú Uyên - Giáng kiều tuy diễm tình nhưng trong sáng
lại đậm tình nghĩa gia đình. Truyện tiên mà lại thực, góp phần giáo dục và làm tươi
mát tâm hồn niên thiếu”[61]. Đồng cảm với những trăn trở của tác giả, chúng tôi
nghiên cứu Bích Câu kỳ ngộ mong muốn phần nào giúp các bạn học sinh - sinh viên
và độc giả cả nước biết đến và tìm hiểu thêm về tác phẩm ở những góc nhìn mới.
Qua việc khảo sát lịch sử vấn đề nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy: Việc nghiên
cứu, tìm hiểu về truyện thơ Nôm Bích Câu kì ngộ mới chỉ dừng lại ở những nhận
định có tính khái quát mà chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu một cách
toàn diện, có hệ thống, đặc biệt là nghiên cứu tác phẩm từ góc độ văn hóa. Phần lớn
mọi nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những nhận xét chung về ảnh hưởng của tư tưởng
Đạo giáo, về giá trị hiện thực, giá trị lịch sử - văn hóa của địa danh Bích Câu, chùa
Ngọc Hồ nhưng chưa đi sâu vào tìm hiểu cụ thể và đầy đủ về Bích Câu kỳ ngộ dưới
góc nhìn văn hóa.
Từ thực tế đó, với ý thức kế thừa những kết quả nghiên cứu của người đi trước,
chúng tôi sẽ mở rộng, khơi sâu nghiên cứu những giá trị đặc sắc của tác phẩm dưới
góc nhìn văn hóa trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ dưới góc nhìn văn hóa nhằm đi
sâu phân tích ý nghĩa và giá trị văn hóa đặc sắc của tác phẩm thể hiện trên phương
diện nội dung và nghệ thuật. Từ đó góp thêm một hướng tiếp cận mới trong tiến trình
nghiên cứu tác phẩm này. Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho
việc nghiên cứu và giảng dạy truyện thơ Nôm ở các trường phổ thông và cao đẳng, đại
học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ mối quan hệ giữa văn học và văn hóa; phương pháp tiếp cận văn
học dưới góc nhìn văn hóa. Từ đó làm cơ sở để nghiên cứu truyện thơ Bích Câu kỳ
ngộ trong mối quan hệ liên ngành văn hóa - văn học.
8
- Phân tích những dấu ấn văn hóa Việt Nam được thể hiện ở nội dung của tác
phẩm: Di tích lịch sử - văn hóa, ảnh hưởng của tôn giáo - tín ngưỡng và con người.
- Đi sâu vào tìm hiểu đặc điểm nghệ thuật của Bích Câu kỳ ngộ dưới góc nhìn
văn hóa: kết cấu, không gian - thời gian và ngôn ngữ được thể hiện trong tác phẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của đề tài là hai phương diện nội
dung và nghệ thuật của truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ dưới góc nhìn văn hóa. Tuy
nhiên, luận văn chỉ đi sâu vào nghiên cứu những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật
có mang dấu ấn văn hóa. Cụ thể, ở phương diện nôi dung, phạm vi nghiên cứu ở bốn
khía cạnh chính: Con người văn hóa, di tích lịch sử - văn hóa, tôn giáo - tín ngưỡng
và những ảnh hưởng của Đạo giáo đến nội dung tác phẩm. Ở phương diện nghệ thuật,
luận văn đi sâu vào khai thác đặc điểm kết cấu, không gian - thời gian và ngôn ngữ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ của tác
giả Vũ Quốc Trân, văn bản sử dụng để nghiên cứu được in trong cuốn Bích Câu kỳ
ngộ, do Bùi Thức Phước sưu tầm và biên soạn, Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Chúng tôi xác định đây là phương pháp
quan trọng đối với luận văn, trong đó chủ yếu sử dụng góc nhìn văn hoá, truyền thống
văn hoá để nghiên cứu tác phẩm. Trên cơ sở tìm hiểu sự chi phối của các quan niệm
tôn giáo, đạo đức, triết học, chính trị, thẩm mĩ, quan niệm về con người ... từng tồn tại
trong một không gian văn hoá xác định đối với tác phẩm về mặt nội dung và nghệ
thuật.
