LÝ THUYẾT CHUNG VỀ BHXH VÀ CÔNG TÁC THU BHXH
1. Lý thuyết chung về BHXH
1.1. Khái niệm về BHXH.
Ngay từ khi mới xuất hiện, để tồn tại và phát triển, trước hết con người phải
ăn, phải mặc, ở và đi lại v.v… Và để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu này,
người ta phải lao động để tạo ra những sản phẩm cần thiết. Khi lượng sản phẩm
được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn
thiện hơn, xã hội ngày càng văn minh hơn. Do đó, việc thỏa mãn những nhu cầu
sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động
của họ. Tuy nhiên trên thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận
lợi có đầy đủ thu nhập và các điều kiện sống bình thường, Ngược lại, có rất
nhiều trường hợp khó khăn, bất lợi, ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị
giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện phát sinh khác. Chẳng hạn như, bị
ốm đau bất ngờ hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả
năng lao động và khả năng tự phục vụ suy giảm… Khi rơi vào những trường
hợp như vậy, các nhu cầu cần thiết không vì thế mà mất đi, trái lại còn có cái
tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: Cần được khám
chữa bệnh và điều trị khi ốm đau, tai nạn, thương tật cần có người chăm sóc
nuôi dưỡng … Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội
loài người phải tìm ra và trên thực tế đã tìm ra rất nhiều cách giải quyết khác
nhau như: Sẻ chia, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin
hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước hay của các tổ chức khác… Rõ ràng
những cách đó là hoàn toàn thụ động, không chắc chắn và có nhiều rủi ro, bất
ngờ.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ
biến thì mối quan hệ giữa người làm thuê và giới chủ cũng trở nên phức tạp và
rắc rối. Lúc đầu, người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng sau đó đã phải
cam kết cả việc bảo đảm cho người lao động có số thu nhập nhất định để họ
trang trải cho những nhu cầu thiết yếu nhất khi không may bị ốm đau, tai nạn…
Trên thực tế, nhiều lúc các trường hợp trên không xảy ra và tất nhiên người chủ
không phải chi trả một đồng nào. Nhưng cũng có những trường hợp xảy ra dồn
dập, buộc họ phải trả ra một khoản tiền lớn hơn mà họ thực sự không muốn. Vì
thế, mâu thuẫn chủ – thợ xuất hiện, giới thợ thì liên kết với nhau đấu tranh buộc
giới chủ thực hiện các cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày một lớn hơn và
có tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Bởi vậy, Nhà nước đã
phải đứng ra can thiệp và điều hòa mâu thuẫn đó bằng cách buộc cả giới chủ và
giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng đã được tính toán
chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra với người làm thuê. Số tiền đóng
góp đó đã hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi toàn quốc gia,
quỹ này còn được bổ sung từ Ngân sách Nhà nước khi cần thiết khi gặp những
biến cố bất lợi.
Toàn bộ những hoạt động cộng với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy,
“BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người
lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động,
mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm
đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn
xã hội”.
1
1.2. Bản chất của BHXH.
Bản chất của BHXH được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau:
- Một là, BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà các hoạt động sản xuất hàng hóa diễn ra theo cơ chế thị trường,
các mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nhất định nào
đó. Kinh tế ngày càng phát triển thì BHXH ngày càng đa dạng và hoàn thiện. Vì
1 Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005,
trang 33.
thế, có thể nói rằng kinh tế chính là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt
quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Hai là, mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở nền tảng là
quan hệ lao động giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH. Bên tham gia BHXH có thể là người lao động hoặc có cả người lao
động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH)
thông thường là các cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và được Nhà
nước bảo trợ. Bên được BHXH chính là những người lao động và gia đình của
họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Ba là, những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là các rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người
như: Ốm đau, tai nạn lao động… hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra
không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản… Đồng thời những biến cố
đó có thể xảy ra cả trong quá trình và ngoài quá trình lao động.
- Bốn là, phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải các
biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung
được tích tụ lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng là chủ yếu,
ngoài ra còn nhận được sự hỗ trợ một phần từ Nhà nước.
- Năm là, mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của
người lao động trong trường hợp họ bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.
