Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Nghiên cứu nền kinh tế chia sẻ và ứng dụng công nghệ trong nền kinh tế chia sẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.18 KB, 8 trang )

QUẢN LÝ - KINH TẾ

NGHIÊN CỨU NỀN KINH TẾ CHIA SẺ
VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG NỀN KINH
TẾ CHIA SẺ
ThS. Phạm Văn Cường
Phòng Công tác sinh viên - Đại học Công nghệ
và Quản lý Hữu Nghị
Email:
Tóm tắt: Với bối cảnh thị trường hiện này, ta thể thấy sự xuất hiện của rất nhiều các
doanh nghiệp với những sản phẩm đa dạng, phong phú cùng với các chiến lược kinh
doanh khác nhau. Trong nhiều năm qua, một số doanh nghiệp hoàn toàn mới và khác
nhau đã xuất hiện với mô hình kinh doanh cơ bản của họ có điểm chung là họ hoạt động
trong các nền kinh tế chia sẻ trực tiếp, tiêu dùng hợp tác (Botsman & Rogers, 2010), nơi
mọi người cung cấp và chia sẻ các nguồn lực không được sử dụng theo những cách
sáng tạo và rất mới lạ. Bài báo nghiên cứu về nền kinh tế chia sẻ và ứng dụng công nghệ
trong nền kinh tế chia sẻ thời 4.0
Từ khóa: Kinh tế chia sẻ, Công nghiệp 4.0, Ứng dụng công nghệ

1. Giới thiệu về nền kinh tế chia sẻ
Kinh tế chia sẻ (còn được gọi là sharing
economy hoặc tiêu dùng cộng tác) là một mô
hình thị trường lai (ở giữa sở hữu và tặng
quà) trong đó đề cập đến mạng ngang hàng
dựa trên chia sẻ quyền truy cập vào hàng hóa
và dịch vụ (phối hợp thông qua các dịch vụ
trực tuyến dựa vào cộng đồng).
Kinh tế chia sẻ (sharing economy) còn
được gọi theo nhiều tên khác nhau như kinh
tế cộng tác (collaborative economy), kinh tế
theo cầu (on-demand economy), kinh tế nền


tảng (platform economy), kinh tế truy cập
(access economy), kinh tế dựa trên các ứng
dụng di động (app economy), v.v…

Trên thực tế, mô hình chia sẻ đã có từ
rất lâu: thư viện, thuê xe, CLB, phòng luyện
tập, xe ôm, chia sẻ trong làng xã, thị trấn. Tuy
nhiên từ giữa thế kỉ 20, việc chia sẻ trở nên
đắt đỏ và rắc rối hơn việc sở hữu, do sự bùng
nổ của sản xuất hàng loạt (cách mạng công
nghiệp).Từ đó xuất hiện chủ nghĩa tiêu dùng:
xây dựng trên ý tưởng tin rằng việc tiêu dùng
sẽ giúp người dân thấy hạnh phúc, việc tiêu
dùng giúp nền kinh tế phát triển mạnh hơn.
Giờ thì xu hướng lại đảo ngược trở lại do việc
chia sẻ dần trở nên rẻ hơn.
Nền kinh tế chia sẻ được bắt đầu manh
nha khái niệm năm 1995, khởi điểm tại Mỹ với
mô hình ban đầu có tính chất “chia sẻ ngang
hàng” nhưng không rõ rệt.
TẠP CHÍ KHOA HỌC 27
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ


Nó khởi đầu bằng dịch vụ website thông
tin cho thuê quảng cáo, người tìm việc, việc
tìm người... và giúp cho những cá nhân có
thể kiếm được việc làm, kiếm được tiền
quảng cáo. Mô hình kinh doanh này thật sự
phát triển mạnh mẽ khi nền kinh tế Mỹ rơi

vào khủng hoảng năm 2008, người dân buộc
phải thay đổi cách tiêu dùng để thích ứng với
bối cảnh khó khăn. Việc “chia sẻ” những tài
nguyên sẵn có bằng các ứng dụng công nghệ
cùng những khoản lợi nhuận khổng lồ đem
lại cho nhà cung ứng dịch vụ lẫn người cho
thuê và sử dụng tài nguyên, đã khiến mô hình
kinh doanh này nhanh chóng phát triển vượt
ra khỏi biên giới Mỹ, lan rộng khắp châu Âu và
toàn thế giới.
Nền kinh tế chia sẻ thuộc một xu hướng
lớn hơn bắt đầu từ thời Internet: xu hướng đảo
ngược chủ nghĩa tiêu dùng. Khi Internet được
lan rộng, các trang như eBay và Craigslist
giúp kết nối những người có và những người
cần một cách hiệu quả hơn. Chia sẻ và tái
phân phối tài nguyên bắt đầu rẻ đi so với mua
đồ mới và vứt đồ cũ đi. Mọi người không chỉ
là người mua mà còn có thể bán thông qua
thương mại ngang hàng.
2. Một số mô hình kinh doanh mới trong
nền kinh tế chia sẻ:
• Mô hình RelayRides:
Đây là mô hình chia sẻ xe ô tô trong cộng
đồng, tận dụng nguồn tài nguyên đang bị lãng
phí là những chiếc xe ôtô được tư nhân sở
hữu. Giá đặt ra trên nền tảng RelayRides thấp
hơn giá của các công ty cho thuê xe khác
khoảng 35%. Chủ sở hữu xe có thể cho thuê
xe của mình trên nền tảng và thu về trung