- Phương pháp so sánh: để làm rõ hơn đặc điểm nội dung, nghệ thuật của tác
phẩm nghiên cứu, đồng thời liên hệ so sánh truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ với các tác
phẩm cùng thể loại, cùng đề tài, cùng giai đoạn lịch sử.
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo thể loại: Bích Câu kỳ ngộ là tác phẩm
truyện thơ Nôm trung đại, luận văn sẽ phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại
truyện thơ, đặc biệt ở các yếu tố cốt truyện, nhân vật.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Chúng tôi sử dụng phương pháp này khi
nghiên cứu kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ của tác phẩm từ góc nhìn văn hóa.
9
Bên cạnh những phương pháp cơ bản trên, công trình cũng sử dụng kết hợp
một số phương pháp khác như phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp hệ
thống... trong quá trình nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Đóng góp về lý luận
Luận văn góp thêm một nghiên cứu trường hợp cho phương pháp tiếp cận văn
học từ góc nhìn văn hóa, thúc đẩy hướng nghiên cứu này ở Việt Nam.
6.2. Đóng góp về thực tiễn
Luận văn là tư liệu tham khảo cho sinh viên ngành Ngữ văn ở các trường Đại
học, Cao đẳng, cho các nhà nghiên cứu, các giáo viên và học sinh Trung học phổ
thông trong việc lựa chọn ngữ liệu dạy học, nghiên cứu tác phẩm thể loại truyện thơ
Nôm.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Nội dung truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ từ góc nhìn văn hóa
Chương 3: Nghệ thuật truyện thơ Nôm Bích Câu kỳ ngộ từ góc nhìn văn hóa
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái quát về văn hóa, văn học và mối quan hệ giữa văn hóa và văn học
1.1.1. Khái niệm về “văn hoá” và “văn học”
* Khái niệm “văn hoá”
Xét về nguồn gốc, thuật ngữ “Văn hoá” ra đời đầu tiên ở phương Tây, được
bắt nguồn từ chữ Latinh “Cultus” với nghĩa là “sự trồng trọt, canh tác”, một là “trồng
trọt ngoài đồng ruộng” (cultus agri) và hai là “trồng trọt tinh thần” (culus animi)
tức bồi dưỡng tâm hồn con người”[38, tr.10].
Đến cuối thế kỷ XVII, thuật ngữ “văn hóa” (culture) mới được dùng với tư
cách độc lập. Người đầu tiên đưa thuật ngữ “culture” vào trong khoa học là nhà
nghiên cứu pháp luật người Đức S.Pufendorf (1632-1694). Ông đã sử dụng thuật ngữ
này để chỉ toàn bộ những gì do con người tạo ra.
Ở phương Đông, từ “văn hoá” được sử dụng rất sớm. Theo tư liệu ghi chép
của Trung Hoa cổ đại, từ “văn” có nghĩa gốc là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra. Khổng Tử
đã dùng từ “văn” với ý nghĩa là hình thức đẹp trong lễ, nhạc, trong cách cai trị, trong
giao tiếp cũng như trong ứng xử của con người. “Hoá” có nghĩa là làm biến đổi, cải
biến làm cho tốt đẹp, hoàn thiện.
Như vậy có thể thấy, nếu quan niệm của phương tây cho văn hóa “thiên về ứng
xử với tự nhiên, thì quan niệm về văn hóa của phương Đông thiên về ứng xử xã
hội”[38, tr.39].
