MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC TỪ VỰNG VIẾT TẮT 3
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.5. Phạm vi nghiên cứu
2. NỘI DUNG
2.1. Cở sở lí luận
2.2. Thực trạng vấn đề giáo dục kỹ năng sống
2.2.1. Đối tượng học viên tại Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông
2.2.2. Kỹ năng sống của học viên Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông
2.3. Các biện pháp tiến hành
2.3.1. Lồng ghép kỹ năng sống qua từng phân môn
2.3.1.1. Phân môn Giảng văn
2.3.1.2. Phân môn Tiếng việt
2.3.1.3. Phân môn Làm văn
2.3.2. Các giải pháp thực hiện lồng ghép kỹ năng sống trong giờ dạy
4
4
5
5
5
5
6
6
8
8
9
9
10
10
11
12
12
2.3.3. Các bước thực hiện một bài giáo dục kỹ năng sống trong môn
16
Ngữ văn
2.4. Kết quả đạt được
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
19
19
19
21
PHỤ LỤC:
PHỤ LỤC I: GIÁO ÁN MINH HỌA
PHỤ LỤC II: KẾT QUẢ KHẢO SÁT
1
DANH MỤC TỪ VỰNG VIẾT TẮT
1
2
3
4
5
GDTX
GV
HV
KNS
SL
Giáo dục thường xuyên
Giáo viên
Học viên
Kỹ năng sống
Số lượng
2
1. MỞ ĐẦU
1.1 . Lí do chọn đề tài
3
Giáo dục có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của một đất nước cũng như toàn thể nhân loại. Thông qua giáo dục
con người không chỉ trang bị cho bản thân những kiến thức lí luận mà còn
phải hình thành những kỹ năng sống (KNS) thực tiễn cần thiết cho bản
thân trong cuộc sống hàng ngày. Giáo dục KNS giúp người học được hiểu
biết và rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng.
Việc đưa giáo dục KNS vào nhà trường có ý nghĩa như là một sự thức tỉnh
để các nhà giáo dục chú ý nhiều hơn đến tính hữu dụng, thiết thực của
chương trình nhà trường, đồng thời tăng khả năng đáp ứng yêu cầu đào tạo
con người mới năng động, tích cực, tự tin, đạt được thành công trong xu
hướng phát triển mới của xã hội.
Với đặc trưng của một môn học về khoa học xã hội và nhân văn môn
Ngữ văn là một môn học được tích hợp từ ba phân môn Tiếng Việt, Văn
học và Làm văn, bên cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học sinh
năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các
loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp học sinh có được những hiểu
biết về xã hội, văn hoá, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con người,
qua đó giáo dục cho các em hoàn thiện bản thân, hình thành nhân cách cao
đẹp. Đặc biệt việc giảng dạy tích hợp KNS trong môn Ngữ văn tại các
Trung tâm Giáo dục thường xuyên (GDTX) là việc rất cần thiết. Là một
giáo viên trực tiếp giảng dạy tại Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông bản thân
tôi nhận thấy rằng cần phải rèn luyện KNS cho các học viên để các em có
định hướng tốt hơn trong học tập, hình thành các kỹ năng cần thiết trong
cuộc sống cũng như hình thành nhân cách tốt, đáp ứng yêu cầu phát triển
của xã hội. Đó chính là lí do thôi thúc tôi đến với đề tài “MỘT SỐ BIỆN
PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC VIÊN TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN TỈNH ĐĂK NÔNG THÔNG QUA
VIỆC TÍCH HỢP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN LỚP 11”.
4
1.2. Mục đích nghiên cứu
Bồi dưỡng các KNS cần thiết cho học viên Trung tâm GDTX tỉnh
Đăk Nông nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập, nhận thức và hình
thành thói quen, nhân cách.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp giảng dạy KNS thông qua giờ dạy môn Ngữ văn cho
học viên lớp 11 Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu các tài liệu liên quan để làm cơ sở lí thuyết cho đề tài.
+ Các tài liệu, công trình nghiên cứu về lí luận dạy học, phương
pháp dạy kỹ năng sống cho học viên.
+ Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành và các tài liệu chuyên môn.
+ Trao đổi với giáo viên, học viên để tìm hiểu về thực trạng đối
tượng học viên tại Trung tâm và các biện pháp giảng dạy KNS cho học
viên.
Phương pháp: Thử nghiệm dạy khối lớp 11 ở Trung tâm giáo dục
thường xuyên tỉnh Đăk Nông.
+ Đánh giá tính hiệu quả của biện pháp tác động thông qua sự thay
đổi nhận thức, thái độ và hành vi của học viên.
+ Quan sát sư phạm để tìm hiểu hứng thú học tập của học viên.
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Ngữ văn lớp 11 tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Đăk Nông.
5
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Kỹ năng
Là năng lực để chúng ta làm một việc gì đó. Kỹ năng không tồn tại
độc lập. Nó là một hình thái của tư duy, của khái niệm. Hình thành khái
niệm phải đi đến kỹ năng. Khi khái niệm được chiếm lĩnh (chuyển vào
trong người học) thì chúng được biểu hiện ra bên ngoài bằng kỹ năng.
