Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Thực trạng kiến thức về một số bệnh, cấp cứu thường gặp của bác sỹ đa khoa tại tỉnh yên bái và hà giang năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.3 KB, 51 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và sự vươn
lên mạnh mẽ của nền khoa học kỹ thuật hiện đại, mô hình bệnh tật trên thế giới đã
có sự chuyển biến đáng kể. Sự gia tăng của các bệnh không lây nhiễm (BKLN) và
tai nạn thương tích là hậu quả của nhiều yếu tố như già hoá dân số, tác động của các
yếu tố công nghiệp hoá, đô thị hoá, ô nhiễm môi trường và thay đổi lối sống [1].
Ở các nước phát triển, các bệnh mạn tính và tai nạn thương tích đã dần thay
thay thế bệnh nhiễm trùng để trở thành gánh nặng bệnh tật hàng đầu. Vì lý do kinh tế,
hầu hết việc chăm sóc sức khoẻ (CSSK) các bệnh này đã chuyển từ phòng khám nội
trú ra phòng khám (PK) ngoại trú với các phác đồ điều trị được xây dựng nhằm
phân cấp các bước điều trị rõ ràng với sự phối hợp của các chuyên khoa liên quan.
Trong thập nhiên 60 của thế kỷ XX, các chương trình chăm sóc sức khoẻ ban
đầu (CSSKBĐ) và chuyên ngành y học gia đình (YHGĐ) ra đời như một hệ quả tất
yếu, một đáp ứng kịp thời của hệ thống y tế đối với sự thay đổi nhu cầu chăm sóc sức
khoẻ của người dân trên toàn thế giới.
Ở nước ta, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ ngày càng khẳng định
vai trò quan trọng của lĩnh vực CSSKBĐ đối với việc thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, tình trạng thiếu nhân lực y tế, đặc biệt
là các bác sỹ đa khoa có trình độ cao ở YTCS mặc dù đã dần được cải thiện nhưng
vẫn còn là vấn đề cần ưu tiên. Chất lượng nhân lực y tế trong sơ cấp cứu, chẩn đoán
và điều trị một số bệnh và cấp cứu thường gặp rất hạn chế. Chế độ đãi ngộ đối với
cán bộ y tế chưa phù hợp, lương và phụ cấp cho cán bộ y tế quá thấp, không tương
xứng với thời gian học tập, công sức lao động, môi trường lao động, điều kiện làm
việc vất vả, nhất là ở khu vực miền núi, nông thôn [1].
Bộ Y tế đã khẳng định cần phát triển nguồn nhân lực khám chữa bệnh dựa trên
cơ sở thực tiễn, kế thừa và phát huy những kinh nghiệm, thành tựu, khắc phục
những bất cập và yếu kém để từng bước đáp ứng nhu cầu CSSK ngày càng cao của



2

nhân dân [2]. Trên thực tế, chất lượng và hiệu quả của CSSKBĐ phụ thuộc phần lớn
vào năng lực chuyên môn, kỹ năng đánh giá và xử trí ban đầu của các bác sỹ đa
khoa ở TYCS cũng như bác sỹ đa khoa ở tuyến trên.
Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu: “Thực trạng kiến thức về một số
bệnh, cấp cứu thường gặp của bác sỹ đa khoa tại tỉnh Yên Bái và Hà Giang
năm 2017” với mục tiêu:
Mô tả kiến thức về một số bệnh, cấp cứu thường gặp của bác sỹ đa khoa tại
tỉnh Yên Bái và Hà Giang năm 2017


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Hệ thống Y tế
1.1.1. Khái niệm
Tất cả các họat động với mục đích chính là tăng cường, phục hồi và/hoặc duy
trì sức khỏe.
Con người, các tổ chức và nguồn lực được được sắp xếp cùng nhau trong
khuôn khổ các chính sách đã thiết lập, nhằm cải thiện sức khỏe của quần thể mà họ
phục vụ, đáp ứng kỳ vọng chính đáng của người dân và giúp họ giảm hay tránh các
chi phí đắt đỏ do bệnh tật nhờ vào một loạt các hoạt động có mục đích chính là cải
thiện sức khỏe.
Toàn bộ các tổ chức, các trường đại học, viện nghiên cứu và nguồn lực công
lập lẫn tư nhân được giao nhiệm vụ cải thiện, duy trì phục hồi sức khỏe. Các hệ
thống y tế bao gồm dịch vụ cá nhân lẫn dịch vụ y tế cộng đồng, cũng như các hoạt
động ảnh hưởng đến chính sách và hoạt động các ngành khác nhằm giải quyết yếu

tố quyết định sức khỏe, liên quan đến xã hội, môi trường và kinh tế.[3]
1.1.2. Chức năng
Các hệ thống Y tế có các chức năng cốt lõi: cung cấp các dịch vụ y tế thiết yếu
tạo nguồn nhân lực và cơ sở vật chất, cung cấp tài chính cho các dịch vụ và nguồn
lực này và thu thập số liệu hỗ trợ việc lập kế hoạch và xây dựng chính sách.
1.2. Hệ thống Y tế Việt Nam
1.2.1. Hệ thống tổ chức Y tế Việt Nam
Mạng lưới tổ chức y tế Việt Nam phân theo 3 tuyến kỹ thuật: y tế Trung ương;
y tế tuyến tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và y tế tuyến cơ sở (y tế
huyện/quận/thành phố trực thuộc tỉnh/thị xã; y tế xã/phường và y tế thôn, bản).
Ngoài ra còn hệ thống tổ chức y tế của các lực lượng vũ trang (quân đội và công an)
và y tế các ngành, hệ thống y tế tư nhân.


4








- Y tế tư nhân
Bộ Y tế
BVĐK và chuyên khoa TƯ - 170 BV
- 8.627 giường bệnh
Viện nghiên cứu
~30.000 PK
Trường Đại học Y – dược

• Dân số : 1-2 triệu (trung bình)
• Sở Y tế
• BVĐK và chuyên khoa tỉnh
• Trung tâm YTDP, DS-KHHGĐ,
ATTP, SKSS
• Trường CĐ/THYT
• Dân số 100.000 - 200.000 (trung
bình)
• Phòng Y tế
• Bệnh viện
• TTYT
• Dân số: 10.000 (trung bình)
• TYT xã
• Y tế thôn bản: ~100.000

`

63 tỉnh

~700 huyện

~12.000 xã
Biểu đồ 1.1. Hệ thống các tuyến y tế Việt Nam
1.2.2. Đặc điểm hệ thống Y tế Việt Nam
Hệ thống Y tế Việt Nam đang thay đổi định hướng, chuyển từ mô hình tập
trung vào bệnh viện hiện nay sang mô hình lấy CSSKBĐ là trung tâm.


