Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SKKN: Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học viên trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Đăk Nông thông qua việc tích hợp dạy học môn Ngữ Văn lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.79 MB, 29 trang )

MỤC LỤC                                                                                           
Trang
DANH MỤC TỪ VỰNG VIẾT TẮT                                                        3
1. MỞ ĐẦU                                                                               
1.1. Lí do chọn đề tài                                                                            
1.2. Mục đích nghiên cứu                                                                         
1.3. Đối tượng nghiên cứu                                                                        
1.4. Phương pháp nghiên cứu                                                                
1.5. Phạm vi nghiên cứu
2. NỘI DUNG
2.1. Cở sở lí luận                                                                                   
2.2. Thực trạng vấn đề giáo dục kỹ năng sống 
2.2.1. Đối tượng học viên tại Trung tâm GDTX tỉnh  Đăk Nông 
2.2.2. Kỹ năng sống của học viên Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông
2.3. Các biện pháp tiến hành 
2.3.1. Lồng ghép kỹ năng sống qua từng phân môn
2.3.1.1. Phân môn Giảng văn
2.3.1.2. Phân môn Tiếng việt
2.3.1.3. Phân môn Làm văn
2.3.2. Các giải pháp thực hiện lồng ghép kỹ năng sống trong giờ dạy

4
4
5
5
5
5
6
6
8
8


9
9
10
10
11
12
12

2.3.3. Các bước thực hiện một bài giáo dục kỹ năng sống trong môn 

16

Ngữ văn
2.4.  Kết quả đạt được
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

17
19
19
19
21

PHỤ LỤC:
PHỤ LỤC I: GIÁO ÁN MINH HỌA
PHỤ LỤC II: KẾT QUẢ KHẢO SÁT

1



DANH MỤC TỪ VỰNG VIẾT TẮT
1
2
3
4
5

GDTX
GV
HV
KNS
SL

Giáo dục thường xuyên
Giáo viên
Học viên
Kỹ năng sống
Số lượng
2


1.  MỞ ĐẦU
1.1 . Lí do chọn đề tài
3


Giáo dục có vai trò hết sức quan trọng đối với sự  tồn tại và phát 
triển của một đất nước cũng như  toàn thể  nhân loại. Thông qua giáo dục 

con người không chỉ trang bị cho bản thân những kiến thức lí luận mà còn  
phải hình thành những  kỹ  năng sống (KNS)  thực tiễn cần thiết cho bản 
thân trong cuộc sống hàng ngày. Giáo dục KNS giúp người học được hiểu 
biết và rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng. 
Việc đưa giáo dục KNS vào nhà trường có ý nghĩa như là một sự thức tỉnh 
để  các nhà giáo dục chú ý nhiều hơn đến tính hữu dụng, thiết thực của  
chương trình nhà trường, đồng thời tăng khả năng đáp ứng yêu cầu đào tạo  
con người mới năng động, tích cực, tự  tin, đạt được thành công trong xu  
hướng phát triển mới của xã hội.
Với đặc trưng của một môn học về khoa học xã hội và nhân văn môn 
Ngữ  văn là một môn học được tích hợp từ  ba phân môn Tiếng Việt, Văn 
học và Làm văn,  bên cạnh nhiệm vụ  hình thành và phát triển  ở  học sinh  
năng lực sử  dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản văn học và các 
loại văn bản khác, môn Ngữ  văn còn giúp học sinh có được những hiểu  
biết về xã hội, văn hoá, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con người,  
qua đó giáo dục cho các em hoàn thiện bản thân, hình thành nhân cách cao 
đẹp. Đặc biệt việc giảng dạy tích hợp  KNS  trong môn Ngữ  văn tại các 
Trung tâm Giáo dục thường xuyên (GDTX) là việc rất cần thiết. Là một 
giáo viên trực tiếp giảng dạy tại Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông bản thân 
tôi nhận thấy rằng cần phải rèn luyện KNS cho các học viên để các em có 
định hướng tốt hơn trong học tập, hình thành các kỹ  năng cần thiết trong  
cuộc sống cũng như  hình thành nhân cách tốt, đáp  ứng yêu cầu phát triển 
của xã hội. Đó chính là lí do thôi thúc tôi đến với đề  tài “MỘT SỐ BIỆN 
PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC VIÊN TRUNG TÂM 
GIÁO   DỤC   THƯỜNG   XUYÊN   TỈNH   ĐĂK   NÔNG   THÔNG   QUA 
VIỆC TÍCH HỢP DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN LỚP 11”.
4


1.2. Mục đích nghiên cứu

Bồi dưỡng  các KNS cần thiết cho học viên Trung tâm GDTX tỉnh 
Đăk Nông  nhằm góp phần nâng cao chất lượng học tập, nhận thức và hình 
thành thói quen, nhân cách. 
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp giảng dạy KNS thông qua giờ  dạy môn Ngữ  văn  cho 
học viên lớp 11 Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
­ Nghiên cứu các tài liệu liên quan để làm cơ sở lí thuyết cho đề tài.
+  Các tài liệu, công trình nghiên cứu về  lí luận dạy học, phương 
pháp dạy kỹ năng sống cho học viên.
+ Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành và các tài liệu chuyên môn.
+  Trao đổi với giáo viên, học viên để  tìm hiểu về  thực trạng đối 
tượng học viên tại Trung tâm và các biện pháp giảng dạy  KNS  cho học 
viên.
­ Phương pháp: Thử  nghiệm dạy khối lớp 11  ở Trung tâm giáo dục 
thường xuyên tỉnh Đăk Nông.
+ Đánh giá tính hiệu quả  của biện pháp tác động thông qua sự  thay  
đổi nhận thức, thái độ và hành vi của học viên.
+ Quan sát sư phạm để tìm hiểu hứng thú học tập của học viên.
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Ngữ văn lớp 11 tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Đăk Nông.