Những mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để họ đảm bảo
các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống lại các loại bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống để đáp ứng các nhu cầu của dân cư, các nhu cầu
đặc biệt của người già, của người tàn tật và trẻ em.
1.3. Đối tượng của BHXH.
Mặc dù BHXH đã ra đời từ rất lâu (từ những giữa năm của thế kỷ 19), nhưng
đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về đối tượng của BHXH, vẫn tồn tại nhiều
quan điểm, đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH và đối tượng
tham gia BHXH .
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do
người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc vì những nguyên
nhân như đau ốm, tai nạn, già yếu… Vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu
nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc bị mất đi do bị giảm hoặc mất
khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH chính là người lao động và người sử dụng lao
động. Tuy vậy, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của từng nước khác
nhau mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc là một bộ phận những người lao
động nào đó.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động
còn có người sử dụng lao động và các cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà
nước. Trách nhiệm của người sử dụng lao động là đóng góp vào quỹ BHXH để
bảo hiểm cho những người lao động mà họ sử dụng. Còn các cơ quan BHXH,
nhận sự đóng góp từ phía người lao động và người sử dụng lao động phải có
trách nhiệm trong việc quản lý và sử dụng quỹ tiền tệ để thực hiện các công việc
về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này cũng chính là đặc
trưng của riêng BHXH. BHXH có tồn tại và phát triển một cách và bền vững
hay không chính là nhờ vào mối quan hệ này.
1.4. Chức năng của BHXH.
Như trong giáo trình BHXH thì BHXH có bốn chức năng chủ yếu sau:
- “Thứ nhất, thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham
gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm”
2
. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra, vì
suy cho cùng, người lao động khi đến độ tuổi hết tuổi lao động theo quy định
của BHXH, họ sẽ mất khả năng lao động. Trong trường hợp mất việc làm hoặc
2 Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005,
trang 37.
mất khả năng lao động tạm thời dẫn đến làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao
động cũng sẽ nhận được trợ cấp từ BHXH, mức trợ cấp phụ thuộc vào các điều
kiện cần thiết, thời điểm , thời hạn được hưởng phải đúng theo quy định của
pháp luật. Đây chính là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó sẽ quyết định
nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế hoạt động của BHXH.
- “Thứ hai, tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người lao
động tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có những người lao động mà
còn có những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào
quỹ BHXH”
3
. Quỹ này được dùng để trợ cấp cho người lao động tham gia khi
họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng người bị giảm hoặc mất thu nhập chiếm
một số lượng nhỏ, còn số lượng người đóng góp vào quỹ BHXH lại lớn, do đó,
theo quy luật số đông bù số ít, BHXH đã thực hiện được việc phân phối lại thu
nhập giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp, giữa
những người khỏe mạnh, đang làm việc có thu nhập và những người ốm yếu,
phải nghỉ việc bị mất hoặc giảm thu nhập… Thực hiện chức năng này cũng có
nghĩa là BHXH đã góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- “Thứ ba, BHXH góp phần kích thích người lao động hăng hái làm việc nâng
cao năng suất lao động cá nhân và nâng cao năng suất lao động xã hội”
4
. Khi
khỏe mạnh, người lao động tham gia lao động và được người chủ trả công để
trang trải cuộc sống nhưng khi ốm yếu, thai sản hay khi tuổi già người lao động
không thể làm việc được thì họ đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị
mất. Vì vậy, cuộc sống của họ cũng như của gia đình họ vẫn được đảm bảo ổn
định. Vì thế, người lao động có thể yên tâm lao động, làm việc gắn bó với nơi
làm việc và với công việc, từ đó họ có thể tích cực lao động nâng cao năng suất
lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này đóng vai trò như một đòn bẩy kinh
3 Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005,
trang 38.
4 Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005,
trang 38.
tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và nâng cao
năng suất lao động xã hội.
- “Thứ tư, gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa
người lao động với xã hội”
5
. Từ trước đến nay, trong thực tế lao động sản xuất,
giữa người lao động và người sử dụng lao động có tồn tại những mâu thuẫn nội
tại, khách quan về tiền lương, về thời gian lao động … nhưng khi BHXH xuất
hiện nó đã giải quyết và điều hòa được những mâu thuẫn đó. Người lao động
cảm thấy mình được bảo vệ, những rủi ro được giàn trải, cuộc sống gia đình
được ổn định. Còn người sử dụng lao động thì thấy mình có lợi vì các hoạt động
sản xuất diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Từ đó,
BHXH đã làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau.