Cho đến nay, khái niệm Văn hóa đã là một khái niệm được sử dụng hết sức
phổ biến trong khoa học nhân văn, tuy nhiên chưa có một định nghĩa thống nhất về
văn hoá. Tùy theo từng góc độ tiếp nhận, các tác giả có thể đưa ra những cách hiểu
khác nhau về thuật ngữ này.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, chúng tôi đã tìm hiểu nhiều định
nghĩa về văn hoá của nhiều tác giả ở nhiều lĩnh vực khác nhau để có một cái nhìn đầy
đủ và toàn diện nhất về cách hiểu thuật ngữ này. Chúng tôi nhận thấy quan niệm của
tác giả E.Tylor (thế kỷ XIX) - người được coi là “ông tổ của nhân học văn hóa”, rất
đáng chú ý. Ông đã đưa ra trong cuốn sách Văn hoá nguyên thuỷ xuất bản năm 1881
11
tại Luân Đôn một định nghĩa về văn hóa như sau: “Từ văn hoá hay văn minh, theo
nghĩa rộng về tộc người học nói chung bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luân
lý, luật pháp, phong tục và tất thảy những năng lực và thói quen khác mà con người
hoạt động với tư cách là thành viên của xã hội” [51, tr.13]. Với định nghĩa này, lần
đầu tiên văn hoá không còn được hiểu bó hẹp ở trường nghĩa “vun trồng trí óc” hay
“giáo hoá bằng văn” nữa mà văn hoá đã được nhìn nhận như là kết quả trong các lĩnh
vực hoạt động của con người.
Một định nghĩa khác cũng rất đầy đủ về văn hóa là của tổ chức UNESCO:
“Văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc
quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao
gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng” [51, tr. 5-6].
Ở Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu như Trần Quốc Vượng, Đào Duy Anh,
Phan Ngọc, Phan Kế Bính, Trần Ngọc Thêm, Trần Nho Thìn... cũng đã đưa ra những
định nghĩa về văn hóa. Đáng chú ý là định nghĩa của nhà nghiên cứu Đào Duy Anh
trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương. Theo ông, văn hóa được hiểu là: “Điều kiện
thiên nhiên đối với sự sinh hoạt của loài người vốn có ảnh hưởng quyết định, vì sinh
hoạt chẳng qua là dùng sức thể chất và tinh thần mà thích dụng hay lời dụng tự nhiên
để mưu sự sống còn. Thế thì cách sinh hoạt của người là văn hóa” [1, tr. 11]. Đây là
một định nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu coi như một công cụ để hiểu về văn hóa.
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm lại đưa ra một định nghĩa khác về văn hóa
dựa trên cái nhìn cấu trúc hệ thống và loại hình: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”
[42, tr. 10].
Khác với các nhà nghiên cứu kể trên, Trần Nho Thìn trong cuốn Phương pháp
tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu, giảng dạy văn học lại chú ý đến ý nghĩa của từ
văn hóa gắn với nghĩa biểu tượng. Nhà nghiên cứu dẫn một số quan niệm về văn hóa
của các nhà nghiên cứu trên thế giới như Leslie Alvin White, Geertz Clifford cho
rằng “văn hóa là các biểu tượng, các sự vật, hiện tượng hay hành động có gắn với
12
năng lực tạo ra biểu tượng của con người”, “văn hóa là một văn bản có tính ký hiệu”
[45, tr.16].
Từ những nghiên cứu về Văn hoá trên đây, chúng tôi hiểu một cách khái quát
như sau: Văn hóa chính là tất cả những hoạt động của con người tác động đến tự
nhiên và làm thay đổi tự nhiên, nhằm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần mang
dấu ấn con người. Văn hóa chính là cách con người ứng xử với môi trường tự nhiên
và xã hội. Đồng thời, văn hóa là hoạt động mang tính biểu tượng và mang những giá
trị được kết tinh thành những bản sắc riêng, đặc thù riêng để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác. Văn hoá đồng hành cùng với cuộc sống con người và sự phát triển,
hoàn thiện của con người, xã hội.