5


Nghĩa là, hệ thống y tế được tổ chức và vận hành sao cho đảm bảo quyền đạt
được mức độ cao nhất của người dân trong khi vẫn tối ưu hóa tính công bằng và
đoàn kết. Ngoài ra, hệ thống bao gồm một tập hợp cốt lõi các yếu tố cấu trúc và
chức năng nhằm đảm bảo bảo hiểm y tế toàn dân và quyền được tiếp cận các dịch
vụ ở mức độ được cộng đồng chấp nhận và tăng cường tính công bằng. Hệ thống y
tế sẽ cung cấp các dịch vụ chăm sóc được tích hợp toàn diện và phù hợp, chú trọng
công tác phòng và chống bệnh tật, nâng cao sức khỏe và CSSKBĐ ngay lần tiếp xúc
đầu tiên cũng như các hoạt động liên ngành để giải quyết các yếu tố quyết định khác
của sức khỏe và cộng đồng.[4]
Tuy đã có nhiều cố gắng để chuyển sự tập trung của hệ thống y tế sang
CSSKBĐ, y tế dự phòng sang và nâng cao sức khỏe, nhưng hiện nay nguồn lực và
các chính sách y tế vẫn dành ưu tiên cho dịch vụ khám chữa bệnh tại tuyến trên.
Các chính sách kêu gọi đầu tư cơ bản vào bệnh viện tuyến huyện và trạm y tế xã,
luân chuyển cán bộ để tăng cường năng lực cho cán bộ y tế tuyến huyện, mở rộng
phạm vi dịch vụ được bảo hiểm y tế thanh toán tại tuyến dưới đã góp phần tăng
cường CSSKBĐ. Tuy vậy, hệ thống y tế vẫn tập trung chủ yếu vào bệnh viện. Trong
khi thiếu cơ chế liên lạc để giám sát và kiểm soát các bệnh viện thì chính sách xã
hội hóa và dự án hợp tác công tư (thực hiện để thu hồi vốn từ các nhà đầu tư tư
nhân, bao gồm cả đội ngũ y, bác sỹ) đang làm trầm trọng thêm tình trạng sử dụng
quá mức dịch vụ công nghệ cao. Đồng thời các trạm y tế xã lại thiếu nguồn lực:
nhân viên không đủ năng lực, phạm vi dịch vụ cơ sở y tế được cấp phép cung cấp
quá hẹp, ngân sách trạm y tế phụ thuộc vào ngân sách địa phương (các khoản thanh
toán bảo hiểm y tế được thanh toán cho tuyến huyện dù nhiều dịch vụ được cấp tại
y tế tuyến xã). Bệnh nhân thường được chuyển tuyến trên sau đó được giữ lại tại
bệnh viện thay về chuyển tuyến về tuyến xã để tiếp tục theo dõi. Các biện pháp y tế
dự phòng và nâng cao sức khỏe chưa được lồng ghép đúng mức vào dịch vụ chữa
bệnh do các chính sách hiện nay giao các mảng nhiệm vụ này cho các cơ quan khác
nhau; biện pháp ưu đãi tài chính hiện nay lại chú trọng can thiệp chữa bệnh hơn các
hoạt động phòng bệnh.



6

1.3. Vai trò bác sỹ đa khoa trong CSSKBĐ
CSSKBĐ là những chăm sóc sức khỏe thiết yếu, dựa trên phương pháp và kỹ
thuật thực hành, đưa đến tận cá nhân và từng gia đình trong cộng đồng, được mọi
người chấp nhận thông qua sự tham gia đầy đủ của họ với giá thành mà họ chấp
nhận được nhằm đạt được sức khỏe cao nhất. CSSKBĐ nhằm nâng cao sức khỏe,
phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi sức khỏe.
Nội dung của CSSKBĐ:
+ Giáo dục sức khỏe nhằm thay đổi những thói quen và lối sống
+ Cải thiện điều kiện dinh dưỡng và ăn uống hợp lý
+ Cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường
+ Chăm sóc sức khỏe trẻ em và kế hoạch hóa gia đình
+ Tiêm chủng mở rộng phòng 6 bệnh dịch lưu hành phổ biến của trẻ em tại
địa phương.
+ Phòng chống các bệnh dịch lưu hành phổ biến tại địa phương.
+ Điều trị các bệnh và vết thương thông thường.
+ Cung cấp đủ thuốc thiết yếu
+ Quản lý sức khỏe toàn dân.
+ Củng cố màng lưới Y tế cơ sở [5]
Bác sỹ đa khoa là một bác sỹ điều trị các bệnh mãn và cấp tính, đưa ra các
biện pháp phòng bệnh, hướng dẫn phục hồi sức khỏe và kê thuốc cho bệnh nhân. Để
trở thành bác sỹ đa khoa sinh viên cần theo học ngành bác sỹ đa khoa ở trường đại
học Y và hoàn thành chương trình học tập gồm 6 năm học tập trong trường và thực
hành tại các cơ sở y tế.
Bác sỹ đa khoa được đào tạo toàn diện; có nhiệm vụ khám chữa bệnh tại các
sơ sở y tế, điều trị và hướng dẫn chăm sóc bệnh nhân tại nhà, thực hiện công tác
phòng bệnh, giáo dục sức khỏe, tổ chức và quản lý các dịch vụ chăm sóc sức khỏe
tại cộng đồng, tham gia công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học…

Bác sỹ đa khoa, đặc biệt là bác sỹ đa khoa tại tuyến YTCS là người trực tiếp
thực hiện công tác CSSKBĐ.


7

Bác sỹ đa khoa là thành viên không thể thiếu của đội CSSKBĐ. Mỗi đội bao
gồm những người tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ y tế và là chỉnh thể độc
nhất. Các thành viên khác của đội gồm có y tá, y sĩ, nữ hộ sinh, cán bộ xã hội và cán
bộ y tế cộng đồng và người chăm sóc trực tiếp cho bệnh nhân. Các thành viên hỗ trợ
đội gồm lễ tân thư ký, nhà quản lý nhà truyền thông giáo dục sức khỏe và kỹ thuật
viên xét nghiệm, dược sĩ, kỹ thuật viên X-quang.
Bác sỹ đa khoa sẽ cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau cho cá nhân, gia đình và
cộng đồng, gồm dự phòng bệnh tật và chăm sóc điều trị, đảm bảo chăm sóc sức
khỏe toàn diện, liên tục phối hợp. Là người điều phối, họ có thể kết nối các dịch vụ
ban đầu với tuyến 2 và tuyến 3. Với vai trò lãnh đạo, nhà quản lý và giám sát, họ
giúp cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt động của cả đội.
Vì vậy chất lượng và hiệu quả của CSSKBĐ phụ thuộc phần lớn vào năng lực
chuyên môn, kỹ năng giám sát của các bác sỹ đa khoa. Bộ Y tế đã ra nhiều công văn,
quyết định nhằm tăng cường năng lực chuyên môn cho bác sỹ đa khoa như quyết định
ban hành kế hoạch tăng cường thực hiện điều trị, quản lý THA và ĐTĐ theo nguyên lý
Y học gia đình tại các Trạm y tế xã, phường, thị trấn giai đoạn 2018-2020[6]
1.4. Tình hình kiến thức về một số bệnh, cấp cứu thường gặp của bác sỹ đa
khoa
1.4.1. Trên thế giới
Có thể coi bác sỹ tại tuyến YTCS thực hiện công tác CSSKBĐ là bác sỹ gia
đình (BSGĐ). Bởi lẽ, YHGĐ là một chuyên ngành y khoa nhấn mạnh vào công tác
CSSKBĐ. BSGĐ với sự kết hợp chức năng của một bác sỹ lâm sàng, bác sỹ dự
phòng và nhà tâm lý sẽ đáp ứng khoảng 90% nhu cầu CSSK của người dân; thích
hợp làm việc tại các PK thuộc hệ thống y tế ở mọi tuyến từ trung ương đến cơ sở