1.5. Tính chất của BHXH .
BHXH và đời sống của người lao động luôn đi liền với nhau, do đó, nó có
một số tính chất cơ bản như sau:
- “Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.
- BHXH có tính ngẫu nhiên phát sinh, không đồng đều theo thời gian và không
gian.
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ.”
6
Sau đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể hơn về các tính chất trên của BHXH :
Đầu tiên, là tính tất yếu khách quan của BHXH. Như chúng ta đã biết, trong
quá trình lao động, người lao động có thể gặp phải những biến cố rủi ro, từ đó,
người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém. Sản xuất
ngày càng phát triển thì nguy cơ gặp phải rủi ro đối với người lao động và gặp
phải tình cảnh khó khăn đối với người sử dụng lao động ngày càng nhiều và
phức tạp hơn. Do đó, mối quan hệ giữa chủ – thợ ngày càng căng thẳng. Trong
5 Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005,
trang 39.
6
6
Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005,
trang 40
trường hợp này, để giải quyết được vấn đề, Nhà nước phải đứng ra can thiệp
thông qua BHXH. Và do đó BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan.
Tiếp theo, là tính ngẫu nhiên phát sinh không đồng đều của BHXH. Tính
chất này được thể hiện rất rõ trong những nội dung cơ bản của BHXH. Từ
những thời điểm hình thành và triển khai mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH, từ những rủi ro phát sinh một cách ngẫu nhiên theo thời gian và không
gian đến mức trợ cấp BHXH theo chế độ cho từng người…
Cuối cùng là tính kinh tế, tính xã hội, tính dịch vụ của BHXH. Tính kinh tế
thể hiện rõ nhất ở chỗ, quỹ BHXH muốn hình thành, tồn tại và phát triển thì
phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý, sử dụng đúng
mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán chặt chẽ, cụ thể dựa
trên xác suất phát sinh thiệt hại của những người lao động tham gia BHXH.
Thực chất, phần đóng góp của người lao động vào quỹ BHXH là rất nhỏ nhưng
phần họ được nhận khi gặp rủi ro là rất lớn. Còn với người sử dụng lao động,
việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm cho người lao động mà
họ sử dụng, nhưng xet dưới góc độ kinh tế, họ cũng được hưởng lợi ích vì
khoản tiền họ bỏ ra không phải là quá lớn mà họ lại nhận được sự tận tụy, yên
tâm làm việc của người lao động, từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cho họ. Với
Nhà nước, BHXH góp phần làm giảm gánh nặng Ngân sách và là nguồn đầu tư
đáng kể cho việc phát triển kinh tế. Còn tính xã họi thẻ hiện rất rõ ở chỗ, BHXH
là bộ phận chủ yếu của hệ thống an sinh xã hội. Xét về mặt lâu dài, mọi người
lao động đều có quyền tham gia BHXH, còn BHXH có trách nhiệm phải bảo
đảm cho người lao động và gia đình của họ ngay cả khi họ còn đang trong độ
tuổi lao động. Tính dịch vụ gắn liền với tính xã hội của BHXH, khi xã hội ngày
càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hóa của BHXH ngày càng cao.
2. Sơ lược về lịch sử hình thành BHXH và những quan điểm cơ bản về
BHXH.
2.1. Sơ lược về lịch sử hình thành BHXH.
2.1.1. Lịch sử phát triển của BHXH ở trên thế giới.
BHXH xuất hiện khá sớm. Vào năm 1883, ở nước Phổ (Cộng hòa Liên bang
Đức ngày nay) Luật bảo hiểm ốm đau đầu tiên trên thế giới đã được đã được
ban hành đánh dấu sự ra đời của BHXH. Sau đó, BHXH đã lần lượt xuất hiện ở
các nước dưới các mức độ khác nhau nhưng có chung mục đích là bảo đảm cho
đời sống của người lao động và gia đình của họ.