5


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1.  Kỹ năng 
Là năng lực để  chúng ta làm một việc gì đó. Kỹ  năng không tồn tại 
độc lập. Nó là một hình thái của tư  duy, của khái niệm. Hình thành khái  

niệm phải đi đến kỹ  năng. Khi khái niệm được chiếm lĩnh (chuyển vào  
trong người học) thì chúng được biểu hiện ra bên ngoài bằng kỹ năng.
2.1.2. Kỹ năng sống 
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về KNS:
­ Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Kỹ năng sống là “ khả năng có  
hành vi thích  ứng và tích cực giúp cá nhân giải quyết có hiệu quả  với  
những đòi hỏi và thách thức của cuộc sống hàng ngày”.
­ Theo từ điển Wikipedia “Kỹ năng sống là tập hợp các kỹ năng của  
con người có được qua việc học hoặc trải nghiệm trực tiếp trong cuộc  
sống dùng để giải quyết những vấn đề mà con người thường phải đối mặt  
trong cuộc sống hàng ngày”. 
­   Theo   tổ   chức   văn   hoá,   khoa   học   và   giáo   dục   Liên   hợp   quốc 
(UNESCO): Kỹ năng sống gắn liền với bốn trụ cột của giáo dục, đó là: 
+ Học để  biết (Learning to know): gồm các kĩ năng tư  duy như: Tư 
duy phê phán, tư  duy sáng tạo, kỹ  năng ra quyết định, kỹ  năng giải quyết  
vấn đề, kỹ năng nhận thức được hậu quả,…
+ Học để làm người (Learning to be):  gồm các kỹ năng như: ứng phó 
với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,…

6


+ Học để  sống với người khác (Learning to live together):  gồm các 
kỹ năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, làm việc theo 
nhóm, thể hiện sự cảm thông.
+ Học để làm (Learning to do): gồm các kỹ năng thực hiện công việc 
và các nhiệm vụ như: Kỹ năng đặt mục tiêu, đảm bảo trách nhiệm,…
Kỹ  năng sống là một tập hợp các kỹ  năng mà con người có được 
thông qua giảng dạy hoặc kinh nghiệm trực tiếp được sử  dụng để  xử  lý 
những vấn đề, câu hỏi thường gặp trong cuộc sống thường ngày. Bản chất 

của KNS là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá 
nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.
2.1.3. Một số kỹ năng sống cơ bản 
2.1.3.1. Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với chính mình
­ Kỹ năng tự nhận thức; 
­ Kỹ năng xác định giá trị bản thân;
­ Kỹ năng kiểm soát cảm xúc;
­ Kỹ năng ứng phó với căng thẳng;
­ Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ;
­ Kỹ năng thể hiện sự tự tin;
­ Kỹ năng kiên định;
­ Kỹ năng đảm nhận trách nhiệm;
­ Kỹ năng đặt mục tiêu;
­ Kỹ năng quản lý thời gian.
2.1.3.2. Nhóm các kỹ năng nhận biết và sống với người khác
­ Kỹ năng giao tiếp;
­ Kỹ năng lắng nghe tích cực;
­ Kỹ năng thể hiện sự cảm thông;
­ Kỹ năng thương lượng;
­ Kỹ năng hợp tác;
7


­ Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn;
­ Kỹ năng hợp tác;
­ Kỹ năng từ chối.
2.1.3.3. Nhóm các kỹ năng ra quyết định một cách có hiệu quả
­ Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin;
­ Kỹ năng tư duy phê phán;
­ Kỹ năng tư duy sáng tạo;

­ Kỹ năng ra quyết định;
­ Kỹ năng giải quyết vấn đề.
* Một số lưu ý:
Nội dung giáo dục KNS cho HV Trung tâm GDTX cần tập trung vào 
các kỹ  năng tâm lý xã hội là những kỹ  năng được vận dụng trong những  
tình huống hằng ngày để tương tác với người khác và giải quyết hiệu quả 
những vấn đề, những tình huống trong cuộc sống. Việc hình thành những 
kỹ  năng này không loại bỏ  mà ngược lại phải gắn bó song hành với việc  
hình thành các kỹ năng học tập như: đọc, viết, tính toán,…
2.2. Thực trạng vấn đề giáo dục KNS 
2.2.1. Đối tượng học viên tại Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông
Đối với các Trung tâm GDTX vấn đề giáo dục KNS cho học viên là 
một nhiệm vụ, một yêu cầu cấp thiết. Đối tượng tham gia học tập tại 
Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông bao gồm học viên trong độ  tuổi và học 
viên người lớn, hoàn cảnh gia đình, kinh nghiệm, hiểu biết thực tế, nhu  
cầu học tập khác nhau. Với những học viên này việc giáo dục KNS vừa có  
những thuận lợi vừa gặp những khó khăn nhất định.
Với mục tiêu tạo cơ hội học tập suốt đời cho mọi đối tượng trong xã 
hội, các Trung tâm GDTX đã thu hút rất nhiều đối tượng thuộc các thành 
phần khác nhau trong xã hội có cơ hội học tập để nâng cao dân trí và trình 