* Khái niệm “văn học”
Văn học hiểu theo nghĩa rộng là thuật ngữ gọi chung mọi hành vi ngôn ngữ nói
- viết và các tác phẩm ngôn ngữ. Theo cách hiểu này thì các tác phẩm chính trị, triết
học, tôn giáo… cũng có thể được gọi chung là Văn học. Theo nghĩa hẹp mà ngày nay
chúng ta thường dùng thì khái niệm Văn học bao gồm các tác phẩm ngôn từ phản ánh
những vấn đề đời sống xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Như vậy khi hiểu Văn học
theo nghĩa hẹp, chúng ta đã loại ra ngoài các tác phẩm chính trị, triết học, tôn giáo.
Khái niệm Văn học có khi được dùng tương tự như khái niệm văn chương.
Tuy nhiên, khái niệm văn học thường có nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương. Văn
chương thường chỉ nhấn mạnh vào tính thẩm mĩ, tính sáng tạo của văn học về phương
diện nghệ thuật ngôn từ.
Có thể khẳng định, văn học là một loại hình nghệ thuật ngôn từ. Cũng như
màu sắc đối với hội hoạ, âm thanh đối với âm nhạc, ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của
văn học. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ được đưa vào sử dụng trong văn học không phải
ngôn ngữ bình thường ta vẫn dùng hằng ngày mà phải là “ngôn ngữ nghệ thuật”.
Theo M. Gorki, ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói “nguyên liệu”, còn ngôn ngữ văn học
là tiếng nói đã được những “người thợ tinh xảo nhào luyện”. Mỗi nhà văn lớn đều là
những nhà ngôn ngữ trác tuyệt. Trong sự sáng tạo của nhà văn, sự sáng tạo về ngôn
ngữ đóng vai trò quan trọng. Ngôn ngữ cũng là phương tiện để nhà văn xây dựng nên
các hình tượng nghệ thuật. Thông qua các hình tượng nghệ thuật của mình, nhà văn
thể hiện lập trường, quan điểm, suy nghĩ của mình trước hiện thực cuộc sống.
13
Một định nghĩa khá đầy đủ về văn học được các tác giả cuốn Từ điển thuật
ngữ văn học đưa ra như sau:
“Văn học là loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn từ. Khái niệm văn học
bao gồm cả văn học dân gian, được sáng tác và lưu truyền bằng miệng từ đời này
sang đời khác và văn học viết được sáng tác và lưu truyền dưới hình thức văn bản
viết (…). Văn học là sự phản ánh của đời sống xã hội thể hiện sự nhận thức và sáng
tạo của con người (…) Văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm.
Văn học nhận thức con người với toàn bộ tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong
các mối quan hệ đời sống phong phú và phức tạp của nó trên phương diện thẩm mĩ.
Trong tác phẩm văn học, nhà văn không chỉ nhận thức chân lý khách quan mà còn
bộc lộ tư tưởng và tình cảm, ước mơ và khát vọng của mình đối với con người và
cuộc sống. Do đó, nội dung của văn học là sự thống nhất biện chứng giữa phương
diện chủ quan và phương diện khách quan” [15, tr. 401-402].