BHXH đã nhanh chóng trở thành một trong những quyền cơ bản của con
người và được cả xã hội thừa nhận. Trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp
quốc (1945) đã ghi “Tất cả mọi người lao động với tư cách là thành viên của xã
hội đều có quyền hưởng BHXH”. Sau đó, ngày 4 – 6 – 1952 Tổ chức lao động
quốc tế (ILO) đã ký công ước Giơnevơ về “BHXH cho người lao động” và
khuyến nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động tùy theo điều kiện
và khả năng của mỗi nước. Vận dụng khuyến nghị của ILO các nước đã có
những chính sách, biện pháp phù hợp với điều kiện riêng của nước mình để tạo
môi trường cho BHXH phát triển.
2.1.2. Lịch sử phát triển của BHXH ở Việt Nam.
Ở nước ta, mầm mống của BHXH đã có từ thời phong kiến Pháp thuộc. Sau
cách mạng Tháng 8 năm 1945, mặc dù vừa mới giành được chính quyền, đất
nước còn gặp nhiều khó khăn nhưng Chính phủ Việt Nam vẫn giành sự quan
tâm đặc biệt đến đời sống của nhân dân lao động. Cụ thể, ngày 3/11/1945 Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 54/SL quy định điều kiện được nghỉ hưu
cho cán bộ công chức thuộc tất cả các ngạch trong nước Việt Nam. Tiếp theo
đó, chế độ hưu bổng cho công chức cũng đã được quy định cụ thể bằng Sắc lệnh
số 105/SL ngày 14/06/1946 của Chủ tịch nước. Nhằm từng bước luật hóa các
chế độ chính sách xã hội cho người lao động, ngày 12/3/1947 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 29/SL quy định chế độ làm việc cho người lao động.
Theo đó, chủ sử dụng lao động ngoài việc chi trả tiền lương cho công nhân còn
phải đảm bảo các các khoản phụ cấp cho gia đình họ; quy định chi tiết chế độ
bồi dưỡng làm ca đêm, làm thêm giờ, ngày nghỉ lễ và chế độ nghỉ sinh nở, chế
độ nghỉ ốm của người lao động. Sắc lệnh này đã bước đầu quy định chế độ bồi
thường tai nạn lao động cho công nhân hầm mỏ. Các chế độ BHXH này đã
được hoàn thiện dần dần bằng các Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 và Sắc
lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 của Chủ tịch nước. Quyền của người lao động
được trợ cấp về vật chất khi già yếu, ốm đau bệnh tật hoặc mất sức lao động
vv... đã được khẳng định ngay trong Hiến pháp năm 1959 - Hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của chiến
tranh và do điều kiện kinh tế chưa đủ để đáp ứng nên chỉ có một bộ phận cán bộ
công nhân viên chức được hưởng quyền lợi về BHXH.
Sau khi hòa bình lập lại, ngày 27 tháng 12 năm 1961 Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 218/CP kèm theo Điều lệ tạm thời về chế độ BHXH đối
với công nhân viên chức Nhà nước và được thi hành từ ngày 01 – 01 – 1962
cùng với điều lệ đãi ngộ quân nhân theo Nghị định 161/CP ngày 30 – 10 –
1964 của Chính phủ. Sau hơn 20 năm thực hiện, BHXH đối với cán bộ, công
nhân viên chức đã bộc lộ nhiều hạn chế. Vì vậy, ngày 18 – 9 – 1985 Chính
phủ (lúc đó là Hội đồng bộ trưởng)đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về
việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động,
nội dung chủ yếu là điều chỉnh mức đóng và mức hưởng BHXH .
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên chính sách BHXH ở Việt
Nam chưa được thực hiện một cách triệt để, nhất là việc thực hiện trong giai
đoạn này lại được giao cho nhiều tổ chức khác nhau đảm nhiệm như Tổng Liên
đoàn lao động Việt Nam, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội. Do vậy, để phù
hợp với sự sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản
lý của Nhà nước, ngày 27 – 12 – 1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP
Quy định tạm thời về các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế.