8


độ. Vì vậy, đặc điểm tâm lý của học viên trong các Trung tâm GDTX có sự 
khác biệt đáng kể so với học sinh tại các trường Trung học phổ thông.
Phần lớn các học viên tham gia học tập tại Trung tâm là đúng độ 
tuổi. Tuy nhiên, học viên vào học các Trung tâm GDTX không phải qua con  
đường thi tuyển mà chủ  yếu là xét tuyển đối tượng có bằng tốt nghiệp 
Trung học cơ sở  và có nhu cầu học tập tại các Trung tâm GDTX. Có một  

số  học viên không đủ  điều kiện vào học các trường Trung học phổ  thông 
công lập cũng đăng ký học tại Trung tâm GDTX. Nhìn chung, đại đa số các  
học viên vẫn coi học tập là nhiệm vụ  chính nhưng so với học sinh phổ 
thông trình độ nhận thức của họ rất hạn chế.
Bên cạnh đó, đối tượng tuyển sinh của Trung tâm GDTX là học viên 
người lớn (người lao động phổ  thông có độ  tuổi từ  20 trở  lên). Trong học 
tập, học viên người lớn có những đặc điểm riêng, khác so với học viên  
đúng độ tuổi. Một trong những điểm khác biệt căn bản đó là yếu tố tâm lý, 
tác động và liên quan trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả học tập của đối 
tượng này. Việc học tập của học viên người lớn có mục đích rõ ràng: họ 
học cho ngày hôm nay, học để làm gì, nên việc học tập của học viên người  
lớn có tính thực tế  rất cao. Họ  chỉ  có nhu cầu học những nội dung thiết  
thực, những cái có khả năng vận dụng được ngay. Vì vậy họ rất nhạy bén 
khi tiếp cận với những kỹ  năng sống có tác dụng hữu ích với công việc,  
cuộc sống của họ, mục đích học tập của họ là làm tốt hơn công việc đang  
làm, để chuyển đổi công việc,…
Hầu hết các học viên người lớn không có thời gian để  học tập một  
cách bài bản, khả năng học tập của học hạn chế, hổng nhiều kiến thức, tư 
tưởng dễ bị phân tán do phải vừa làm vừa học, vừa phụ giúp gia đình. Tuy  
nhiên, học viên người lớn là người tự lập, có tự trọng cao, có năng lực chịu 
trách nhiệm cao. Họ  cũng đã có kinh nghiệm KNS nhất định. Đây là điểm 
thuận lợi khi dạy học và tích hợp giáo dục KNS cho họ, nhưng cũng là 
9


điểm hạn chế, cản trở quá trình học tập, nhận thức vì học viên người lớn  
thường ứng xử theo thói quen, họ có cảm giác “biết rồi” khi học.
2.2.2. Kỹ  năng sống của học viên Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông
 


Hiện nay, dư luận hết sức quan tâm và lo ngại về các biểu hiện lệch  

lạc, thậm chí vi phạm pháp luật của học sinh Trung học phổ  thông nói 
chung và học viên ở các Trung tâm GDTX nói riêng ngày càng tăng.
­ Đối tượng tôi đề cập trong sáng kiến này chủ yếu tập trung vào đối 
tượng học viên trong độ  tuổi đến trường. Phần lớn học viên  ở  Trung tâm 
GDTX tỉnh Đăk Nông nhiều học viên nam hơn học viên nữ, vì nhiều lí do 
mà các em xin vào học  ở Trung tâm: vì đánh nhau nên bị kỷ luật, học yếu, 
ham chơi nên bị bạn bè rủ rê và cuối cùng là hư hỏng. Có một số học viên  
cá biệt hay gây gổ  đánh nhau và lôi kéo cả  những bạn trong lớp tham gia  
vào nhóm của mình. Giáo viên đang dạy trên bục giảng học viên xích mích  
kéo “anh chị” đến xông vào lớp đánh nhau coi như  không có người. Điển 
hình trong năm học 2016­2017 học viên trong lớp mâu thuẫn, gây gỗ, đánh 
nhau lôi kéo “cả băng” đến Trung tâm để trả thù.
­ Trong Trung tâm học viên vẫn còn tình trạng hút thuốc lá, uống  
rượu, nghiện game, chat... trong khi không phải các em không ý thức được 
sự  nguy hại của những vấn đề  đó. Nhiều khi các em tham gia chỉ  vì đua 
đòi, có khi không đủ  khả  năng để  từ  chối, thử  một lần rồi có những lần 
tiếp theo và cuối cùng là nghiện ngập.
­ Thực tế cho thấy, tình trạng học viên thiếu KNS vẫn xảy ra, biểu  
hiện qua hành vi ứng xử không phù hợp trong xã hội, sự  ứng phó hạn chế 
với các tình huống trong cuộc sống như:  ứng xử  thiếu văn hóa trong giao 
tiếp nơi công cộng, thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ và người lớn tuổi,  
chưa có ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh công cộng, gây phiền hà  
cho người khác khi sử dụng điện thoại di động,…

10


­ Các em học viên trong Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông có nhiều độ 

tuổi khác nhau, có em đúng tuổi, đúng lớp, có em do nghỉ  học nhiều năm  
mới xin đi học lại nên tuổi chênh lệch nhiều. Các em học viên mới lớn 
chưa có nhận thức đúng đắn trong tình yêu, đôi khi lụy tình bỏ  học, yêu 
sớm làm  ảnh hưởng đến quá trình học tập. Thực trạng quan hệ  tình dục  
trong độ tuổi học sinh gia tăng. Một số em học viên phải nghỉ học vì mang 
thai hoặc nạo phá thai làm ảnh hưởng đến quá trình học tập của bản thân.
Với những đặc điểm trên, học viên tại Trung tâm GDTX tỉnh Đăk 
Nông  rất cần được trang bị những KNS cần thiết, phù hợp để học tập tốt 
hơn và đặc biệt quan trọng là họ  thích ứng với những thay đổi của xã hội 
và giải quyết tốt hơn những vấn đề đặt ra trong cuộc sống.
2.3. Các biện pháp tiến hành giáo dục KNS
2.3.1. Lồng ghép giáo dục KNS qua từng phân môn 
2.3.1.1. Phân môn Giảng văn
 