Nói đến chức năng của văn học là nói đến mục đích sáng tác, đến ý nghĩa văn
hóa - xã hội của nó. Văn học là một hoạt động tinh thần không chỉ của người sáng tạo
mà của cả người tiếp nhận, thưởng thức. Tác phẩm văn học là sự biểu hiện về năng
lực, trình độ, phẩm chất tinh thần của chủ thể trong sự sáng tạo, phản ánh hiện thực
đời sống khách quan, xã hội, con người, dựng nên “hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan”. Vì vậy, văn học có chức năng phản ánh hiện thực. Văn học là biểu hiện
cái quan hệ mang tính người của con người trong quá trình chiếm lĩnh, đồng hóa hiện
thực bên ngoài và bên trong nó dưới hình thức nghệ thuật ngôn từ. Cái quan hệ người
ấy trong cuộc sống nhân loại thật phong phú, nhiều cung bậc bởi sự vận động không
ngừng, bất tận. Văn học giúp người đọc hiểu biết cái nội dung, cái hình thức, cái hay,
cái đẹp, giúp họ thư giãn tâm hồn, tạo trạng thái cân bằng tâm lý, tinh thần. Vì vậy,
văn học có chức năng thưởng thức, thư giãn, giải trí. Văn học còn giúp người đọc
hiểu biết nhiều mặt về đời sống, chịu sự tác động đa diện vào nhận thức, tâm lý, tình
cảm, vì vậy mà văn học trau dồi mặt tình cảm, hiểu biết cho con người.
Có thể nói, văn học là một hình thái ý thức xã hội đặc thù và có vị trí quan
trọng trong nền văn hoá của một dân tộc.
14
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học
Có thể nói, văn hoá và văn học là hai lĩnh vực luôn gắn bó mật thiết với nhau.
Nói tới văn hoá của một dân tộc ta thường nghĩ tới văn học. Văn học là sự “tự ý thức”
của văn hóa. Văn học không những là một bộ phận của văn hóa, chịu sự ảnh hưởng
và chi phối trực tiếp của văn hóa, mà còn là một trong những phương tiện tồn tại và
bảo lưu văn hóa. Có thể khẳng định, không thể có nền văn học nằm ngoài tổng thể
văn hoá.
Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa là mối quan hệ hữu cơ giữa cái riêng và
cái chung, giữa cái bộ phận và cái toàn thể. Văn học cùng với triết học, chính trị, tôn
giáo, đạo đức… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn
hoá trong quá trình hình thành và phát triển đã trải qua những chặng đường tìm kiếm,
lựa chọn, đấu tranh và sáng tạo để hình thành nên những giá trị trong xã hội thì văn
học chính là nơi lưu giữ những thành quả giá trị xã hội đó. Văn học truyền tải văn
hóa, lưu giữ văn hóa, kiến tạo văn hóa, bồi đắp tâm hồn và nâng văn hóa lên tầng cao
mới. Nói như nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương: “Văn học là văn hoá lên tiếng
bằng ngôn từ nghệ thuật”[5, tr.20].
Trong phạm vi nghiên cứu, chúng tôi tập trung làm rõ hai mối liên hệ mật thiết
giữa văn hóa và văn học, đó là: 1/ Văn học là sản phẩm kết tinh những giá trị văn
hóa, 2/ Văn hóa chịu sự tác động của văn học.
1.1.2.1. Văn học là sản phẩm kết tinh những giá trị văn hóa
Con người chính là chủ thể sáng tạo và đồng thời cũng là cái đích hướng tới
của văn hoá và văn học. Văn hoá và văn học đều hướng đến một cái đích chung là
con người. Tuy nhiên, bản thân văn học là một bộ phận của văn hóa nên sẽ chịu sự
tác động, chi phối của văn hóa. Theo đó, văn học là sản phẩm của văn hóa.
Văn hoá chính là “chất liệu” của văn học, là “chìa khoá” mở ra “cánh cửa”
nghệ thuật trong tác phẩm văn học. M. Bakhtin khẳng định: “Văn học là một bộ phận
không thể tách rời của văn hoá. Không thể hiểu nó ngoài cái mạch nguyên vẹn của
toàn bộ văn hoá của một thời đại trong đó nó tồn tại” [46, tr. 9].
Văn học “khúc xạ” các giá trị văn hóa mà con người nhận thức, đúc kết được.
Giá trị trong văn học là những phạm trù tinh thần được nhà văn sàng lọc, trau chuốt.