Nhưng BHXH Việt Nam chỉ thực sự có bước đột phá sau khi có Nghị định
12/CP của Chính phủ về việc ban hành “Điều lệ BHXH đối với công chức, viên
chức và công nhân của Nhà nước và mọi người lao động theo loại hình bắt
buộc”, Nghị định 45/CP ngày 15 – 7 – 1995 của Chính phủ ban hành điều lệ đối
với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân. Để đáp ứng với đòi hỏi của sự đổi mới của về chế quản
lý, ngày 01 – 10 – 1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/CP về việc thành
lập BHXH. Như vậy, hệ thống BHXH Việt Nam đã chính thức được thành lập,
theo đó, hệ thống này sẽ được tổ chức, quản lý tập trung theo ngành dọc từ
Trung ương tới địa phương, và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính
phủ. Chính sách BHXH cũng được hoàn thiện thêm một bước và được thể hiện
rõ hơn trong chương XII của Bộ Luật lao động. Hệ thống BHXH Việt Nam
được Chính phủ giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách BHXH thống nhất
trên phạm vi cả nước và được bảo trợ quỹ từ Ngân sách Nhà nước. Sự ra đời
của hệ thống BHXH Việt Nam đã đánh dấu một bước trưởng thành, đánh dấu
một sự thay đổi cả về lượng và chất trong việc tổ chức thực thi chính sách xã
hội ở Việt Nam. Tiếp tục thực hiện chương trình đổi mới, cải cách nền hành
chính quốc gia của Chính phủ Việt Nam, từ năm 2002 hệ thống BHXH Việt
Nam sẽ tiếp nhận thêm hệ thống BHYT được chuyển giao từ Bộ Y tế sang nhằm
thống nhất về mặt tổ chức quản lý và đảm bảo thực hiện tốt hơn chính sách
BHXH, bao gồm cả BHYT trong cùng một tổ chức thuộc hệ thống an sinh xã
hội.
2.2. Một số quan điểm cơ bản về BHXH.
2.2.1. Chính sách BHXH là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội.
Chính sách BHXH có mục đích chủ yếu là bảo đảm đời sống cho người
lao động và gia đình của họ khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập
do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Ở nước ta, BHXH là
một bộ phận cấu thành các chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên thực tế,
đây là một trong những loại chính sách tối ưu đối với con người để đáp ứng
một trong những nhu cầu hiển nhiên của xã hội đó là nhu cầu an toàn lao
động, an toàn việc làm, an toàn xã hội… Chính sách BHXH còn thể hiện tiềm
lực kinh tế, trình độ văn minh, khả năng tổ chức của mỗi quốc gia. Trong một
mức độ nhất định nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ
chức và thực hiện tốt BHXH sẽ tạo động lực cho người lao động phát huy
khả năng sáng tạo và góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế – xã hội của
đất nước.
2.2.2. Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp vào quỹ
BHXH để bảo hiểm cho người lao động.
Người sử dụng lao động ở đây có thể là các tổ chức, các doanh nghiệp và
các cá nhân thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ
BHXH và trách nhiệm thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động
mà họ sử dụng theo đúng quy định của pháp luật. Người sử dụng lao động
muốn ổn định và phát triển công việc kinh doanh sản xuất muốn nâng cao
năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thì ngoài việc đầu tư, ứng dụng vào
các công nghệ mới tiên tiến, các phương tiện kỹ thuật hiện đại thì phải chăm
lo, quan tâm đến đời sống của người lao động. Khi họ khỏe mạnh, làm việc
bình thường thì phải trả lương đầy đủ và thỏa đáng với họ. Khi họ gặp phải
rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động … thì phải thực hiện trách nhiệm BHXH đối
với họ. Có như vậy người lao động mới yên tâm làm việc, tích cực lao động
sản xuất, phát huy tiềm năng sáng tạo, góp phần cải tiến kỹ thuật, từ đó nâng
cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
2.2.3. Mọi người lao động đều được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH.
Điều này có nghĩa là tất cả mọi người lao động bên cạnh việc được hưởng
các quyền lợi BHXH một cách bình đẳng như trong bản Tuyên ngôn nhân
quyền đã nêu còn có nghĩa vụ phải đóng góp BHXH. Vì xét cho cùng, người
lao động khi gặp phải rủi ro không mong muốn và dù cho đó không phải
hoàn toàn và trực tiếp là lỗi của người khác thì trước tiên đó vẫn là rủi ro của
bản thân người lao động. Do vậy, nếu muốn được hưởng trợ cấp từ BHXH,
muốn được nhiều người hỗ trợ cho mình để dàn trải rủi ro thì trước tiên người
lao động phải tự mình gánh chịu trực tiếp, nghĩa là người lao động phải tham
gia BHXH để tự mình bảo hiểm cho chính mình trước.