2.1.2. Kỹ năng sống
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về KNS:
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Kỹ năng sống là “ khả năng có
hành vi thích ứng và tích cực giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả với
những đòi hỏi và thách thức của cuộc sống hàng ngày”.
Theo từ điển Wikipedia “Kỹ năng sống là tập hợp các kỹ năng của
con người có được qua việc học hoặc trải nghiệm trực tiếp trong cuộc
sống dùng để giải quyết những vấn đề mà con người thường phải đối mặt
trong cuộc sống hàng ngày”.
Theo tổ chức văn hoá, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc
(UNESCO): Kỹ năng sống gắn liền với bốn trụ cột của giáo dục, đó là:
+ Học để biết (Learning to know): gồm các kĩ năng tư duy như: Tư
duy phê phán, tư duy sáng tạo, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng giải quyết
vấn đề, kỹ năng nhận thức được hậu quả,…
+ Học để làm người (Learning to be): gồm các kỹ năng như: ứng phó
với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,…
6
+ Học để sống với người khác (Learning to live together): gồm các
kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, làm việc theo
nhóm, thể hiện sự cảm thông.
+ Học để làm (Learning to do): gồm các kỹ năng thực hiện công việc
và các nhiệm vụ như: Kỹ năng đặt mục tiêu, đảm bảo trách nhiệm,…
Kỹ năng sống là một tập hợp các kỹ năng mà con người có được
thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử dụng để xử lý
những vấn đề, câu hỏi thường gặp trong cuộc sống thường ngày. Bản chất
của KNS là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá
nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.
2.1.3. Một số kỹ năng sống cơ bản
2.1.3.1. Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với chính mình
Kỹ năng tự nhận thức;
Kỹ năng xác định giá trị bản thân;
Kỹ năng kiểm soát cảm xúc;
Kỹ năng ứng phó với căng thẳng;
Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ;
Kỹ năng thể hiện sự tự tin;
Kỹ năng kiên định;
Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm;
Kỹ năng đặt mục tiêu;
Kỹ năng quản lý thời gian.
2.1.3.2. Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với người khác
Kỹ năng giao tiếp;
Kỹ năng lắng nghe tích cực;
Kỹ năng thể hiện sự cảm thông;
Kỹ năng thương lượng;
Kỹ năng hợp tác;
7
Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn;
Kỹ năng hợp tác;
Kỹ năng từ chối.
2.1.3.3. Nhóm các kỹ năng ra quyết định một cách có hiệu quả
Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin;
Kỹ năng tư duy phê phán;
Kỹ năng tư duy sáng tạo;
Kỹ năng ra quyết định;
Kỹ năng giải quyết vấn đề.
* Một số lưu ý:
Nội dung giáo dục KNS cho HV Trung tâm GDTX cần tập trung vào
các kỹ năng tâm lý xã hội là những kỹ năng được vận dụng trong những
tình huống hằng ngày để tương tác với người khác và giải quyết hiệu quả
những vấn đề, những tình huống trong cuộc sống. Việc hình thành những
kỹ năng này không loại bỏ mà ngược lại phải gắn bó song hành với việc
hình thành các kỹ năng học tập như: đọc, viết, tính toán,…
2.2. Thực trạng vấn đề giáo dục KNS
2.2.1. Đối tượng học viên tại Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông
Đối với các Trung tâm GDTX vấn đề giáo dục KNS cho học viên là
một nhiệm vụ, một yêu cầu cấp thiết. Đối tượng tham gia học tập tại
Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông bao gồm học viên trong độ tuổi và học
viên người lớn, hoàn cảnh gia đình, kinh nghiệm, hiểu biết thực tế, nhu
cầu học tập khác nhau. Với những học viên này việc giáo dục KNS vừa có
những thuận lợi vừa gặp những khó khăn nhất định.
Với mục tiêu tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi đối tượng trong xã
hội, các Trung tâm GDTX đã thu hút rất nhiều đối tượng thuộc các thành
phần khác nhau trong xã hội có cơ hội học tập để nâng cao dân trí và trình
8
độ. Vì vậy, đặc điểm tâm lý của học viên trong các Trung tâm GDTX có sự
khác biệt đáng kể so với học sinh tại các trường Trung học phổ thông.
Phần lớn các học viên tham gia học tập tại Trung tâm là đúng độ
tuổi. Tuy nhiên, học viên vào học các Trung tâm GDTX không phải qua con
đường thi tuyển mà chủ yếu là xét tuyển đối tượng có bằng tốt nghiệp
Trung học cơ sở và có nhu cầu học tập tại các Trung tâm GDTX. Có một
số học viên không đủ điều kiện vào học các trường Trung học phổ thông
công lập cũng đăng ký học tại Trung tâm GDTX. Nhìn chung, đại đa số các
học viên vẫn coi học tập là nhiệm vụ chính nhưng so với học sinh phổ
thông trình độ nhận thức của họ rất hạn chế.