(TYT xã), đặc biệt là tuyến YTCS [7].
YHGĐ là một chuyên ngành Y học cung cấp dịch vụ CSSK toàn diện, liên
tục cho cá nhân, gia đình và cộng đồng. Đối tượng phục vụ không phân biệt tuổi
tác, giới tính hoặc vấn đề sức khỏe, bệnh tật. Các BSGĐ chăm sóc sức khỏe cho


8

bệnh nhân trong bối cảnh của gia đình, cộng đồng. Công tác quản lý và CSSK chủ
yếu tại nơi người dân dễ tiếp cận/nơi tiếp cận ban đầu (y tế tuyến cơ sở như TYT xã,
các phòng khám đa khoa khu vực...) [7].
Mô hình BSGĐ đã phát triển và nhân rộng ở nhiều nước trên thế giới từ Thế
kỷ XX. Năm 1960, YHGĐ ra đời ở Mỹ, Anh và một số nước, đã đáp ứng kịp thời
nhu cầu CSSK của cộng đồng với sự chuyển đổi mô hình bệnh tật trên toàn cầu.
Hiệp hội BSGĐ toàn cầu (WONCA) đã được thành lập năm 1972 và đến nay đã có
gần 100 quốc gia thành viên. Hiện nay, mô hình BSGĐ đã được phát triển rộng rãi
không chỉ ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Australia, Canada mà cả ở các
nước đang phát triển như Philippines, Malaysia, đặc biệt Cu Ba là quốc gia được coi
là một hình mẫu về phát triển mô hình BSGĐ ở các nước đang phát triển [8].
Ở Hoa Kỳ, trong năm 2008 có 62% trong tổng số 1,1 tỉ cuộc thăm khám cấp
cứu được tiến hành bởi các bác sỹ CSSKBĐ trong đó BSGĐ chiếm gần 25% (không
nhỏ so với số lượng BSGĐ chỉ chiếm 13% trong tổng số bác sỹ ở Hoa Kỳ)[9].
Cu Ba, nơi được coi là một hình mẫu cho việc phát triển mô hình BSGĐ ở các
nước đang phát triển. Liên tục trong 4 năm qua, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh ở mức
thấp nhất thế giới (6 ca tử vong/1000 trẻ dưới 1 tuổi, trong đó năm 2015 là 0,43%).
Tuổi thọ trung bình của người dân Cuba cũng không ngừng được cải thiện và hiện
đang ở mức xấp xỉ 81 tuổi với nữa giới và 79 tuổi với nam giới [10]. Điều đó cho
thấy với trình độ chuyên môn tốt, BSGĐ tại Cuba đã mang lại cho người dân nơi
đây tình trạng sức khoẻ người dân tương đương với các nước đang phát triển.
Như vậy, mô hình BSGĐ sẽ góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc ban đầu

theo hướng toàn diện và liên tục, giúp sàng lọc bệnh tật, chuyển tuyến phù hợp, góp phần
giảm quá tải bệnh viện tuyến trên [11]. Mô hình BSGĐ là hạt nhân thực hiện công tác
CSSKBĐ đóng vai trò quan trọng ở cả các nước phát triển và nước đang phát triển.
1.4.2. Tại Việt Nam
Thực tế thì trong vài năm trở lại đây ngành y tế đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong nhiều lĩnh vực quản lý, trang thiết bị y tế cũng như hoạt động khám
chữa bệnh nhằm nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, hiện nay nhân


9

lực y tế tại tuyến y tế cơ sở vừa thiếu lại vừa yếu. Tại bệnh viện huyện Nho Quan Ninh Bình, chưa đảm bảo 1 cán bộ y tế hay 1 bác sỹ cho 1 giường bệnh, tỷ lệ bác
sỹ/(điều dưỡng, nữ hộ sinh, kỹ thuật viên) là thấp hơn nhiều so với định mức biên
chế; cán bộ y tế chủ yếu có trình độ trung học (53%), trình độ đại học chỉ chiếm
12,1% [12].
Theo nghiên cứu đánh giá thực trạng công tác đào tạo nhân lực y tế: Đánh giá
sinh viên sau ra trường: 45% biết phát hiện sớm, xử trí hợp lý ban đầu các dịch
bệnh; 50,9% có thể thực hiện được 1 số thủ thuật, kỹ thuật y khoa đơn giản; 37,6%
có khả năng theo dõi và quản lý bệnh mạn tính tại cộng đồng [13].
Theo khảo sát kiến thức và thực hành của các bác sỹ đa khoa tại cơ sở y tế Việt
Nam năm 2016:
Kiến thức của bác sỹ về phương pháp điều trị đúng không cao bằng kiến thức
chẩn đoán của họ. Kiến thức điều trị thấp nhất đối với bệnh viêm phổi ở trẻ em,
95% bác sỹ chẩn đoán đúng viêm phổi ở trẻ, chỉ 52% có bất kỳ phác đồ điều trị
đúng nào, còn 2/3 đưa ra phác đồ điều trị gây hại. Một lượng lớn bác sỹ đưa ra
hướng điều trị gây hại trong nhiều trường hợp. Chỉ 10% bác sỹ không đưa ra bất kỳ
hướng điều trị gây hại nào trong bất kỳ trường hợp nào. Dù với kết quả xét nghiệm
ĐTĐ typ 2 và huyết áp cao 37-44% bác sỹ vẫn đề xuất phác đồ điều trị gây hại.
Còn tồn tại khoảng trống giữa kiến thức và thực hành của các bác sỹ đa khoa
(bác sỹ không làm nhiều như họ biết). Đối với bệnh tiêu chảy, bác sỹ làm ít hành