2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức trợ cấp BHXH.
Như trong giáo trình bảo hiểm đã nêu mức trợ cấp của BHXH phụ thuộc
vào các yếu tố như sau:
- “ Tình trạng mất khả năng lao động.
- Tiền lương lúc đang đi làm.
- Nghành nghề công tác và thời gian công tác.
- Tuổi thọ bình quân của người lao động.
- Điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.”
7
Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương
khi mà người lao động còn đi làm nhưng mà thấp nhất cũng phải đảm bảo
mức sống tối thiểu cho người lao động. Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay
thế tiền lương khi mà người lao động gặp phải rủi ro. Mà tiền lương là khoản
mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện được các
công việc của mình. Tức là chi những người khỏe mạnh bình thường, lao
động bình thường và thực hiện những công việc nhất định mới được trả lương
hay mới có tiền lương. Khi người lao động bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già
không làm việc được mà trước đó họ có tham gia BHXH thì họ chỉ nhận
được trợ cấp từ BHXH. Mức trợ cấp này không bằng được mức tiền do người
lao động khi còn làm việc tạo ra được, vì những lí do chủ yếu như: Nếu như
mức tiền này bằng hoặc cao hơn thì không một người lao động nào muốn làm
việc một cách tích cực, cố gắng cả, trái lại họ sẽ lợi dụng BHXH để nhận
được trợ cấp, tức là không cần làm việc mà vẫn có thể đảm bảo được cuộc
sống. Ngoài ra, bản chất của BHXH là dàn trải rủi ro, vì vậy nếu mức trợ cấp
bằng với mức tiền lương của người lao động khi đang làm việc thì chẳng
7 Bộ môn kinh tế bảo hiểm – Đại học kinh tế quốc dân: Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005,
trang 43
khác gì người lao động bị rủi ro thông qua rủi ro của mình đã dàn trải hết cho
người khác. Như vậy, mức trợ cấp không được cao hơn hoặc bằng mức lương
lúc đang đi làm, nhưng do bản chất của BHXH là đảm bảo các nhu cầu sinh
sống thiết yếu nên mức trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống
tối thiểu.
2.2.5. Nhà nước quản lý thống nhất và tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH .
BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, là công cụ giúp
Nhà nước thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, cho nên vai trò của Nhà
nước là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự quản lý vĩ mô của
Nhà nước thì mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ, mối quan hệ
giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền
vững. Hơn nữa, việc thực hiện BHXH phải đảm bảo một quy trình chặt chẽ:
từ việc hoạch định chính sách, giới hạn đối tượng, xác định phạm vi bảo hiểm
cho đến việc đảm bảo vật chất và xét trợ cấp… Do vây, để đảm bảo cho hệ
thống BHXH vận hành một cách linh hoạt và chặt chẽ Nhà nước cần phải
quản lý thống nhất toàn bộ quy trình này.
Trước tiên, cần phải khẳng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là
khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nước thể hiện ở việc
xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực
hiện. Và sau đó là hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, thanh tra việc thực hiện của
các cá nhân và tổ chức. Còn với việc quản lý và đảm bảo vật chất cho BHXH
thì vai trò của Nhà nước còn phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước
quy định. Nếu chính sách bảo hiểm quy định việc đảm bảo cơ sở vật chất do
Nhà nước cung cấp thì Nhà nước sẽ quản lý trực tiếp và toàn diện, còn nếu
việc đảm bảo vật chất là do Nha nước quy định, người sử dụng lao động,
người lao động và Nhà nước cùng đóng góp thì Nhà nước chỉ tham gia quản
lý. Việc quản lý của Nhà nước được thực hiện thông qua các công cụ chủ yếu
như luật pháp và bộ máy tổ chức.