Bên cạnh đó, đối tượng tuyển sinh của Trung tâm GDTX là học viên
người lớn (người lao động phổ thông có độ tuổi từ 20 trở lên). Trong học
tập, học viên người lớn có những đặc điểm riêng, khác so với học viên
đúng độ tuổi. Một trong những điểm khác biệt căn bản đó là yếu tố tâm lý,
tác động và liên quan trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả học tập của đối
tượng này. Việc học tập của học viên người lớn có mục đích rõ ràng: họ
học cho ngày hôm nay, học để làm gì, nên việc học tập của học viên người
lớn có tính thực tế rất cao. Họ chỉ có nhu cầu học những nội dung thiết
thực, những cái có khả năng vận dụng được ngay. Vì vậy họ rất nhạy bén
khi tiếp cận với những kỹ năng sống có tác dụng hữu ích với công việc,
cuộc sống của họ, mục đích học tập của họ là làm tốt hơn công việc đang
làm, để chuyển đổi công việc,…
Hầu hết các học viên người lớn không có thời gian để học tập một
cách bài bản, khả năng học tập của học hạn chế, hổng nhiều kiến thức, tư
tưởng dễ bị phân tán do phải vừa làm vừa học, vừa phụ giúp gia đình. Tuy
nhiên, học viên người lớn là người tự lập, có tự trọng cao, có năng lực chịu
trách nhiệm cao. Họ cũng đã có kinh nghiệm KNS nhất định. Đây là điểm
thuận lợi khi dạy học và tích hợp giáo dục KNS cho họ, nhưng cũng là
9
điểm hạn chế, cản trở quá trình học tập, nhận thức vì học viên người lớn
thường ứng xử theo thói quen, họ có cảm giác “biết rồi” khi học.
2.2.2. Kỹ năng sống của học viên Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông
Hiện nay, dư luận hết sức quan tâm và lo ngại về các biểu hiện lệch
lạc, thậm chí vi phạm pháp luật của học sinh Trung học phổ thông nói
chung và học viên ở các Trung tâm GDTX nói riêng ngày càng tăng.
Đối tượng tôi đề cập trong sáng kiến này chủ yếu tập trung vào đối
tượng học viên trong độ tuổi đến trường. Phần lớn học viên ở Trung tâm
GDTX tỉnh Đăk Nông nhiều học viên nam hơn học viên nữ, vì nhiều lí do
mà các em xin vào học ở Trung tâm: vì đánh nhau nên bị kỷ luật, học yếu,
ham chơi nên bị bạn bè rủ rê và cuối cùng là hư hỏng. Có một số học viên
cá biệt hay gây gổ đánh nhau và lôi kéo cả những bạn trong lớp tham gia
vào nhóm của mình. Giáo viên đang dạy trên bục giảng học viên xích mích
kéo “anh chị” đến xông vào lớp đánh nhau coi như không có người. Điển
hình trong năm học 20162017 học viên trong lớp mâu thuẫn, gây gỗ, đánh
nhau lôi kéo “cả băng” đến Trung tâm để trả thù.
Trong Trung tâm học viên vẫn còn tình trạng hút thuốc lá, uống
rượu, nghiện game, chat... trong khi không phải các em không ý thức được
sự nguy hại của những vấn đề đó. Nhiều khi các em tham gia chỉ vì đua
đòi, có khi không đủ khả năng để từ chối, thử một lần rồi có những lần
tiếp theo và cuối cùng là nghiện ngập.
Thực tế cho thấy, tình trạng học viên thiếu KNS vẫn xảy ra, biểu
hiện qua hành vi ứng xử không phù hợp trong xã hội, sự ứng phó hạn chế
với các tình huống trong cuộc sống như: ứng xử thiếu văn hóa trong giao
tiếp nơi công cộng, thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi,
chưa có ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh công cộng, gây phiền hà
cho người khác khi sử dụng điện thoại di động,…
10
Các em học viên trong Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông có nhiều độ
tuổi khác nhau, có em đúng tuổi, đúng lớp, có em do nghỉ học nhiều năm
mới xin đi học lại nên tuổi chênh lệch nhiều. Các em học viên mới lớn
chưa có nhận thức đúng đắn trong tình yêu, đôi khi lụy tình bỏ học, yêu
sớm làm ảnh hưởng đến quá trình học tập. Thực trạng quan hệ tình dục
trong độ tuổi học sinh gia tăng. Một số em học viên phải nghỉ học vì mang
thai hoặc nạo phá thai làm ảnh hưởng đến quá trình học tập của bản thân.
Với những đặc điểm trên, học viên tại Trung tâm GDTX tỉnh Đăk
Nông rất cần được trang bị những KNS cần thiết, phù hợp để học tập tốt
hơn và đặc biệt quan trọng là họ thích ứng với những thay đổi của xã hội
và giải quyết tốt hơn những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
2.3. Các biện pháp tiến hành giáo dục KNS
2.3.1. Lồng ghép giáo dục KNS qua từng phân môn
2.3.1.1. Phân môn Giảng văn
Lồng ghép KNS qua các tác phẩm văn học tạo hứng thú cho các em
trong việc tiếp thu kiến thức. Các em phát huy được vai trò của mình trong
từng tiết học. Một buổi sáng bước vào lớp với cỡ 15 học viên với những
gương mặt ngơ ngác, ngáp ngủ, nằm vật vờ ra bàn, GV giảng bài độc
thoại một mình. Đó là điều tôi đã trải qua với nhiều tiết học. Thiết nghĩ,
nếu cứ để tình trạng này kéo dài môn Ngữ văn đặc biệt là giờ giảng văn
trở nên ngán ngẫm, nhàm chán là phương tiện “ru ngủ” cho học viên. GV
chỉ là cái máy phát âm thanh không hơn không kém, GV đặt câu hỏi và tự
trả lời đáp án.