động trong bảng kiểm hơn so với những gì họ nói họ sẽ làm. Bác sỹ tuyến xã biết ít
hơn nhưng họ làm nhiều thứ họ biết hơn so với bác sỹ tuyến huyện.[14]
Theo nghiên cứu của Viện Chiến lược và Chính sách y tế (2013), tỷ lệ chẩn
đoán và xử trí đúng các bệnh thông thường của các bác sỹ đa khoa tuyến y tế cơ sở
còn thấp, nhiều bệnh đạt dưới 50%.
Bảng 1.1. Một số kiến thức và kĩ năng của bác sỹ đa khoa và y sỹ
tại tuyến y tế cơ sở
Kiến thức và kỹ năng

Bác sỹ

Y sỹ

Cộng

(%)

(%)

(%)


10

Xử trí tiêu chảy

42,0

44,3


43,7

Sơ cấp cứu chống độc

18,5

16,8

17,3

Chẩn đoán bệnh hô hấp ở trẻ em

43,2

45.1

44,6

Biết các dấu hiệu nguy hiểm ở phụ nữ mang thai

23,5

14,6

16,9

Chẩn đoán được THA

65,4


45,1

50,5

Biết cách xử trí khi có dịch

24,7

12,4

15,6

Nguồn: Viện Chiến lược Viện Chiến lược và Chính sách y tế (2013).

Với nhu cầu nâng cao trình độ, buộc các bác sỹ này phải lựa chọn theo đuổi
một chuyên khoa lâm sàng hẹp không phù hợp với môi trường, điều kiện và yêu cầu
khám chữa bệnh đa khoa, thực hiện công tác dự phòng tại tuyến y tế cơ sở.
1.5. Thông tin chung về tỉnh Yên Bái và tỉnh Hà Giang
1.5.1. Đặc điểm của Yên Bái
1.

1.5.1.1 Thông tin chung
Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc nằm ở trung tâm vùng núi và trung du

Bắc bộ Việt Nam.
Tổng diện tích tự nhiên của tỉnh là 6.886,28 km2, xếp thứ 8 so với 12 tỉnh
thuộc vùng núi và trung du phía Bắc về quy mô đất đai. Trong đó diện tích nhóm
đất nông nghiệp là 5.850,9 km2, chiếm 84,96% diện tích đất tự nhiên, diện tích
nhóm đất phi nông nghiệp 537,11 km2 chiếm 7,80%, diện tích đất chưa sử dụng là
498,28 km2 chiếm 7,24%. Tỷ lệ che phủ của rừng đạt khoảng trên 62%, đứng thứ 2

trong cả nước.
Toàn tỉnh có 9 đơn vị hành chính 180 xã, phường, thị trấn. Năm 2015 tỉnh
Yên Bái có 792.710 người, trong đó nam 395.330 người, nữ 397.380 người. Dân số
thành thị 161.650 người chiếm 20,39%, dân số khu vực nông thôn 631.060 người
chiếm 79,61% dân số toàn tỉnh.[15]
Cơ cấu nền kinh tế Yên Bái chủ yếu là nền kinh tế nông lâm nghiệp. Cơ cấu
tổng sản phẩm trong toàn tỉnh Yên Bái năm 2017 như sau: Khu vực Nông, lâm
nghiệp, thủy sản chiếm 23,05%, Khu vực Công nghiệp, xây dựng chiếm 25,85%,
khu vực Dịch vụ chiếm 47,66%. Tỉnh Yên Bái đã có nhiều chính sách thu hút đầu


11

tư, phát huy tiềm năng lợi thế của địa phương để công nghiệp phát triển, đã chiếm
tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế. [16]
2.

1.5.1.2. Hệ thống cơ sở y tế
Năm 2016, ngành Y tế Yên Bái có 4 đơn vị hệ y tế dự phòng (YTDP) và sự

nghiệp; 7 đơn vị hệ điều trị với 1.279 giường bệnh; 2 chi cục (Chi cục Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình, Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm); 9 trung tâm y tế huyện, thị
xã, thành phố với 760 giường bệnh (trong đó 8 trung tâm lồng ghép cả chức năng y
tế dự phòng và khám chữa bệnh, 1 trung tâm thực hiện chức năng y tế dự phòng; 19
phòng khám đa khoa khu vực (ĐKKV) với 175 giường bệnh; 180 trạm y tế xã với
993 giường bệnh cơ bản đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân các dân
tộc trong tỉnh.[17][18]
Công tác y tế dự phòng của tỉnh thu được những thành tựu quan trọng, khống
chế, đẩy lùi và thanh toán được một số bệnh dịch nguy hiểm, không để bệnh dịch
lớn xảy ra; tỷ lệ sốt rét/dân số giảm còn 0,03‰; HIV/AIDS từng bước được kiềm

chế, kiềm soát. Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển. Các chế độ chính sách
đối với cán bộ y tế cơ sở được quan tâm giải quyết; hoạt động của y tế cơ sở có
bước chuyển biến; hệ thống khám chữa bệnh được quan tâm đầu tư nâng cấp, bổ
sung trang thiết bị mới, chất lượng điều trị và thái độ của cán bộ, nhân viên y tế có
nhiều tiến bộ. Công tác dân số gia đình và trẻ em được quan tâm, với kết quả duy
trì mức giảm sinh bền vững 0,2‰, kiềm chế tỷ lệ tăng tỷ số giới tính khi sinh được
ở mức 0,2; tỷ lệ giới tính khi sinh năm 2016 là 112 trẻ nam/100 trẻ nữ, tỷ lệ tảo hôn
và hôn nhân cận huyết thống giảm. Tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ cho trẻ dưới 1 tuổi đạt
98,9%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống còn 18,5, giảm tỷ lệ
sinh con thứ 3, chất lượng dân số từng bước được nâng lên.
Tuy nhiên, ngành y tế Yên Bái vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại và những khó
khăn bất cập cần tháo gỡ. Hệ thống y tế trong thời gian qua có nhiều thay đổi về mô
hình tổ chức, nhưng lại chưa có hướng dẫn đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ; hoạt
động của phòng y tế chưa hiệu quả, nhân lực y tế thiếu về số lượng, hạn chế về chất
lượng ở tất cả các tuyến, đặc biệt là các huyện vùng cao.Cơ chế quản lý bệnh viện


12

còn nhiều bất cập, tinh thần thái độ phục vụ người bệnh của nhân viên y tế còn
chậm đổi mới, chưa có bước chuyển biến rõ nét. Cơ sở vật chất, trang thiết bị ở một
số đơn vị, trạm y tế xã đã xuống cấp. Mô hình bệnh tật thay đổi, các bệnh truyền
nhiễm diễn biến phức tạp và khó lường, công tác vệ sinh an toàn thực phẩm đang
đặt ra nhiều thách thức [19]
1.5.2. Đặc điểm của Hà Giang
3.