Lồng ghép KNS qua các tác phẩm văn học tạo hứng thú cho các em 

trong việc tiếp thu kiến thức. Các em phát huy được vai trò của mình trong  
từng tiết học. Một buổi sáng bước vào lớp với cỡ  15 học viên với những 
gương mặt ngơ  ngác, ngáp ngủ, nằm vật vờ  ra bàn, GV giảng bài độc 
thoại một mình. Đó là điều tôi đã trải qua với nhiều tiết học. Thiết nghĩ, 
nếu cứ  để  tình trạng này kéo dài môn Ngữ  văn đặc biệt là giờ  giảng văn 
trở  nên ngán ngẫm, nhàm chán là phương tiện “ru ngủ” cho học viên. GV 
chỉ  là cái máy phát âm thanh không hơn không kém, GV đặt câu hỏi và tự 
trả lời đáp án.
Việc lồng ghép KNS qua các chi tiết, hình  ảnh, nội dung bài giảng 
văn Mỗi chi tiết trong tác phẩm tự sự, mỗi hình ảnh trong tác phẩm trữ tình  
và nội dung nói chung của các tác phẩm văn học đều mang trên mình nó 
những giá trị  thẩm mĩ và tư  tưởng mà tác giả  muốn gửi gắm đến người 
đọc một thông điệp nào đó.

11


Ví dụ: Bài “Bài ca ngất ngưởng”  của Nguyễn Công Trứ. Bài thơ  là 
bức chân dung tự họa của Nguyễn Công Trứ về một cá tính mạnh mẽ, một 
con người xuất chúng dám sống là mình, vượt lên thói tục thông thường để 
khẳng định bản ngã vừa là một tuyên ngôn cho lí tưởng sống phóng khoáng 
đối lập với xã hội phong kiến bảo thủ, lạc hậu đương thời. Nguyễn Công  
Trứ  đã khiến chúng ta phải suy nghĩ về bài học “ hãy tin vào chính mình”. 
Nếu   nghĩ   ta   làm   được   thì   sẽ   làm   được.   Đừng   chấp   nhận   làm   kẻ   tầm  
thường, kẻ thất bại mà luôn luôn đòi hỏi sự vượt trội của bản thân. Có như 
vậy các em mới thành công trong cuộc sống. 
2.3.1.2. Phân môn Tiếng việt 
Qua việc giảng dạy phân môn Tiếng việt theo tôi tùy vào mỗi tiết 
học GV có thể lồng ghép một số kỹ năng cho phù hợp để tiết dạy đạt hiệu  
quả  cao. Các kỹ  năng thường vận dụng các kỹ  năng như:   kỹ  năng giao 
tiếp, kỹ năng tư duy, kỹ năng làm việc nhóm ...trong đó lồng ghép hiệu quả 
nhất là kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm. 
 

Ví dụ: Bài “Từ  ngôn ngữ  chung đến lời nói cá nhân” giúp các em  

thấy được mối quan hệ  giữa ngôn ngữ  chung của xã hội và lời nói riêng  
của cá nhân. Hình thành nâng cao năng lực lĩnh hội những nét riêng trong lời  
nói cá nhân, năng lực sáng tạo của cá nhân trong việc sử  dụng ngôn ngữ 
trên cơ sở những từ ngữ và quy tắc chung. Từ đó giúp các em có ý thức tôn 
trọng những quy tắc ngôn ngữ  chung của xã hội, giữ  gìn phát huy bản sắc  
ngôn ngữ của dân tộc. 
2.3.1.3. Phân môn Làm văn
 


Trong phân môn Làm văn theo tôi vẫn có thể lồng ghép kĩ năng sống  

qua việc ra đề  kiểm tra và lời nhận xét của GV. Thông qua các dạng đề 
kiểm tra các em được rèn luyện kỹ  năng viết, cảm nhận, bộc lộ  suy nghĩ  
của mình về vấn đề nào đó trong cuộc sống. Thông qua tiết trả bài các em 
nhận ra những điều mình đã làm được và chưa làm được, từ đó các em hiểu 
12


được vấn đề và những suy nghĩ chín chắn hơn sẽ dần hình thành trong tâm  
hồn các em.
Ví dụ: Khi viết bài về vấn đề trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh 
vô cảm” trong xã hội hiện nay. Hầu hết các em đã hiểu được thế  nào là  
bệnh vô cảm, biểu hiện và tác hại của căn bệnh này.Thế nhưng, có một số 
em chưa hiểu ra vấn đề lại cho rằng mình phải tránh xa những người mắc 
bệnh vô cảm. Với các bài làm như  thế  GV cần định hướng cho HV trong  
tiết trả  bài để  các em hiểu rõ hơn tác hại của căn bệnh này. Đây không  
phải là căn bệnh lây lan mà phải tránh xa, không ai hết chính các em cần  
phải là người sống có trách nhiệm. Tình thương là cái quý giá của con  
người, bệnh vô cảm đã làm mất phẩm chất  ấy. Vì vậy trái tim mỗi con  
người cần được thắp sáng ước mơ, khát vọng, ý chí và sự sáng tạo gắn bó  
với cộng đồng. Điều đó sẽ chống được bệnh vô cảm và làm cho cuộc đời 
của con người có ý nghĩa.
2.3.2. Các giải pháp thực hiện lồng ghép KNS trong giờ dạy
Trong quá trình dạy học tích hợp giáo dục KNS theo tôi mỗi GV cần 
có một phương pháp, kỹ  thuật dạy học tích cực phù hợp với từng bài học  
kết hợp với việc sử  dụng các phương tiện dạy học: sách giáo khoa, máy 
chiếu, bảng phụ,…
Căn cứ vào tình hình thực tế của lớp dạy về đối tượng, số lượng HV 