Việc lồng ghép KNS qua các chi tiết, hình ảnh, nội dung bài giảng
văn Mỗi chi tiết trong tác phẩm tự sự, mỗi hình ảnh trong tác phẩm trữ tình
và nội dung nói chung của các tác phẩm văn học đều mang trên mình nó
những giá trị thẩm mĩ và tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm đến người
đọc một thông điệp nào đó.
11
Ví dụ: Bài “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ. Bài thơ là
bức chân dung tự họa của Nguyễn Công Trứ về một cá tính mạnh mẽ, một
con người xuất chúng dám sống là mình, vượt lên thói tục thông thường để
khẳng định bản ngã vừa là một tuyên ngôn cho lí tưởng sống phóng khoáng
đối lập với xã hội phong kiến bảo thủ, lạc hậu đương thời. Nguyễn Công
Trứ đã khiến chúng ta phải suy nghĩ về bài học “ hãy tin vào chính mình”.
Nếu nghĩ ta làm được thì sẽ làm được. Đừng chấp nhận làm kẻ tầm
thường, kẻ thất bại mà luôn luôn đòi hỏi sự vượt trội của bản thân. Có như
vậy các em mới thành công trong cuộc sống.
2.3.1.2. Phân môn Tiếng việt
Qua việc giảng dạy phân môn Tiếng việt theo tôi tùy vào mỗi tiết
học GV có thể lồng ghép một số kỹ năng cho phù hợp để tiết dạy đạt hiệu
quả cao. Các kỹ năng thường vận dụng các kỹ năng như: kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng tư duy, kỹ năng làm việc nhóm ...trong đó lồng ghép hiệu quả
nhất là kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm.
Ví dụ: Bài “Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân” giúp các em
thấy được mối quan hệ giữa ngôn ngữ chung của xã hội và lời nói riêng
của cá nhân. Hình thành nâng cao năng lực lĩnh hội những nét riêng trong lời
nói cá nhân, năng lực sáng tạo của cá nhân trong việc sử dụng ngôn ngữ
trên cơ sở những từ ngữ và quy tắc chung. Từ đó giúp các em có ý thức tôn
trọng những quy tắc ngôn ngữ chung của xã hội, giữ gìn phát huy bản sắc
ngôn ngữ của dân tộc.
2.3.1.3. Phân môn Làm văn
Trong phân môn Làm văn theo tôi vẫn có thể lồng ghép kĩ năng sống
qua việc ra đề kiểm tra và lời nhận xét của GV. Thông qua các dạng đề
kiểm tra các em được rèn luyện kỹ năng viết, cảm nhận, bộc lộ suy nghĩ
của mình về vấn đề nào đó trong cuộc sống. Thông qua tiết trả bài các em
nhận ra những điều mình đã làm được và chưa làm được, từ đó các em hiểu
12
được vấn đề và những suy nghĩ chín chắn hơn sẽ dần hình thành trong tâm
hồn các em.
Ví dụ: Khi viết bài về vấn đề trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh
vô cảm” trong xã hội hiện nay. Hầu hết các em đã hiểu được thế nào là
bệnh vô cảm, biểu hiện và tác hại của căn bệnh này.Thế nhưng, có một số
em chưa hiểu ra vấn đề lại cho rằng mình phải tránh xa những người mắc
bệnh vô cảm. Với các bài làm như thế GV cần định hướng cho HV trong
tiết trả bài để các em hiểu rõ hơn tác hại của căn bệnh này. Đây không
phải là căn bệnh lây lan mà phải tránh xa, không ai hết chính các em cần
phải là người sống có trách nhiệm. Tình thương là cái quý giá của con
người, bệnh vô cảm đã làm mất phẩm chất ấy. Vì vậy trái tim mỗi con
người cần được thắp sáng ước mơ, khát vọng, ý chí và sự sáng tạo gắn bó
với cộng đồng. Điều đó sẽ chống được bệnh vô cảm và làm cho cuộc đời
của con người có ý nghĩa.