15
Trong mỗi tác phẩm văn học, bao giờ ta cũng tìm thấy những hình ảnh của một nền
văn hoá qua sự tiếp nhận và phản ánh của chủ thể sáng tạo văn học. Đó có thể là hình
ảnh của một nền văn hoá nông nghiệp lúa nước qua kho tàng tục ngữ, ca dao Việt
Nam; đó là những vẻ đẹp văn hoá Việt của “một thời vang bóng” trong những trang
tuỳ bút tài hoa của Nguyễn Tuân; hay bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số vùng núi Tây
Bắc, Việt Bắc trong truyện ngắn của Tô Hoài, Cao Duy Sơn, Ma Văn Kháng… Tác
phẩm văn học là sản phẩm của văn hoá là điều tất yếu bởi bản thân người nghệ sĩ
sáng tạo văn học cũng là một sản phẩm văn hoá; cách suy nghĩ, quan điểm, lối viết
của họ bị chi phối bởi một nền văn hoá nhất định. Chính điều đó đã chi phối cách lựa
chọn đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật… của nhà văn. Đồng thời, văn hoá
cũng chi phối cách đánh giá, thưởng thức của người đọc trong quá trình tiếp nhận, bởi
đối tượng người đọc này đã được rèn luyện về thị hiếu thẩm mĩ trong một môi trường
văn hoá nhất định. Do vậy, nếu muốn tìm hiểu bức tranh văn hoá của một thời đại,
người ta có thể căn cứ vào những dữ liệu có trong các tác phẩm văn học. Nói cách
khác, thực tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu hỗ trợ cho khoa học nghiên
cứu văn hoá. Theo Trần Lê Bảo: “Văn học chẳng những là bộ phận của văn hóa, chịu
sự chi phối ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa mà còn là một trong những phương tiện
tồn tại và bảo lưu văn hóa” [5, tr.10].
Những tác phẩm văn học không chỉ thể hiện văn hóa mà còn đưa người đọc
tìm hiểu những giá trị ẩn tàng trong văn hóa. Đó chính là vai trò kết tinh những giá trị
văn hóa của văn học. Nhà thơ Tố Hữu có nói: “Văn học thực chất là cuộc đời. Văn
học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng
là nơi đi tới của văn học”[9, tr.25]. Trong cuộc đời, cái bản chất nhất, làm nên tính
người nhất chính là văn hóa, là những cái tốt đẹp, những ứng xử, quy chuẩn đạo đức,
đạo lý làm người, truyền thống dân tộc... Văn học không chỉ phản ánh mà còn nâng
tầm các giá trị ấy lên thành những tư tưởng thời đại giáo dục con người. Đó là những
kết tinh giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam thể hiện trong kho tàng văn
học dân gian, đó còn là vẻ đẹp con người Việt Nam anh hùng bất khuất trong thơ văn
kháng chiến, cũng có thể chỉ là những vẻ đẹp giản đơn mà tinh tế trong văn hóa ẩm
thực Việt hiện lên trên từng trang viết của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng...
16
Tiếp nhận những tác phẩm văn học, độc giả không chỉ thưởng thức những giá trị nội
dung và nghệ thuật, mà hơn hết, chúng ta sẽ cảm nhận được những giá trị của mỗi
nền văn hóa. Giá trị của văn hóa cũng từ đó mà được kiến tạo, kết tinh, truyền tải và
phát triển qua văn học.
1.1.2.1. Văn hóa chịu sự tác động của văn học
Nếu như văn hoá chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học thì ngược lại,
văn học cũng có những tác động nhất định đến đời sống văn hoá. Trước hết, văn học
là nơi bảo lưu những giá trị văn hoá nhân loại. Có những giá trị văn hoá từ lâu, nay đã
không còn nữa mà người ta chỉ có thể biết đến nó trong các tác phẩm văn học. Văn
học dân gian chính là nơi bảo lưu văn hoá dân gian truyền thống, những tập tục,
những tín ngưỡng, phong tục, lễ hội… từ ngàn xưa, nay chỉ còn đọng lại bóng dáng
trong những tác phẩm văn học.