trong mỗi giờ học tôi đã cố gắng lồng ghép KNS từ những điều nhỏ nhất, 
sử  dụng các phương pháp dạy học phù hợp để  tạo hứng thú học tập cho 
HV, để các em tự đặt mình vào vấn đề các nhân vật gặp phải, tự mình tìm 
ra hướng giải quyết, tự  mình nói ra những suy nghĩ mà có khi trước đây 
một số em chưa bao giờ làm điều đó. Từ  đó, tôi thấy tiết học sôi nổi, các 
em hứng thú khi lĩnh hội kiến thức mới. Đây là một số  phương pháp dạy 
học tích cực tôi đã áp dụng trong các giờ dạy tại Trung tâm GDTX tỉnh Đăk 
Nông và thu được kết quả  tốt. Tuy nhiên, tùy theo từng phân môn bài học 
13


mà GV áp dụng cho phù hợp. Một giờ  học sôi nổi các em HV nắm được  
kiến thức trọng tâm, rèn luyện được các KNS cần thiết cho mỗi cá nhân 
HV đó là điều tôi đã và đang cố  gắng phát huy trong quá trình giảng dạy.  
Để khi bước vào đời các em có đầy đủ  các hành trang về  tri thức, trang bị 
đầy đủ  những KNS cần thiết để  đứng vững, không sa ngã trước những va 
vấp trong cuộc sống.
Giải pháp thứ nhất: Đưa ra những tình huống thực tế
Với đối tượng là học viên Trung tâm GDTX  giờ học Ngữ văn đôi khi 
còn tạo áp lực cho các em. Nếu như mỗi giờ lên lớp giáo viên chỉ là người  
truyền thụ  còn học viên chỉ  “lĩnh hội” theo kiểu nghe đọc và chép, nhìn  
bảng cô ghi và học trò chép thì mỗi giờ đọc văn sẽ nhàm chán và vô vị. Có  
khi học xong một bài thơ, tác phẩm văn học một số em không nhớ  nổi tên  
tác giả, tên nhân vật chính. Vì các em đó có bao giờ dám mạnh dạn bày tỏ 
suy nghĩ của mình, điều đó dẫn đến cách trình bày vấn đề  mà không biết 
bắt đầu từ  đâu, hoặc hiểu mà không biết diễn đạt những suy nghĩ của 
mình. Vì vậy theo tôi tùy theo mỗi bài học, giáo viên cần tạo ra những tình 
huống có vấn đề, mang tính chất  ứng dụng vào thực tế  đời sống, rồi tổ 
chức cho học viên tự giải quyết. Ban đầu mang tính chất cá nhân đưa ra ý 
kiến sau đó giáo viên hướng đến cách giải quyết tối ưu nhất.

Ví dụ: Khi dạy bài “Thông điệp nhân ngày thế  giới phòng chống 
HIV/ AIDS” của Cô­phi­a­nan, giáo viên đặt ra tình huống: Nếu em có một 
người bạn thân bị  nhiễm HIV/ AIDS, em sẽ  hành động như  thế  nào? Vì  
sao? 
Sau khi đưa ra tình huống, tổ chức cho HV tự giải quyết vấn đề trên 
một tờ phiếu học tập hoặc chỉ định bất kì HV nào. Sau khi các em trả  lời  
GV sẽ  là người tổng hợp ý kiến và   để  thống nhất cách giải quyết tốt  
nhất.
Qua bài học trên giúp các em hình thành các KNS:
14


+ Tự  nhận thức: Nhận thức được đây là một căn bệnh thế  kỷ  có tính 
chất nóng bỏng của toàn cầu. Từ đó, xác định được trách nhiệm của mỗi cá  
nhân khi tham gia vào cuộc chiến đấu này, có những hành động thiết thực 
góp phần ngăn chặn sự lây lan của căn bệnh thế kỷ. 
+ Giao tiếp/ trình bày ý tưởng: Thảo luận, trao đổi với bạn bè, thầy 
cô,...về  hiện trạng cuộc chiến đấu phòng chống AIDS hiện nay, tác hại, 
nguy cơ lây lan của căn bệnh thế kỷ và những giải pháp để  góp phần vào  
cuộc chiến này. 
     + Ra quyết định: Xác định những việc cá nhân và xã hội cần làm để góp 
phần vào cuộc chiến đấu chống lại căn bệnh thế kỉ.
Ở  phân môn Tiếng việt   tùy theo từng bài học mà giáo viên có thể 
đưa ra những tình huống khác nhau để  làm sao chuyển tải được nội dung  
bài học, qua đó các em thấy hứng thú và rút ra cho mình được kỹ năng sống 
nhỏ nhất khi tham gia bài học. 
Ví dụ: Khi dạy bài “Đặc điểm loại hình tiếng Việt” rèn luyện cho 
HV các kỹ năng:
­ Tư duy sáng tạo: Phân tích đối chiếu đặc điểm loại hình tiếng Việt 
với các ngôn ngữ khác, từ đó biết cách sử dụng tiếng Việt phù hợp với ngữ 

pháp và ngữ nghĩa.
­ Tự  nhận thức về  việc trau dồi vốn hiểu biết tiếng Việt của bản  
thân để sử dụng tiếng Việt tốt hơn trong giao tiếp.
Giáo viên cho HV   tìm ví dụ  một câu tiếng Việt tương đương với 
câu tiếng Anh
­ Tiếng Anh: I saw her, three days ago.
­ Tiếng Việt: Tôi thấy cô ấy cách đây ba ngày.
Giáo viên hướng dẫn HV phâm tích ví dụ:
­ Đặc điểm loại hình ngôn ngữ  hòa kết của tiếng Anh trong ví dụ 
trên thể hiện ở:
15


  
  + Ranh giới các âm tiết không rõ ràng: các từ three, ago dù có dạng 
hai âm tiết nhưng chúng được phát âm nối liền nhau.
  