1.5.2.1. Thông tin chung
Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, là một tỉnh miền núi


biên giới ở cực bắc của Tổ quốc, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng.
Diện tích tự nhiên là 7.884,37km 2, đất nông nghiệp có 134.184 ha, chiếm
17% diện tích tự nhiên, đất lâm nghiệp có 334.100 ha, chiếm 42,4%, đất chưa sử
dụng có 310.064 ha, chiếm 39,3%, còn lại là đất chuyên dùng và đất ở, diện tích
rừng tự nhiên là 345.860 ha, với nhiều sản vật quý hiếm.
Hà Giang có 01 thành phố, 10 huyện, 05 phường, 13 thị trấn và 177 xã. Dân
số tỉnh Hà Giang năm 2009 là 724.537 người. Trong đó, dân số thành thị là 84.338
người. Với nhiều dân tộc cùng sinh sống và phát triển trong suốt quá trình lịch sử
lâu dài, Hà Giang là khu vực có sự đa dạng về bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số .
Trong giai đoạn 5 năm từ 2006 - 2010, nền kinh tế tỉnh Hà Giang đã phát
triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao, qua đó dần thu hẹp khoảng cách so với
mức trung bình của cả nước: Tốc độ tăng trưởng GDP đạt bình quân 12,7%. Cơ cấu
kinh tế: Dịch vụ, thương mại: 39% (tăng 4%); Công nghiệp xây dựng: 29% (tăng
4,4%); Nông, lâm nghiệp: 32% (giảm 9,1%). Thu nhập bình quân đầu người: 7,5
triệu đồng.[20]
4.

1.5.2.2. Hệ thống cơ sở y tế
Năm 2016, Hà Giang có 212 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế thành

phố, trong đó có 15 bệnh viện công lập, 177 trạm y tế xã/ phường. [15]Số giường


13

bệnh trực thuộc sở Y tế Hà Giang 2766, trong đó số giường bệnh của trạm y tế là
521.[18]
Hệ thống Y tế ở địa phương từ tỉnh đến huyện, xã ngày càng được củng cố và
hoàn thiện. Mạng lưới Y tế dự phòng được quan tâm củng cố, chủ động tăng cường
công tác giám sát, khống chế và dập dịch kịp thời, không để dịch xảy ra, kịp thời ứng

phó với các vấn đề sức khỏe liên quan đến thiên tai. Mạng lưới KCB các tuyến y tế (cả
công lập và ngoài công lập) được mở rộng và củng cố. Số giường bệnh viện công lập
(giường bệnh viện và giường Phòng khám đa khoa khu vực) đạt 28,2 giường/10.000.
Trang thiết bị y tế đã được đầu tư và nâng cấp đáng kể, nhiều cơ sở y tế có các trang
thiết bị hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị cho người
bệnh. Công tác bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hoá gia đình đã có nhiều
chuyển biến tích cực thông qua việc triển khai các chương trình chăm sóc sản khoa
thiết yếu, làm mẹ an toàn. Một số chỉ tiêu về tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, tỷ lệ sinh con
thứ 3 có chiều hướng giảm, tỷ số giới tính nằm trong giới hạn cho phép.
Tuy nhiên, hệ thống y tế của tỉnh phát triển chưa cân đối giữa các lĩnh vực
khám chữa bệnh với y tế dự phòng và y tế cộng đồng. Công tác quản lý nhà nước và
năng lực chuyên môn ở một số đơn vị y tế còn hạn chế, sự thay đổi cơ cấu bệnh tật
và nhu cầu CSSK ngày càng tăng của nhân dân; thiếu các chuyên gia giỏi nên việc
ứng dụng các kỹ thuật mới vào khám chữa bệnh còn hạn chế, sử dụng trang thiết bị
hiện đại chưa đạt hiệu quả cao. Hoạt động của y tế dự phòng còn nhiều bất cập,
công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe chưa đủ mạnh. Đầu tư cho y tế còn hạn
hẹp, chưa đồng bộ.[21]


14

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại 2 tỉnh/thành phố là Yên Bái và Hà Giang
Thời gian tiến hành thu thập thông tin: trong năm 2017.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Các bác sỹ đa khoa trực tiếp tham gia công tác khám chữa bệnh làm việc tại
các cơ sở y tế trên địa bàn của 2 tỉnh Yên Bái và Hà Giang tham gia lớp đào tạo liên
tục (CME) YHGĐ năm 2017 (Đánh giá một số kiến thức trước khi tham gia khoá

học).( Trong đó, có 51 bác sỹ công tác tại bệnh viện tuyến huyện và TTYT tuyến
huyện, có 4 bác sĩ công tác tại sở y tế- những bác sỹ này sẽ là người trực tiếp tham
gia đào tạo các bác sỹ tuyến cơ sở trong vấn đề CSSKBĐ)
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.4. Mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 55 Bác sỹ đa khoa công tác tại các cơ sở y
tế trên địa bàn của hai tỉnh Yên Bái và Hà Giang tham gia lớp đào tạo liên tục
(CME) YHGĐ năm 2017.
2.5. Nội dung nghiên cứu
Trong nghiên cứu này (phạm vi của một khoá luận tốt nghiệp Y6) chỉ tìm hiểu
một số kiến thức của Bác sỹ đa khoa về bệnh, cấp cứu thường gặp nhất tại cộng đồng.
2.6. Thu thập số liệu
Công cụ nghiên cứu là bộ câu hỏi phỏng vấn. Các bác sỹ sẽ tự trả lời bằng
cách điền vào bộ câu hỏi, dưới sự giám sát của giảng viên. Bộ câu hỏi có 25 câu,
bao gồm những thông tin cá nhân, kiến thức về một số bệnh mãn tính thường gặp,
một số vấn đề sức khoẻ nhi khoa và xử trí ban đầu một số cấp cứu thường gặp.