Văn học góp phần khẳng định, định hướng những giá trị văn hoá nhân loại. Các
nhà văn đích thực đồng thời cũng là những nhà văn hoá. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ
khẳng định những giá trị văn hoá của dân tộc, bảo lưu và góp phần lan tỏa đến mọi
người những nét đẹp văn hoá. Đồng thời họ đấu tranh, phê phán những biểu hiện
phản văn hoá, góp phần “thanh lọc” tạo nên một nền văn hoá lành mạnh, tốt đẹp.
Thậm chí, các nhà văn thông qua các tác phẩm văn học của mình còn tiên phong,
định hướng cho sự phát triển một lí tưởng thẩm mỹ, một lối sống văn hoá mới mẻ.
Tác phẩm văn học tác động vào tình cảm của con người, qua đó điều chỉnh cách
sống, cách suy nghĩ, cách ứng xử trong văn hoá cộng đồng. Đó là khả năng điều
chỉnh văn hoá của văn học. Tuy nhiên, “Văn học không thể có ảnh hưởng tức thời,
trực tiếp đến hành động của con người mà chỉ có thể tác động đến con người với tư
cách là chủ / khách thể của văn hoá, làm cho con người biến chuyển rồi mới phát
sinh hành động cụ thể” [60, tr.1].
Như vậy, văn học và văn hoá gắn bó với nhau trong mối quan hệ hữu cơ mật
thiết không thể tách rời. Nhà văn sáng tác tác phẩm văn học là một hoạt động văn
hoá, tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá và người đọc là người tiếp nhận văn
hoá.
1.1.3. Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu văn học
Như đã phân tích, văn hoá và văn học có mối quan hệ mật thiết, ảnh hưởng và
chi phối lẫn nhau. Bởi vậy, việc tìm hiểu văn học trong mối quan hệ với văn hoá là
17
một hướng đi cần thiết và có triển vọng, hướng nghiên cứu này giúp chúng ta có khả
năng khai thác sâu giá trị nội tại của tác phẩm, có cái nhìn vừa bao quát vừa sâu sắc
toàn diện đời sống văn hóa của cả cộng đồng dân tộc.
Trong lịch sử nghiên cứu văn học, có rất nhiều con đường, nhiều phương thức
khác nhau để tiếp cận một tác phẩm văn học như: xã hội học, thi pháp học, nghệ thuật
học… Trong đó, phương pháp tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa đã ngày một
khẳng định được thế mạnh cũng như tính ưu việt của mình. Nhất là trong bối cảnh
giao lưu văn hóa mạnh mẽ như hiện nay, nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa đã
“mở rộng phạm vi đề tài nghiên cứu văn học, cho phép người ta nhìn văn học dưới
nhiều góc độ mới đầy hứa hẹn” [5, tr. 44].
Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá (hay còn gọi là phương pháp tiếp cận văn
hoá học) “ưu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hoá trong đó tác phẩm văn
học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức,
chính trị, luật pháp, thẩm mĩ, quan niệm về con người, cũng như sự chi phối của các
phương diện khác nhau trong đời sống sinh hoạt xã hội sống động hiện thực… từng
tồn tại trong một không gian văn hoá xác định” [44, tr. 9-10]. Một tác phẩm văn học
bao giờ cũng chịu sự tác động của nền văn hóa nơi nó ra đời. Nền văn hóa chính là
mảnh đất ươm mầm cho văn học nảy nở, mang lại cho văn học một sức sống, một
màu sắc riêng. Mạch nguồn văn hoá dân tộc thấm sâu vào tâm hồn người nghệ sĩ và
chi phối thế giới nghệ thuật cũng như ngôn từ của tác phẩm văn học mà họ sáng tạo
ra. Vì thế, muốn hiểu sâu giá trị tư tưởng của một tác phẩm văn học ta không thể tách
rời những yếu tố văn hoá thể hiện trong tác phẩm đó.