  + Từ có sự biến đổi về hình thức: từ saw (thấy, nhìn thấy) có hình 
thức tồn tại ở thì quá khứ. Thì hiện tại của từ này viết là  see. Cũng tương 
tự như vậy là từ her (cô ấy). Trong câu này "cô ấy" không phải là chủ ngữ 
(she) mà đóng vai trò là tân ngữ, thế nên dạng thức tồn tại của nó là tính từ 
sở hữu (her).
     + Trật tự không được sắp xếp theo thứ tự trước sau. Trạng ngữ của  
câu đặt ở cuối câu. Đồng thời trong trạng ngữ thì trật từ thuận cũng bị đảo 
lộn: từ cách đây (ago) lại đặt sau phần chỉ thời gian (three days).
­ Ngược lại với những đặc điểm trên của tiếng Anh là những đặc  
điểm của loại hình ngôn ngữ đơn lập trong câu dịch tiếng Việt:
   
 + Ranh giới các âm tiết rõ ràng (mỗi từ được phát âm tách biệt, tách  
rời.

   

 + Từ không có biến đổi về hình thức.

   

 + Trật tự từ được sắp xếp theo đúng thứ tự trước sau.
Ở  những tiết học Làm văn ngoài những viết thực hành viết bài tại 

lớp và ở nhà, những tiết về phân tích đề, lập dàn ý, các thao tác lập luận,…
cung cấp cho các em những thao tác chính trong quá trình viết bài, ngoài ra 
còn cung cấp cho các em HV những kỹ  năng sống cần thiết không những  
trong học tập mà còn trong cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ: Khi học bài “Tiểu sử tóm tắt” chắc hẳn khi chưa tìm hiểu các  
em chưa hiểu thế nào là tiểu sử tóm tắt để dẫn nhập vào bài mới giáo viên 
yêu cầu học sinh hãy nêu giới thiệu về bản thân em?. Chắc chắn các em chỉ 
nêu được họ  và tên, ngày tháng năm sinh, dân tộc, học lớp nào, nhà ở  đâu, 
gia đình có mấy anh chị em, nghề nghiệp bố mẹ,…
Qua cách giới thiệu của HV giáo viên nhận xét và nhấn mạnh đó mới 
là một phần của bản tiểu sử tóm tắt, khi viết tiểu sử tóm tắt cần viết ngắn  
gọn những ý chính những ý quan trong của cuộc đời người được viết tiểu 
sử  tóm tắt. Thông qua tình huống trải nghiệm “tự  trình bày” bản thân em 
16


HV đó và các HV trong lớp sau khi học xong bài thì đã hiểu được các bước  
khi viết tiểu sử tóm tắt gồm bốn phần: Giới thiệu nhân thân, hoạt động xã 
hội, đóng góp thành tựu mà lĩnh vực người đó hoạt động và đánh giá chung. 
Qua bài học này các em đã biết cách viết tiểu sử tóm tắt đây là văn bản rất 
quan trong khi các em giới thiệu ban cán sự  lớp, bí thư  đoàn, sau này xin 

viêc làm,…
Ở  bài học này cung cấp cho học viên những kỹ  năng sống cơ  bản 
như:
­ Suy nghĩ sáng tạo: tìm kiếm và xử  lý thông tin phù hợp để  tạo lập 
văn bản tóm tắt tiểu sử của một nhân vật.
­ Đảm nhận trách nhiệm, kiểm soát cảm xúc để  trình bày những 
thông tin khách quan, trung thực về tiểu sử của người được tóm tắt.
 Việc đưa ra những tình huống thực tế  thường tạo cho các em tâm 
thế “nhập cuộc”, hào hứng, cảm thấy mình là người trong cuộc, cần phải  
thể  hiện suy nghĩ và hành động cụ  thể. Qua những tình huống đó, các em 
HV dần dần hình thành các KNS theo từng tình huống cụ  thể, các em biết 
cách giải quyết vấn đề và điều chỉnh hành vi của mình theo hướng hợp lí.
Giải pháp thứ hai: Lĩnh hội kiến thức qua hoạt động đối thoại 
Để   tránh   hiện   tượng   “độc   thoại”   trên   bục   giảng   GV   cần   tạo   ra 
không khí học tập thông qua việc đối thoại, vấn đáp đa dạng giữa GV­HV. 
Trong quá trình dạy học văn, giáo viên nên cố  gắng để  tạo ra những hoạt 
động đối thoại đa dạng. Để có những cuộc đối thoại đạt hiệu quả, cần xác  
định những vấn đề  trọng tâm, mở  ra nhiều cách giải thích khác nhau, kích 
thích khả  năng tư  duy sáng tạo, thúc đẩy HV bộc lộ  quan điểm và đối 
thoại.
Học xong bài  “Chí Phèo”   GV hỏi: Cuối tác phẩm Chí Phèo đâm 
chết Bá Kiến để  trả  thù. Vậy trong xã hội bây giờ, nếu ai có thù oán với  
em, em có hành động như Chí Phèo không? Vì sao?
17