2.3.2. Các giải pháp thực hiện lồng ghép KNS trong giờ dạy
Trong quá trình dạy học tích hợp giáo dục KNS theo tôi mỗi GV cần
có một phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực phù hợp với từng bài học
kết hợp với việc sử dụng các phương tiện dạy học: sách giáo khoa, máy
chiếu, bảng phụ,…
Căn cứ vào tình hình thực tế của lớp dạy về đối tượng, số lượng HV
trong mỗi giờ học tôi đã cố gắng lồng ghép KNS từ những điều nhỏ nhất,
sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp để tạo hứng thú học tập cho
HV, để các em tự đặt mình vào vấn đề các nhân vật gặp phải, tự mình tìm
ra hướng giải quyết, tự mình nói ra những suy nghĩ mà có khi trước đây
một số em chưa bao giờ làm điều đó. Từ đó, tôi thấy tiết học sôi nổi, các
em hứng thú khi lĩnh hội kiến thức mới. Đây là một số phương pháp dạy
học tích cực tôi đã áp dụng trong các giờ dạy tại Trung tâm GDTX tỉnh Đăk
Nông và thu được kết quả tốt. Tuy nhiên, tùy theo từng phân môn bài học
13
mà GV áp dụng cho phù hợp. Một giờ học sôi nổi các em HV nắm được
kiến thức trọng tâm, rèn luyện được các KNS cần thiết cho mỗi cá nhân
HV đó là điều tôi đã và đang cố gắng phát huy trong quá trình giảng dạy.
Để khi bước vào đời các em có đầy đủ các hành trang về tri thức, trang bị
đầy đủ những KNS cần thiết để đứng vững, không sa ngã trước những va
vấp trong cuộc sống.
Giải pháp thứ nhất: Đưa ra những tình huống thực tế
Với đối tượng là học viên Trung tâm GDTX giờ học Ngữ văn đôi khi
còn tạo áp lực cho các em. Nếu như mỗi giờ lên lớp giáo viên chỉ là người
truyền thụ còn học viên chỉ “lĩnh hội” theo kiểu nghe đọc và chép, nhìn
bảng cô ghi và học trò chép thì mỗi giờ đọc văn sẽ nhàm chán và vô vị. Có
khi học xong một bài thơ, tác phẩm văn học một số em không nhớ nổi tên
tác giả, tên nhân vật chính. Vì các em đó có bao giờ dám mạnh dạn bày tỏ
suy nghĩ của mình, điều đó dẫn đến cách trình bày vấn đề mà không biết
bắt đầu từ đâu, hoặc hiểu mà không biết diễn đạt những suy nghĩ của
mình. Vì vậy theo tôi tùy theo mỗi bài học, giáo viên cần tạo ra những tình
huống có vấn đề, mang tính chất ứng dụng vào thực tế đời sống, rồi tổ
chức cho học viên tự giải quyết. Ban đầu mang tính chất cá nhân đưa ra ý
kiến sau đó giáo viên hướng đến cách giải quyết tối ưu nhất.
Ví dụ: Khi dạy bài “Thông điệp nhân ngày thế giới phòng chống
HIV/ AIDS” của Côphianan, giáo viên đặt ra tình huống: Nếu em có một
người bạn thân bị nhiễm HIV/ AIDS, em sẽ hành động như thế nào? Vì
sao?
Sau khi đưa ra tình huống, tổ chức cho HV tự giải quyết vấn đề trên
một tờ phiếu học tập hoặc chỉ định bất kì HV nào. Sau khi các em trả lời
GV sẽ là người tổng hợp ý kiến và để thống nhất cách giải quyết tốt
nhất.
Qua bài học trên giúp các em hình thành các KNS:
14
+ Tự nhận thức: Nhận thức được đây là một căn bệnh thế kỷ có tính
chất nóng bỏng của toàn cầu. Từ đó, xác định được trách nhiệm của mỗi cá
nhân khi tham gia vào cuộc chiến đấu này, có những hành động thiết thực
góp phần ngăn chặn sự lây lan của căn bệnh thế kỷ.
+ Giao tiếp/ trình bày ý tưởng: Thảo luận, trao đổi với bạn bè, thầy
cô,...về hiện trạng cuộc chiến đấu phòng chống AIDS hiện nay, tác hại,
nguy cơ lây lan của căn bệnh thế kỷ và những giải pháp để góp phần vào
cuộc chiến này.
+ Ra quyết định: Xác định những việc cá nhân và xã hội cần làm để góp
phần vào cuộc chiến đấu chống lại căn bệnh thế kỉ.
Ở phân môn Tiếng việt tùy theo từng bài học mà giáo viên có thể
đưa ra những tình huống khác nhau để làm sao chuyển tải được nội dung
bài học, qua đó các em thấy hứng thú và rút ra cho mình được kỹ năng sống
nhỏ nhất khi tham gia bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài “Đặc điểm loại hình tiếng Việt” rèn luyện cho
HV các kỹ năng:
Tư duy sáng tạo: Phân tích đối chiếu đặc điểm loại hình tiếng Việt
với các ngôn ngữ khác, từ đó biết cách sử dụng tiếng Việt phù hợp với ngữ
pháp và ngữ nghĩa.
Tự nhận thức về việc trau dồi vốn hiểu biết tiếng Việt của bản
thân để sử dụng tiếng Việt tốt hơn trong giao tiếp.
Giáo viên cho HV tìm ví dụ một câu tiếng Việt tương đương với
câu tiếng Anh
Tiếng Anh: I saw her, three days ago.
Tiếng Việt: Tôi thấy cô ấy cách đây ba ngày.