15

2.7. Các biến số và chỉ số nghiên cứu
TT

1

Thông tin
chung

2


Kiến thức
về bệnh
mãn tính
thường
gặp

3

Kiến thức
về nhi
khoa

4

Phương pháp
thu thập
Phỏng vấn bằng
Tuổi
Rời rạc
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
Giới
Nhị phân
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
Thâm niên công tác
Rời rạc
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng

Khu vực
Nhị phân
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
Lĩnh vực công tác chuyên môn
Danh mục
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
Tiêu chuẩn chẩn đoán THA đúng
Nhị phân
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
Mục tiêu đúng về điều trị THA
Nhị phân
bộ câu hỏi
Mục tiêu đúng về hạ huyết áp khi đột
Phỏng vấn bằng
Nhị phân
quỵ trong 24h đầu tiên
bộ câu hỏi
Kiến thức về phối hợp thuốc đúng khi
Phỏng vấn bằng
Nhị phân
điều trị THA.
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ đúng
Nhị phân
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng

Mục tiêu đúng về điều trị ĐTĐ
Nhị phân
bộ câu hỏi
Mục tiêu đúng về điều trị rối loạn
Phỏng vấn bằng
Nhị phân
lipid máu cho bệnh nhân tim mạch
bộ câu hỏi
Kiến thức xử trí không dùng thuốc
Phỏng vấn bằng
(dùng biện pháp vật lý) đúng khi trẻ Nhị phân
bộ câu hỏi
bị sốt
Phỏng vấn bằng
Chỉ định thuốc hạ sốt đúng ở trẻ
Nhị phân
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
Liều pracetamol đúng khi hạ sốt ở trẻ Nhị phân
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
Chẩn đoán đúng viêm phổi sớm ở trẻ Nhị phân
bộ câu hỏi
Chẩn đoán đúng tiêu chảy cấp ở trẻ
Phỏng vấn bằng
Nhị phân
em
bộ câu hỏi
Kiến thức đúng về bệnh tay- chânPhỏng vấn bằng
Nhị phân

miệng
bộ câu hỏi
Chỉ định rửa dạ dày đúng trong xử trí Nhị phân Phỏng vấn bằng
ngộ độc tiêu hóa
bộ câu hỏi
Biến số nghiên cứu

Kiến thức
về xử trí

Loại biến


16

Lựa chọn dịch truyền ban đầu đúng
trong cấp cứu chấn thương

Nhị phân

Chẩn đoán đúng tắc nghẽn đường thở

Nhị phân

một số cấp Chẩn đoán đúng ngừng tuần hoàn
cứu ban
Kiến thức cấp cứu cơ bản ngừng tuần
đầu
hoàn đúng
Cố định cột sống cổ đúng trong cấp

cứu
Nguyên tắc đúng khi sơ cứu gãy
xương

Nhị phân
Nhị phân
Nhị phân
Nhị phân

Phỏng vấn bằng
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
bộ câu hỏi
Phỏng vấn bằng
bộ câu hỏi

WHO và hội THA quốc tế thống nhất, chẩn đoán THA khi huyết áp tâm thu
≥140 mmHg và/ hoặc huyết áp tâm trương ≥90 mmHg. Mục tiêu điều trị THA cho
bệnh nhân dưới 60 tuổi bị THA là huyết áp tâm thu <140mmHg và huyết áp tâm
trương < 90mmHg. Khi điều trị THA không được phối hợp thuốc ức chế thụ thể
angiotensin và thuốc ức chế men chuyển. Trong công tác cấp cứu ban đầu cho
người đột quỵ, nếu người bệnh có chỉ định dùng thuốc hạ áp cấp cứu thì cần kiểm
soát huyết áp không nên hạ quá nhanh, cần hạ khoảng 15-25 % trị số HA trong 24h
đầu tiên [22].

Mục tiêu điều trị rối loạn lipid máu cho bệnh nhân mắc bệnh tim mạch là để
hạ LDL- Choleserol máu.
Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ theo ADA mức glucose huyết tương ≥7mmol/l
vào lúc đói ( nhịn ăn >8-14 giờ), làm 2 lần vào 2 ngày khác nhau, và mục tiêu điều
trị ĐTĐ theo Bộ Y tế và ADA 2007 là HbA1C <7%.
Trẻ bị sốt cần chườm ấm cho trẻ và cho uống thuốc hạ sốt khi nhiệt độ cặp
thấy ≥38,5

o

C. Liều pracetamol để hạ sốt cho trẻ là 10-15mg/kg/ lần dùng trong

đường uống và đường đặt hậu môn.
Chẩn đoán viêm phổi sớm ở trẻ dựa vào dấu hiệu thở nhanh.
Bệnh-tay-chân miệng là bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa.
Khi ngộ độc tiêu hóa, chỉ định rửa dạ dày khi đến trước 6h.
Trong cấp cứu chấn thương loại dịch truyền ưu tiên sử dụng đầu tiên là ringer lactat.


17

Các dấu hiệu tắc nghẽn đường thở bao gồm: thở nhanh, co rít, tím...dấu hiệu
thở ngáy không phải là dấu hiệu của tắc nghẽn đường thở.
Chẩn đoán ngường tuần hoàn dựa vào các dấu hiệu: đột ngột mất ý thức,
ngừng thở, mất mạch.
Thứ tự các bước khi sơ cứu ngừng tuần hoàn: Hỗ trợ tuần hoàn, khai thông
đường thở, hỗ trợ hô hấp.
Cố định cột sống cổ cần tiến hành trong khi đánh giá: Thần kinh
Nguyên tắc khi sơ cứu gãy xương: Kiểm tra mạch, chức năng vận động, cảm
giác của phần chi dưới chỗ tổn thương trước và sau khi cố định.

2.8. Sai số nghiên cứu
Sai số lựa chọn: Chọn mẫu có chủ đích (các bác sỹ đa khoa tham gia khoá
học) có thể sẽ không đại diện cho toàn bộ quần thể. Việc khống chế sai số đòi hỏi
phải được chọn mẫu ngẫu nhiên. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một nghiên cứu
tốt nghiệp sinh viên Y6, đây là điều khó khăn.
Sai số báo cáo: Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi tự điền
trước khi tham gia khoá học có thể tham khảo ý kiến lẫn nhau.
2.9. Phân tích số liệu
Bộ câu hỏi sẽ được nhập vào máy tính và được xử lý bằng phần mềm thống kê
Stata 12.0. Test khi bình phương (X2) được sử dụng.
2.10. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu được sự đồng ý của bộ môn YHGĐ.
Các đối tượng tham gia nghiên cứu được giải thích về mục đích điều tra thu
thập thông tin, nội dung thông tin cần thu thập, tự nguyện đồng ý tham gia, được
giữ bí mật và chỉ được sử dụng phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu này chỉ sử dụng phương pháp thu thập số liệu qua bộ câu hỏi thiết
kế sẵn nên không gây tác hại cho các đối tượng tham gia nghiên cứu.