GV cho các em HV phản biện lại ý kiến của mình. Có ý kiến nói 
“không”, với tính cách của HV Trung tâm có ý kiến nói “có” và đưa ra cách 
lý giải riêng của từng em. Vì vậy cần GV định hướng phân tích bản chất 
của sự việc, chỉ ra chỗ nào đúng, chỗ nào sai. Từ đó giúp học viên rút ra bài  

học về sự xử lí khi có mâu thuẫn.
Ở  phân môn Tiếng việt: Ví dụ  trong bài “Thực hành về  thành ngữ, 
điển cố” những kiến thức về lý thuyết các em đã được học ở chương trình  
Ngữ văn cấp Trung học cơ sở, nếu như GV hỏi: Em hãy cho biết thành ngữ 
là gì? Điển cố  là gì?. Nếu như đối tượng là học sinh phổ  thông những em  
học khá sẽ  lấy được ví dụ  và hiểu được nội dung dù không đầy đủ. Đối  
tượng là HV Trung tâm thì hầu hết các em đều lắc đầu, ngồi khép nép sợ 
cô gọi đến mình. Tôi đã tiến hành giảng dạy bài học bằng power poin và 
tiết học rất thành công, các em hào hứng tìm thành ngữ, giải thích các điển  
cố thông qua các hình ảnh chiếu trên màn hình dạng “đuổi hình bắt chữ”.

18


Các em sôi nổi bàn luận và tìm ra thành ngữ đúng là: “Trứng khôn 
hơn vịt”

Thành ngữ “Cưỡi ngựa xem hoa”

Thành ngữ “Nước đổ đầu vịt”
19


Từ những ví dụ các em tìm được, giáo viên chốt câu đúng và cho các 
em nhớ lại kiến thức cũ về khái niệm thành ngữ. Thông qua đó các em thấy 
được hiệu quả khác biệt của việc vận dụng các thành ngữ trong câu so với  
việc dùng từ ngữ thông thường.
Tương tự như các bước tiến hành về thành ngữ về phần điển cố các  
em cũng đã tìm ra các điển cố căn cứ vào các hình ảnh dưới sự hướng dẫn  
của giáo viên các em đã hiểu bài và nắm bài tốt hơn ngay tại lớp.


Điển cố “Gót chân A­sin

20


Điển cố “Đẽo cày giữa đường”
Giải pháp thứ ba: Tích cực sử dụng phương pháp dạy học nhóm
Như  tôi đã nêu  ở  những giải pháp trên không phải bài học nào cũng  
áp dụng phương pháp dạy học theo nhóm. Sử dụng một phương pháp dạy 
học không có nghĩa là đề  cao và coi đó là phương pháp độc tôn, bởi lẽ 
không có phương pháp nào là vạn năng.
Tùy vào đối tượng và nội dung kiến thức của bài học mà chúng ta  
lựa chọn phương pháp dạy học cho phù hợp. Tôi thấy rằng khi đưa dạy 
học tích hợp KNS vào trong các giờ  dạy Ngữ  văn, các em đã có những  
chuyển biến tích cực trong suy nghĩ và hành động, trong giờ học các em HV 
đã giơ tay phát biểu, bàn luận và tự các em rút ra được những kĩ năng sống  
cho riêng mình qua bài giảng của giáo viên.  Thông qua hoạt động nhóm 
giúp các em hình thành các phẩm chất nhân cách và các kỹ năng xã hội tốt  
hơn.

21


(Một giờ học thảo luận nhóm tại lớp 11A Trung tâm GDTX tỉnh Đăk Nông)
Để tiến hành thảo luận nhóm: 
­ Giáo viên tổ  chức phân nhóm, cho HV tự  bầu trưởng nhóm, GV  
thông báo quy trình và thời gian thảo luận. 
­ Giao nhiệm vụ cho từng nhóm; giáo viên chỉ làm nhiệm vụ quan sát,  
theo dõi mà không tham gia ý kiến.

­ Khi HV trình bày, GV phải nghe cẩn thận những điều HV đó nói để 
hiểu các em định nói gì hoặc ghi chép nhanh lại những điểm cơ  bản của 
mỗi ý kiến để chuẩn xác kiến thức.
­ Sau khi thảo luận: Giáo viên phải tổng kết những ý kiến phát biểu 
thống nhất và chưa thống nhất để  mình tham gia vào những ý kiến chưa 
thống nhất và bổ  sung thêm những ý cần thiết; đánh giá các ý kiến phát 
biểu, nhận xét tinh thần, thái độ  làm việc của HV để  thưởng điểm hoặc  
trừ điểm cho cá nhân của nhóm.
Ưu điểm của phương pháp thảo luận nhóm là giúp các em có ý thức 
học tập, phát huy vai trò của cá nhân trong nhóm, huy động kiến thức tập 
22


thể,…Thế  nhưng, để  giờ  học đạt hiệu quả  cao thì GV cần phối hợp linh 
hoạt với các phương pháp  dạy học khác nhau.
2.3.3. Các bước thực hiện một bài giáo dục KNS trong môn Ngữ văn

Các bước

1. Khám phá

2. Kết nối

Mục đích
­ Kích thích học viên 
tự  tìm hiểu xem các 
em   đã   biết   gì   về 
những khái niệm, kỹ 
năng,   kiến   thức...sẽ 
được học.

­   Giúp   GV   đánh   giá 
thực   trạng   (Kiến 
thức, kỹ  năng...) của 
học   sinh   trước   khi 
giới   thiệu   vấn   đề 
mới.
­   Giới   thiệu   thông 
tin, kiến thức và kỹ 
năng   mới   thông   qua 
việc tạo cầu nối liên 
kết   giữa   cái   “Đã 
biết”   và   “Chưa 
biết”.   Cầu   nối   này 
sẽ   kết   nối   kinh 
nghiệm hiện có của 
học sinh  với bài học 
mới

Vai trò của GV và 
Mô tả quá trình 
học viên/gợi ý 
thực hiện
một số kỹ thuật 
dạy học
­   GV   đặt   câu   hỏi  ­   GV   lập   kế 
nhằm   gợi   lại  hoạch, nêu vấn đề.
những hiểu biết đã 
có   liên   quan   đến 
bài học mới. 
­ GV giúp học viên 

phân   tích   các   hiểu 
biết   hoặc   trải 
nghiệm.