Giáo viên hướng dẫn HV phâm tích ví dụ:
Đặc điểm loại hình ngôn ngữ hòa kết của tiếng Anh trong ví dụ
trên thể hiện ở:
15
+ Ranh giới các âm tiết không rõ ràng: các từ three, ago dù có dạng
hai âm tiết nhưng chúng được phát âm nối liền nhau.
+ Từ có sự biến đổi về hình thức: từ saw (thấy, nhìn thấy) có hình
thức tồn tại ở thì quá khứ. Thì hiện tại của từ này viết là see. Cũng tương
tự như vậy là từ her (cô ấy). Trong câu này "cô ấy" không phải là chủ ngữ
(she) mà đóng vai trò là tân ngữ, thế nên dạng thức tồn tại của nó là tính từ
sở hữu (her).
+ Trật tự không được sắp xếp theo thứ tự trước sau. Trạng ngữ của
câu đặt ở cuối câu. Đồng thời trong trạng ngữ thì trật từ thuận cũng bị đảo
lộn: từ cách đây (ago) lại đặt sau phần chỉ thời gian (three days).
Ngược lại với những đặc điểm trên của tiếng Anh là những đặc
điểm của loại hình ngôn ngữ đơn lập trong câu dịch tiếng Việt:
+ Ranh giới các âm tiết rõ ràng (mỗi từ được phát âm tách biệt, tách
rời.
+ Từ không có biến đổi về hình thức.
+ Trật tự từ được sắp xếp theo đúng thứ tự trước sau.
Ở những tiết học Làm văn ngoài những viết thực hành viết bài tại
lớp và ở nhà, những tiết về phân tích đề, lập dàn ý, các thao tác lập luận,…
cung cấp cho các em những thao tác chính trong quá trình viết bài, ngoài ra
còn cung cấp cho các em HV những kỹ năng sống cần thiết không những
trong học tập mà còn trong cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ: Khi học bài “Tiểu sử tóm tắt” chắc hẳn khi chưa tìm hiểu các
em chưa hiểu thế nào là tiểu sử tóm tắt để dẫn nhập vào bài mới giáo viên
yêu cầu học sinh hãy nêu giới thiệu về bản thân em?. Chắc chắn các em chỉ
nêu được họ và tên, ngày tháng năm sinh, dân tộc, học lớp nào, nhà ở đâu,
gia đình có mấy anh chị em, nghề nghiệp bố mẹ,…
Qua cách giới thiệu của HV giáo viên nhận xét và nhấn mạnh đó mới
là một phần của bản tiểu sử tóm tắt, khi viết tiểu sử tóm tắt cần viết ngắn
gọn những ý chính những ý quan trong của cuộc đời người được viết tiểu
sử tóm tắt. Thông qua tình huống trải nghiệm “tự trình bày” bản thân em
16
HV đó và các HV trong lớp sau khi học xong bài thì đã hiểu được các bước
khi viết tiểu sử tóm tắt gồm bốn phần: Giới thiệu nhân thân, hoạt động xã
hội, đóng góp thành tựu mà lĩnh vực người đó hoạt động và đánh giá chung.
Qua bài học này các em đã biết cách viết tiểu sử tóm tắt đây là văn bản rất
quan trong khi các em giới thiệu ban cán sự lớp, bí thư đoàn, sau này xin
viêc làm,…
Ở bài học này cung cấp cho học viên những kỹ năng sống cơ bản
như:
Suy nghĩ sáng tạo: tìm kiếm và xử lý thông tin phù hợp để tạo lập
văn bản tóm tắt tiểu sử của một nhân vật.
Đảm nhận trách nhiệm, kiểm soát cảm xúc để trình bày những
thông tin khách quan, trung thực về tiểu sử của người được tóm tắt.
Việc đưa ra những tình huống thực tế thường tạo cho các em tâm
thế “nhập cuộc”, hào hứng, cảm thấy mình là người trong cuộc, cần phải
thể hiện suy nghĩ và hành động cụ thể. Qua những tình huống đó, các em
HV dần dần hình thành các KNS theo từng tình huống cụ thể, các em biết
cách giải quyết vấn đề và điều chỉnh hành vi của mình theo hướng hợp lí.
Giải pháp thứ hai: Lĩnh hội kiến thức qua hoạt động đối thoại
Để tránh hiện tượng “độc thoại” trên bục giảng GV cần tạo ra
không khí học tập thông qua việc đối thoại, vấn đáp đa dạng giữa GVHV.
Trong quá trình dạy học văn, giáo viên nên cố gắng để tạo ra những hoạt
động đối thoại đa dạng. Để có những cuộc đối thoại đạt hiệu quả, cần xác
định những vấn đề trọng tâm, mở ra nhiều cách giải thích khác nhau, kích
thích khả năng tư duy sáng tạo, thúc đẩy HV bộc lộ quan điểm và đối
thoại.
Học xong bài “Chí Phèo” GV hỏi: Cuối tác phẩm Chí Phèo đâm
chết Bá Kiến để trả thù. Vậy trong xã hội bây giờ, nếu ai có thù oán với
em, em có hành động như Chí Phèo không? Vì sao?