Phương pháp nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá đang ngày càng được
chú trọng và mở rộng phát triển theo nhiều hướng khác nhau: nghiên cứu nhằm nhận
diện và miêu tả các biểu hiện văn hóa có trong tác phẩm văn học; nghiên cứu thiên về
giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hoá lịch sử của chúng; nghiên
cứu trên phương diện ngôn ngữ của các văn bản nghệ thuật, đi tìm hiểu nghĩa và cơ
chế kiến tạo nghĩa của nội dung / hình thức của các tác phẩm văn học trong bối cảnh
văn hóa - xã hội…
Phương pháp tiếp cận văn hoá từ lâu đã được giới nghiên cứu vận dụng hoặc là
tự giác, hoặc là tự phát trong một số công trình nghiên cứu văn học. Thậm chí, có thể
18
thấy khuynh hướng tiếp cận văn học từ văn hóa đã xuất hiện từ đầu thể kỷ XX trong
việc nghiên cứu các văn bản trung đại. Tiêu biểu có thể kể đến nghiên cứu của Trần
Trọng Kim: Truyện Kiều từ quan điểm Phật giáo. Sau đó cũng có một số nhà nghiên
cứu khác cũng đã đi theo hướng nghiên cứu này. Tác giả Trần Nho Thìn trong cuốn
Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá đã đề cập đến một số tác giả có
những bài viết theo hướng nghiên cứu dưới góc nhìn văn hóa, như: Hoài Thanh trong
bài viết mở đầu Thi nhân Việt Nam hoặc Trần Đình Hượu với công trình Nho giáo
và văn học Việt Nam trung cận đại: “Hoài Thanh đã chọn cách so sánh thơ mới với
thơ cũ trên nền của sự thay đổi văn hoá do cuộc tiếp xúc văn hoá Đông - Tây… Trần
Đình Hượu lại chọn cách đọc văn học trung đại trên cơ sở phân tích ảnh hưởng của
tư tưởng triết học - đạo đức - thẩm mĩ của Nho giáo”[44, tr. 10-11]. Tác giả còn nêu
một trường hợp đặc biệt của một nhà nghiên cứu người Pháp René Craysac - khi
nghiên cứu về Truyện Kiều “đã tìm cách lý giải tư tưởng, hành động của nhân vật
Truyện Kiều trên cơ sở liên hệ với quan niệm đề cao gia đình, xem nhẹ cá nhân của
văn hoá phương Đông” [44, tr. 11].
Trong những thập kỷ gần đây, tổ chức Văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp
quốc (UNESCO) rất chú tâm đến việc giữ gìn và phát huy truyền thống, bản sắc văn
học từng dân tộc. Mỗi quốc gia đều nhận thức được giá trị của văn hóa, coi văn hóa là
nền tảng, động lực phát triển, văn hóa được coi trọng và gắn với nhiều ngành trong xã
hội, vì vậy nghiên cứu văn học cũng không nằm ngoài xu thế ấy. Những năm đầu thế
kỷ XX, hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa đã được nhiều học giả, nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Càng về sau này càng có nhiều những công trình
nghiên cứu về văn học trong mối quan hệ với văn hoá theo nhiều cách tiếp cận khác
nhau. Ở Việt Nam, đi theo hướng nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hoá có một
số nhà nghiên cứu như: Trần Đình Hượu, Trần Nho Thìn, Trần Ngọc Vương, Đỗ Lai
Thuý, Trần Lê Bảo… Mỗi tác giả trong các công trình nghiên cứu của mình bằng
những cách khác nhau đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa một cách hệ thống, chỉ ra
được lịch sử các quan niệm về phương pháp, nội dung cụ thể và sự vận dụng của
phương pháp vẫn là một vấn đề rộng mở đối với các nhà nghiên cứu Việt Nam.
19