­ Học viên trao đổi 
chia   sẻ,   sử   dụng. 
Một   số   kỹ   thuật 
dạy   học:   Động 
não,   thảo   luận, 
chơi trò chơi,…
­   GV  là   người 
hướng dẫn 
 ­ Học viên: Người 
phản hồi trình bày 
quan điểm.
­  Kỹ   thuật   dạy 
học:   chia   nhóm, 
thảo   luận,   trình 
bày,   khách   mời, 
đóng   vai,   sử   dụng 
phương   tiện   dạy 
học   đa   chức 
năng…

­   GV   giới   thiệu 
mục tiêu bài học và 
kết   nối   chúng   với 
các vấn đề  đã chia 
sẻ ở phần trước.
­   Đọc   văn:   GV 

hướng   dẫn   học 
viên   đọc   hiểu   văn 
bản:   Tìm   hiểu 
chung   về   tác   giả 
tác phẩm, nhan  đề 
thể   loại,   bố   cục 
của   văn   bản...Tìm 
hiểu chi tiết những 
nét đặc sắc về  nội 
dung của văn bản. 
­ Tiếng Việt và tập 
làm   văn:   Hướng 
dẫn   học   sinh   tìm 
hiểu   nội   dung   bài 
học. 
Tạo   cơ   hội   cho  ­ GV chuẩn bị hoạt  ­   GV:   Người 
23


người học thực hành 
vận dụng kiến thức 
và kỹ  năng mới vào 
một hoàn cảnh có ý 
nghĩa.   Định   hướng 
để  học   sinh  thực 
hành   đúng   cách. 
Điều   chỉnh   những 
3.Thực hành­  hiểu biết và kỹ  năng 
còn sai lệch.
luyện tập


động   yêu   cầu  học 
sinh  sử   dụng   kiến 
thức   và   kỹ   năng 
mới.
­ Học viên làm việc 
theo   nhóm,   cặp 
hoặc   cá   nhân   để 
hoàn   thành   nhiệm 
vụ. 
  ­ GV  giám sát tất 
cả   mọi   hoạt   động 
và   điều   chỉnh   khi 
cần   thiết,   GV 
khuyến   khích  học 
sinh  thể   hiện 
những điều các em 
suy nghĩ hoặc mới 
lĩnh hội được.

hướng dẫn, người 
hỗ trợ.
­ Học viên : Người 
thực   hiện,   người 
khám phá.
­   Kỹ   thuật   dạy 
học:   Viết   đoạn 
văn, mô phỏng hỏi 
đáp, trò chơi, thảo 
luận…


2.3.4. Giáo án minh họa (Phụ lục 1)
2.4. Kết quả đạt được
Sau khi tiến hành khảo sát lớp 11A cuối học kỳ I năm học 2015­2016 
và cuối học kỳ  I năm học 2016­2017 kết quả  so sánh cho thấy sự  hình  
thành và vận dụng KNS, khả năng làm việc theo nhóm của học viên có sự 
chênh lệch rõ rệt.
­ Từ khi thực hiện chuyên đề vào giảng dạy ở Trung tâm GDTX tỉnh 
Đăk Nông, tuy thời gian không nhiều nhưng chuyên đề  rất có ích với học 
viên. Học viên nhận thức được sự cần thiết của các KNS giúp cho bản thân 
sống tự tin, lành mạnh, phòng tránh được các nguy cơ gây ảnh hưởng xấu 
đến sự phát triển thể chất, tinh thần của bản thân và người khác. Trong các 
giờ  học có những chuyển biến rất tích cực, các em năng động hơn trong 
các giờ học, trong các tiết học thường tập trung hơn, có ý thức học tập, ý  
thức làm việc theo nhóm tốt hơn, phát huy vai trò của mỗi cá nhân trong khi 
được giao nhiệm vụ. Tích cực nêu quan điểm, bàn luận, biết đánh giá và tự 
đánh giá bản thân, phát triển óc sáng tạo, nhanh nhạy hơn trong xử  lý các  
24


tình huống có vấn đề. Đây là cơ sở thuận lợi giúp giáo viên phát hiện được 
đầy đủ hơn năng lực, tính cách của từng cá nhân học viên để  kịp thời uốn 
nắn, sửa chữa, tạo môi trường học tập thân thiện, tích cực.
 

­  Trong mỗi tiết học các em hào hứng hơn khi tìm hiểu kiến thức 

mới và thông qua việc tích hợp giảng dạy KNS trong môn Ngữ văn mỗi giờ 
học Văn không còn nhàm chán theo kiểu “cô đọc trò chép” học viên thụ 
động chiếm lĩnh kiến thức mới.  Học viên chủ động tìm tòi kiến thức trong 

không khí sôi nổi, khắc sâu hơn bài học và tăng dần khả năng cảm nhận tác 
phẩm văn học. Học viên quen dần với phương pháp học tập nhóm, biết  
phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Các kỹ năng trên 
được vận dụng thuần thục, học viên hứng thú hơn trong giờ học Ngữ văn,  
phát huy vai trò của học viên trong từng tiết học. (Bảng khảo sát phụ lục 2)

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận 
Ngữ  văn là môn học có khả  năng đặc biệt trong giáo dục KNS cho 
người học, việc tích hợp giáo dục  KNS  vào trong quá trình dạy học nói 
chung và dạy môn Ngữ  văn nói riêng là một phương pháp có thể  đem lại 
25


×