17
GV cho các em HV phản biện lại ý kiến của mình. Có ý kiến nói
“không”, với tính cách của HV Trung tâm có ý kiến nói “có” và đưa ra cách
lý giải riêng của từng em. Vì vậy cần GV định hướng phân tích bản chất
của sự việc, chỉ ra chỗ nào đúng, chỗ nào sai. Từ đó giúp học viên rút ra bài
học về sự xử lí khi có mâu thuẫn.
Ở phân môn Tiếng việt: Ví dụ trong bài “Thực hành về thành ngữ,
điển cố” những kiến thức về lý thuyết các em đã được học ở chương trình
Ngữ văn cấp Trung học cơ sở, nếu như GV hỏi: Em hãy cho biết thành ngữ
là gì? Điển cố là gì?. Nếu như đối tượng là học sinh phổ thông những em
học khá sẽ lấy được ví dụ và hiểu được nội dung dù không đầy đủ. Đối
tượng là HV Trung tâm thì hầu hết các em đều lắc đầu, ngồi khép nép sợ
cô gọi đến mình. Tôi đã tiến hành giảng dạy bài học bằng power poin và
tiết học rất thành công, các em hào hứng tìm thành ngữ, giải thích các điển
cố thông qua các hình ảnh chiếu trên màn hình dạng “đuổi hình bắt chữ”.
18
Các em sôi nổi bàn luận và tìm ra thành ngữ đúng là: “Trứng khôn
hơn vịt”
Thành ngữ “Cưỡi ngựa xem hoa”
Thành ngữ “Nước đổ đầu vịt”
19
Từ những ví dụ các em tìm được, giáo viên chốt câu đúng và cho các
em nhớ lại kiến thức cũ về khái niệm thành ngữ. Thông qua đó các em thấy
được hiệu quả khác biệt của việc vận dụng các thành ngữ trong câu so với
việc dùng từ ngữ thông thường.
Tương tự như các bước tiến hành về thành ngữ về phần điển cố các
em cũng đã tìm ra các điển cố căn cứ vào các hình ảnh dưới sự hướng dẫn
của giáo viên các em đã hiểu bài và nắm bài tốt hơn ngay tại lớp.
Điển cố “Gót chân Asin
20
Điển cố “Đẽo cày giữa đường”
Giải pháp thứ ba: Tích cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm
Như tôi đã nêu ở những giải pháp trên không phải bài học nào cũng
áp dụng phương pháp dạy học theo nhóm. Sử dụng một phương pháp dạy
học không có nghĩa là đề cao và coi đó là phương pháp độc tôn, bởi lẽ
không có phương pháp nào là vạn năng.
Tùy vào đối tượng và nội dung kiến thức của bài học mà chúng ta
lựa chọn phương pháp dạy học cho phù hợp. Tôi thấy rằng khi đưa dạy
học tích hợp KNS vào trong các giờ dạy Ngữ văn, các em đã có những
chuyển biến tích cực trong suy nghĩ và hành động, trong giờ học các em HV
đã giơ tay phát biểu, bàn luận và tự các em rút ra được những kĩ năng sống
cho riêng mình qua bài giảng của giáo viên. Thông qua hoạt động nhóm
giúp các em hình thành các phẩm chất nhân cách và các kỹ năng xã hội tốt
hơn.
21
(Một giờ học thảo luận nhóm tại lớp 11A Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông)
Để tiến hành thảo luận nhóm:
Giáo viên tổ chức phân nhóm, cho HV tự bầu trưởng nhóm, GV
thông báo quy trình và thời gian thảo luận.
Giao nhiệm vụ cho từng nhóm; giáo viên chỉ làm nhiệm vụ quan sát,
theo dõi mà không tham gia ý kiến.
Khi HV trình bày, GV phải nghe cẩn thận những điều HV đó nói để
hiểu các em định nói gì hoặc ghi chép nhanh lại những điểm cơ bản của
mỗi ý kiến để chuẩn xác kiến thức.
Sau khi thảo luận: Giáo viên phải tổng kết những ý kiến phát biểu
thống nhất và chưa thống nhất để mình tham gia vào những ý kiến chưa
thống nhất và bổ sung thêm những ý cần thiết; đánh giá các ý kiến phát
biểu, nhận xét tinh thần, thái độ làm việc của HV để thưởng điểm hoặc
trừ điểm cho cá nhân của nhóm.
Ưu điểm của phương pháp thảo luận nhóm là giúp các em có ý thức
học tập, phát huy vai trò của cá nhân trong nhóm, huy động kiến thức tập
22
thể,…Thế nhưng, để giờ học đạt hiệu quả cao thì GV cần phối hợp linh
hoạt với các phương pháp dạy học khác nhau.
2.3.3. Các bước thực hiện một bài giáo dục KNS trong môn Ngữ văn
Các bước
1. Khám phá
2. Kết nối
Mục đích
Kích thích học viên
tự tìm hiểu xem các
em đã biết gì về
những khái niệm, kỹ
năng, kiến thức...sẽ
được học.
Giúp GV đánh giá
thực trạng (Kiến
thức, kỹ năng...) của
học sinh trước khi
giới thiệu vấn đề
mới.