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu


18

Bảng 3.1. Một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm chung
Khu vực (tỉnh)

Lĩnh vực công tác


Số lượng

Tỷ lệ (%)

Yên Bái

25

45,4

Hà Giang

30

54,6

Khám chữa bệnh

37

67,3

Dự phòng, quản lý,
giảng dạy

18

32,7


Tuổi trung bình ( ± SD)

42,7 + 6,8

Thâm niên công tác (năm)

18,5 + 7,7

Nhận xét:
Các bác sỹ công tác tại Yên Bái (45.4%) chiếm tỷ lệ thấp hơn ở Hà Giang (54.6 %).
Tỷ lệ các bác sỹ tham gia khám chữa bệnh (67,3 %) cao tham gia trong lĩnh vực dự
phòng, quản lý, giảng dạy (32,7%).
Độ tuổi trung bình của các bác sỹ là 42.7; thấp nhất là 28 tuổi và cao nhất là
60 tuổi.
Các bác sỹ có thâm niên công tác trung bình là 18,5 năm, ít nhất là 2 năm và
nhiều nhất là 39 năm. Trong đó số bác sỹ có thâm niên công tác 17 năm là nhiều
nhất với 5 người .
Biểu đồ 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới tính
Nhận xét:

34,5%

Trong số 55 bác sỹ tham gia nghiên65,5%
cứu thì bác sỹ nam có 36 người chiếm tỉ lệ
65,5% ; bác sỹ nữ có 19 người chiếm tỉ lệ 34,5%.
3.2. Kiến thức về một số bệnh, cấp cứu thường gặp của bác sỹ đa khoa
3.2.1. Kiến thức về bệnh mãn tính thường gặp
5.

3.2.1.1. Kiến thức về bệnh THA

Bảng 3.2. Kiến thức đúng về bệnh THA
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ (%)


19

Xác định đúng tiêu chuẩn chẩn đoán
THA

45

81,8

Xác định đúng mục tiêu điều trị THA

24

43,6

Xác định đúng mục tiêu hạ huyết áp khi
đột quỵ trong 24h đầu tiên

13

23,6


23

41,8

Kiến thức đúng về phối hợp thuốc khi
điều trị THA
Nhận xét:

Số các bác sỹ xác định đúng tiêu chuẩn chẩn đoán THA khá cao với 45
người (chiếm 81.8%).
Tuy nhiên, tỷ lệ các bác sỹ xác định đúng mục tiêu điều trị THA và mục tiêu
hạ huyết áp khi đột quỵ trong 24h đầu tiên và kiến thức đúng về phối hợp thuốc khi
điều trị THA chưa tới 50% (theo thứ tự lần lượt là 43,6%; 23,6% và 41,8%).
Biểu đồ 3.2. Kiến thức đúng về bệnh THA của các bác sỹ theo địa dư
Nhận xét:
Tỷ lệ các bác sỹ biết xác định đúng tiêu chuẩn chẩn đoán THA ở Yên Bái thấp
hơn ở Hà Giang (68,0 % so với 93,3 %), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p<0,05).
Chưa thấy có sự khác biệt kiến thức của các bác sỹ công tác ở Yên Bái và Hà
Giang về xác định đúng mục tiêu điều trị THA (44,0% so với 43,3%; p>0,05), về
xác định đúng mục tiêu hạ huyết áp khi đột quỵ trong 24h đầu tiên (20,0% so với
26,7% với p>0,05) và về phối hợp thuốc đúng trong điều trị THA ( 36,0% so với
46,7% với p>0,05).

Biểu đồ 3.3. Kiến thức đúng về bệnh THA theo thâm niên công tác
Nhận xét:


20


Các bác sỹ công tác trên 20 năm xác định đúng tiêu chuẩn chẩn đoán
THA(72,7% so với 87,9%), và xác định đúng mục tiêu điều trị THA (36,4% so với
48,5%), thấp hơn các bác sỹ công tác với thâm niên ít hơn 20 năm. Sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Tuy nhiên, các bác sỹ công tác trên 20 năm xác định đúng mục tiêu hạ huyết
áp khi đột quỵ trong 24h đầu tiên cao các bác sỹ công tác với thâm niên ít hơn 20
năm (34,8% so với 10,1%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Không thấy sự khác biệt về kiến thức đúng về phối hợp thuốc khi điều trị
THA giữa các bác sỹ công tác trên 20 năm và các bác sỹ công tác với thâm niên ít
hơn 20 năm(43,5% so với 43,3 %, p>0,05).

Bảng 3.3. Kiến thức đúng về bệnh THA của các bác sỹ theo lĩnh vực công tác

Nội dung

Xác định đúng tiêu chuẩn chẩn đoán
THA
Xác định đúng mục tiêu điều trị THA
Xác định đúng mục tiêu hạ huyết áp
khi đột quỵ trong 24h đầu tiên
Kiến thức đúng về phối hợp thuốc khi
điều trị THA

Lĩnh vực công tác
Khám chữa Dự phòng, quản
bệnh
lý, giảng dậy
(n =37 )
(n = 18)
n

%
n
%

p

31

83,8

14

77,8

>0,05

15

40,5

9

50,0

>0,05

8

21,6


5

27,8

>0,05

17

46,0

6

33,3

>0,05

Nhận xét:
Kiến thức của các bác sỹ trực tiếp tham gia khám chữa bệnh cao hơn các bác
sỹ tham gia công tác dự phòng, quản lý, giảng dạy về xác định đúng tiêu chuẩn


21

chẩn đoán THA (83,8 % so với 77,8%), về phối hợp thuốc đúng khi điều trị
THA (46,0% so với 33,3%). Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05).
Chưa thấy sự khác biệt kiến thức về xác định đúng mục tiêu điều trị THA
(40,5% so với 50,0%, p > 0,05) và về xác định đúng mục tiêu hạ huyết áp khi đột
quỵ trong 24h đầu tiên (21,6% so với 27,8%, p>0,05) của các bác sỹ trực tiếp
tham gia khám chữa bệnh so với các bác sỹ tham gia công tác quản lý, dự

phòng, giảng dạy.

6.

3.2.1.2. Kiến thức về rối loạn lipid và ĐTĐ
Bảng 3.4. Kiến thức đúng về rối loạn lipid và ĐTĐ
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Xác định đúng tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ

46

83,6

Xác định đúng mục tiêu điều trị ĐTĐ

10

18,2

Xác định đúng mục tiêu điều trị rối loạn
lipid máu cho bệnh nhân tim mạch

22

40,0


Nhận xét:
Số các bác sỹ xác định đúng tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ khá cao với 46 người
(chiếm 83,6%).
Tuy nhiên, tỷ lệ các bác sỹ xác định đúng mục tiêu điều trị ĐTĐ và xác định
đúng mục tiêu điều trị rối loạn lipid máu cho bệnh nhân tim mạch lại thấp (theo thứ
tự lần lượt là 18,2%; 40,0%).