Giới thiệu thông
tin, kiến thức và kỹ
năng mới thông qua
việc tạo cầu nối liên
kết giữa cái “Đã
biết” và “Chưa
biết”. Cầu nối này
sẽ kết nối kinh
nghiệm hiện có của
học sinh với bài học
mới
Vai trò của GV và
Mô tả quá trình
học viên/gợi ý
thực hiện
một số kỹ thuật
dạy học
GV đặt câu hỏi GV lập kế
nhằm gợi lại hoạch, nêu vấn đề.
những hiểu biết đã
có liên quan đến
bài học mới.
GV giúp học viên
phân tích các hiểu
biết hoặc trải
nghiệm.
Học viên trao đổi
chia sẻ, sử dụng.
Một số kỹ thuật
dạy học: Động
não, thảo luận,
chơi trò chơi,…
GV là người
hướng dẫn
Học viên: Người
phản hồi trình bày
quan điểm.
Kỹ thuật dạy
học: chia nhóm,
thảo luận, trình
bày, khách mời,
đóng vai, sử dụng
phương tiện dạy
học đa chức
năng…
GV giới thiệu
mục tiêu bài học và
kết nối chúng với
các vấn đề đã chia
sẻ ở phần trước.
Đọc văn: GV
hướng dẫn học
viên đọc hiểu văn
bản: Tìm hiểu
chung về tác giả
tác phẩm, nhan đề
thể loại, bố cục
của văn bản...Tìm
hiểu chi tiết những
nét đặc sắc về nội
dung của văn bản.
Tiếng Việt và tập
làm văn: Hướng
dẫn học sinh tìm
hiểu nội dung bài
học.
Tạo cơ hội cho GV chuẩn bị hoạt GV: Người
23
người học thực hành
vận dụng kiến thức
và kỹ năng mới vào
một hoàn cảnh có ý
nghĩa. Định hướng
để học sinh thực
hành đúng cách.
Điều chỉnh những
3.Thực hành hiểu biết và kỹ năng
còn sai lệch.
luyện tập
động yêu cầu học
sinh sử dụng kiến
thức và kỹ năng
mới.
Học viên làm việc
theo nhóm, cặp
hoặc cá nhân để
hoàn thành nhiệm
vụ.
GV giám sát tất
cả mọi hoạt động
và điều chỉnh khi
cần thiết, GV
khuyến khích học
sinh thể hiện
những điều các em
suy nghĩ hoặc mới
lĩnh hội được.
hướng dẫn, người
hỗ trợ.
Học viên : Người
thực hiện, người
khám phá.
Kỹ thuật dạy
học: Viết đoạn
văn, mô phỏng hỏi
đáp, trò chơi, thảo
luận…
2.3.4. Giáo án minh họa (Phụ lục 1)
2.4. Kết quả đạt được
Sau khi tiến hành khảo sát lớp 11A cuối học kỳ I năm học 20152016
và cuối học kỳ I năm học 20162017 kết quả so sánh cho thấy sự hình
thành và vận dụng KNS, khả năng làm việc theo nhóm của học viên có sự
chênh lệch rõ rệt.
Từ khi thực hiện chuyên đề vào giảng dạy ở Trung tâm GDTX tỉnh
Đăk Nông, tuy thời gian không nhiều nhưng chuyên đề rất có ích với học
viên. Học viên nhận thức được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân
sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu
đến sự phát triển thể chất, tinh thần của bản thân và người khác. Trong các
giờ học có những chuyển biến rất tích cực, các em năng động hơn trong
các giờ học, trong các tiết học thường tập trung hơn, có ý thức học tập, ý
thức làm việc theo nhóm tốt hơn, phát huy vai trò của mỗi cá nhân trong khi
được giao nhiệm vụ. Tích cực nêu quan điểm, bàn luận, biết đánh giá và tự
đánh giá bản thân, phát triển óc sáng tạo, nhanh nhạy hơn trong xử lý các
24
tình huống có vấn đề. Đây là cơ sở thuận lợi giúp giáo viên phát hiện được
đầy đủ hơn năng lực, tính cách của từng cá nhân học viên để kịp thời uốn
nắn, sửa chữa, tạo môi trường học tập thân thiện, tích cực.
Trong mỗi tiết học các em hào hứng hơn khi tìm hiểu kiến thức
mới và thông qua việc tích hợp giảng dạy KNS trong môn Ngữ văn mỗi giờ
học Văn không còn nhàm chán theo kiểu “cô đọc trò chép” học viên thụ
động chiếm lĩnh kiến thức mới. Học viên chủ động tìm tòi kiến thức trong
không khí sôi nổi, khắc sâu hơn bài học và tăng dần khả năng cảm nhận tác
phẩm văn học. Học viên quen dần với phương pháp học tập nhóm, biết
phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Các kỹ năng trên
được vận dụng thuần thục, học viên hứng thú hơn trong giờ học Ngữ văn,
phát huy vai trò của học viên trong từng tiết học. (Bảng khảo sát phụ lục 2)
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Ngữ văn là môn học có khả năng đặc biệt trong giáo dục KNS cho
người học, việc tích hợp giáo dục KNS vào trong quá trình dạy học nói
chung và dạy môn Ngữ văn nói riêng là một phương pháp có thể đem lại
25