Biểu đồ 3.4. Kiến thức đúng về rối loạn lipid máu và ĐTĐ của các bác sỹ theo địa dư


22

Nhận xét:
Chưa thấy có sự khác biệt kiến thức của các bác sỹ công tác ở Yên Bái và Hà
Giang về xác định đúng tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ (84,0% so với 83,3%; p > 0,05),
về xác định đúng mục tiêu điều trị ĐTĐ (16,0% so với 20,0%; p > 0,05) và về xác
định đúng mục tiêu điều trị rối loạn lipid máu cho bệnh nhân tim mạch ( 44,0% so
với 36,7% với p >0,05).

Biểu đồ 3.5. Kiến thức đúng về rối loạn lipid máu và ĐTĐ
theo thâm niên công tác
Nhận xét:
Các bác sỹ công tác trên 20 năm có kiến thức về xác định đúng tiêu chuẩn
chẩn đoán ĐTĐ (72,7% so với 87,9%), về xác định đúng mục tiêu điều trị rối loạn
lipid máu cho bệnh nhân tim mạch (77,3% so với 87,9%) thấp hơn các bác sỹ
công tác với thâm niên ít hơn 20 năm. Tuy nhiên, các bác sỹ công tác trên 20 năm
có kiến thức về xác đúng mục tiêu điều trị ĐTĐ (26,1% so với 10,0%) cao hơn
các bác sỹ công tác với thâm niên ít hơn 20 năm. Sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05).

Bảng 3.5. Kiến thức đúng về rối loạn lipid máu và ĐTĐ
của các bác sỹ theo lĩnh vực công tác

Nội dung

Lĩnh vực công tác
Khám chữa Dự phòng, quản
bệnh
lý, giảng dậy
(n =37 )
(n = 18)
n
%
n
%

p

Xác định đúng tiêu chuẩn chẩn đoán
ĐTĐ

33

89,2

13

72,2

>0,05


Xác định đúng mục tiêu điều trị ĐTĐ

5

13,51

5

27,8

>0,05


23

Xác định đúng mục tiêu điều trị rối
loạn lipid máu cho bệnh nhân tim mạch

16

43,2

6

33,3

>0,05

Nhận xét:

Kiến thức của các bác sỹ trực tiếp tham gia khám chữa bệnh cao hơn các bác
sỹ tham gia công tác dự phòng, quản lý, giảng dạy về xác định đúng tiêu chuẩn chẩn
đoán ĐTĐ (89,2% so với 72,2%) và về xác định đúng mục tiêu điều trị rối loạn
lipid máu cho bệnh nhân tim mạch (43,2% so với 33,3%). Tuy nhiên sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Kiến thức về xác định đúng mục tiêu điều trị ĐTĐ (13,5% so với 27,8%) của
các bác sỹ trực tiếp tham gia khám chữa bệnh lại thấp hơn so với các bác sỹ tham
gia công tác quản lý, dự phòng, giảng dạy. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống
kê (p> 0,05).


24

3.2.2. Kiến thức một số vấn đề sức khoẻ nhi khoa
7.

3.2.2.1. Kiến thức về xử trí khi trẻ sốt.
Bảng 3.6. Kiến thức đúng về xử trí khi trẻ bị sốt
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Xử trí đúng khi trẻ sốt (không dùng thuốc
dùng biện pháp vật lý )

52

94,6


Chỉ định đúng thuốc hạ sốt

47

85,5

Cho liều paracetamol đúng khi hạ sốt ở trẻ

36

65,5

Nhận xét:
Số bác sỹ công có kiến thức về xử trí đúng khi trẻ sốt và về chỉ định đúng
thuốc hạ sốt ở trẻ khá cao (lần lượt là 94,6%, 85,5%) , nhưng số bác sỹ biết cho liều
paracetamol đúng khi hạ sốt cho trẻ lại thấp hơn (chiếm 65,5%).
Biểu đồ 3.6. Kiến thức đúng về xử trí khi trẻ sốt theo địa dư
Nhận xét:
Kiến thức của các bác sỹ công tác ở Yên Bái thấp hơn ở Hà Giang về xử trí
đúng khi trẻ sốt (92,0% so với 96,7%; p>0,05), về chỉ định đúng thuốc hạ sốt
(81,1% so với 90,0%; p>0,05) và về cho liều pracetamol đúng khi hạ số ở trẻ (64,0
% so với 66,7%; p>0,05). Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Biểu đồ 3.7. Kiến thức đúng về xử trí sốt theo thâm niên công tác.
Nhận xét:
Kiến thức về xử trí sốt của CBYT có thâm niên công tác nhỏ hơn hoặc bằng
20 năm thấp hơn CBYT có thâm niên công tác trên 20 năm: Xử trí đúng khi trẻ sốt
(93,9% so với 95,5%), về chỉ định đúng thuốc hạ sốt ( 80,0% so với 91,3%) và về
cho liều paracetamol đúng khi hạ sốt ở trẻ( 63,3% so với 65,0%). Tuy nhiên, sự
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).

Bảng 3.7. Kiến thức đúng về xử trí sốt theo lĩnh vực công tác


25

Lĩnh vực công tác
Nội dung

Khám chữa
bệnh

Dự phòng, quản
lý, giảng dậy
(n = 18)

(n=37)
Xử trí đúng khi trẻ sốt (không
dùng thuốc dùng biện pháp vật lý
và uống ORS)
Chỉ định đúng thuốc hạ sốt
Cho liều paracetamol đúng khi hạ
sốt ở trẻ
Nhận xét:

p

n

%


n

%

35

94,6

17

94,4

>0,05

30

81,1

17

94,4

>0,05

27

73,0

9


50,0

>0,05

Chưa thấy có sự khác biệt kiến thức về xử trí sốt giữa các bác sỹ tham gia
khám chữa bệnh và bác sỹ tham gia công tác dự phòng, quản lý, giảng dạy: về xử trí
đúng khi hạ sốt (94,6% so với 94,4%; p > 0,05), về chỉ định đúng thuốc hạ sốt
(81,1% so với 94,4%; p>0,05) và về cho liều paracetamol đúng khi hạ sốt ở trẻ
(73,0% so với 50,0%; p > 0,05.).
8.

3.2.2.2. Kiến thức một số bệnh thường gặp ở trẻ
Bảng 3.8. Kiến thức đúng về một số bệnh thường gặp ở trẻ
Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Xác định đúng chẩn đoán sớm viêm phổi
ở trẻ

22

40,0

Xác định đúng chẩn đoán tiêu chảy cấp
ở trẻ em

34


61,8

Kiến thức đúng về bệnh tay – chân –
miệng

43

78,2

Nhận xét:
Số bác sỹ công có kiến thức về xác định đúng chẩn đoán tiêu chảy cấp ở trẻ
và kiến thức đúng về bệnh tay chân miệng khá cao ( lần lượt là 61,8% và 78,2% )
nhưng kiến thức về xác định đúng chẩn đoán sớm viêm phổi ở trẻ lại chưa đến 50%
(chiếm 40,0%).


×