bình 300 – 500 USD/tháng, có thời điểm lên
tới 1.000 USD/tháng. Đối tượng được thuê xe
là những người được đánh giá là lái xe an
toàn trong ít nhất 2 năm (không gây tai nạn,
không bị phạt). Kết thúc quá trình giao dịch,
người thuê và người cho thuê có thể đánh giá
lẫn nhau.
28 TẠP CHÍ KHOA HỌC

QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ

• Mô hình Airbnb:
Mô hình Airbnb chia sẻ nhà ở cho người
đi du lịch, tận dụng nguồn tài nguyên đang
lãng phí là những căn phòng không dùng đến.
Thông qua nền tảng này, chủ sở hữu căn nhà
cho thuê và người thuê nhà sẽ gặp được nhau
và ký kết hợp đồng thuê nhà. Giá thuê nhà
định ra trên nền tảng Airbnb luôn thấp hơn giá
thuê phòng khách sạn khoảng 3 lần. Theo ước
tính, chỉ trong 1 đêm đã có đến 40.000 người
thuê chỗ ở từ một dịch vụ cung ứng 250.000
phòng tại 30.000 thành phố ở 192 nước và
mọi thanh toán đều qua mạng internet.
Điều đáng nói là những căn phòng hay chỗ
ngủ này không phải do một chuỗi khách sạn
nào đó cung cấp mà do các cá nhân. Những
người cần thuê và chủ cho thuê được “mai
mối” nhờ Airbnb - một công ty có trụ sở tại San
Francisco (Mỹ). Sau giao dịch người thuê và

người cho thuê cũng có thể đánh giá lẫn nhau
trên nền tảng này. Hiện nay, Airbnb được định
giá gần 20 tỷ USD và đã hiện diện ở rất nhiều
nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
• Nền tảng Uber:
Nền tảng Uber tận dụng nguồn tài nguyên
ô tô, xe gắn máy ít được đưa vào lưu thông
và người lao động không kiếm được việc làm
trong cộng đồng. Thời gian đầu, Uber chỉ kinh
doanh trong lĩnh vực xe hạng sang, sau đó
mở rộng ra các lĩnh vực khác như xe bình
dân, xe SUV, vận chuyển… Mức giá của Uber
thường rẻ hơn các dịch vụ cung cấp bởi công
ty truyền thống. Hiện nay, Uber được định giá
18,2 tỷ USD.
Tham gia mô hình này, chủ sở hữu xe ô tô,
xe gắn máy thực hiện việc đăng ký trên nền
tảng, làm bài kiểm tra khả năng lái xe. Khách
hàng muốn đặt xe thông qua nền tảng này
sẽ click vào nền tảng Uber, chọn địa chỉ nơi
đi, nơi đến và nhấn nút đặt xe, ứng dụng này
sẽ lựa chọn ngẫu nhiên một phương tiện gần
với khách hàng nhất. Khi đã kết nối, lái xe và


người đặt xe liên lạc và thông báo điểm đón
thông qua điện thoại di động. Sau sử dụng
dịch vụ, người lái xe và người sử dụng dịch vụ
cũng có thể đánh giá lẫn nhau trên nền tảng.
• Mô hình TaskRabbit:

Còn gọi là mô hình giúp đỡ nhau trong
cộng đồng, được đầu tư 38 triệu USD vào
năm 2012. Mô hình này được hiểu một cách
đơn thuần là những người có công việc cần
thực hiện nhưng không đủ khả năng (thiếu
thời gian, kỹ năng…) sẽ đẩy thông tin lên nền
tảng để tìm kiếm người lao động phù hợp
(kỹ năng, mức giá, vị trí). Người có nhu cầu
cần làm việc sau khi hoàn thành công việc sẽ
được thanh toán online. Kết thúc công việc,
người lao động và người thuê cũng có cơ hội
đánh giá lẫn nhau trên nền tảng.
• Mô hình KickStarter:
Còn gọi là mô hình gọi vốn từ cộng đồng
để thực hiện các dự án. Người có dự án nghệ
thuật, phát triển phần mềm, nghiên cứu khoa
học công nghệ sẽ đăng tải nội dung dự án của
mình lên nền tảng để cộng đồng người dùng
KickStarter xem xét cấp vốn. Người cấp vốn
có thể thu lại những sản phẩm như áo phông,
phần mềm sử dụng, sản phẩm mẫu… của dự
án mà họ cấp vốn, tùy theo mức tiền mà họ bỏ
ra để ủng hộ. Mô hình này thu hút sự tham gia
của số đông những người trẻ khởi nghiệp. Số
vốn KickStarter đã thu hút cho hơn 100.000
dự án đạt gần 1 tỷ USD.
• Mô hình cho vay trong cộng đồng
Peer lending:
Là mô hình trong đó các đối tượng trong
cộng đồng cho vay lẫn nhau, không thông qua

trung gian là ngân hàng. Ví dụ, các làng xã,
khu dân phố thành lập quỹ chung dùng để hỗ
trợ cho người trong khu gặp việc khẩn cấp.
Nền tảng đánh giá người vay thông qua dữ
liệu quá khứ và tập hợp dữ liệu thu thập được
từ nhiều nguồn để đưa ra mức độ an toàn

của khoản vay. Các khoản vay trên nền tảng
này thường có lãi suất thấp hơn nhưng người
cho vay lại thu được nhiều hơn gửi vào ngân
hàng, theo công ty là do chi phí tổ chức của
công ty thấp hơn của ngân hàng.
• Bartering giữa các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp có những tài sản, máy
móc thừa, nhà kho chưa dùng đến, sản phẩm
tồn kho… có thể trao đổi với nhau để cả 2 bên
cùng có lợi, đồng thời tiết kiệm thời gian do
không phải thông qua việc chuyển tiền. Hoặc
các doanh nghiệp có những kỹ năng chuyên
môn riêng biệt có thể thực hiện đào tạo cho
một nhóm doanh nghiệp, chia sẻ kỹ năng của
mình, nhận về thông tin hữu ích… Thị trường
chia sẻ doanh nghiệp với doanh nghiệp có thể
còn lớn hơn so với thị trường chia sẻ giữa
người dân.
• Car Pooling – đi chung xe:
Mô hình này xuất hiện vào năm 1970 khi
giá xăng tăng cao, thịnh hành ở Đức vào cuối
thế kỷ XX, với đặc điểm của xã hội là những
người đi làm phải di chuyển khá xa, cần phải

dùng xe ô tô, chi phí xăng rất cao. Vì thế,
người dân đi chung xe với nhau để tiết kiệm
tiền di chuyển. Tại Đức, mô hình car pooling
phổ biến đến mức quốc gia này đã xây dựng
một làn đường riêng dành cho các xe chở
đông người.
3. Ứng dụng một số công nghệ trong
nền kinh tế chia sẻ
a, Công nghệ in 3D:
Hiện nay, công nghệ in 3D càng ngày càng
trở nên phổ biến và phát triển mạnh ở những
thành phố lớn như London, New York…. Nhờ
vào sự đổi mới kỹ thuật số mà các thiết kế, in
ấn 3D không còn xa lạ gì với con người, đặc
biệt hơn là họ còn ứng dụng nó vào nền kinh
tế chia sẻ. Điều làm cho công nghệ in 3D ngày
càng phát triển rộng rãi đó là các mô hình nền
kinh tế chia sẻ đang dần xuất hiện trong lĩnh
TẠP CHÍ KHOA HỌC 29
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ


vực in 3D, chủ yếu là việc chia sẻ các thiết kế
in 3D và chia sẻ bản quyền các thiết kế. Với
nền tảng công nghệ thông tin, sự phát triển
của thương mại điện tử áp dụng các mô hình
kinh tế chia sẻ mà đối tượng mua bán không
chỉ là sản phẩm mà còn là các thiết kế in 3D,
bản quyển của các thiết kế…
Đã có rất nhiều những trang web nền tảng

xuất hiện để chia sẻ các thiết kế in 3D như:
- Thingiverse: tự hào là "một vũ trụ của
mọi thứ", có hơn 50 nghìn thiết kế 3D và các
mô hình được sắp xếp trong bộ sưu tập.
- GrabCAD: GrabCAD Community Library
cung cấp 2,8 triệu thiết kế và mô hình bao
gồm CAD , nhờ cộng đồng thiết kế, kỹ sư và
sinh viên trên toàn thế giới.
- CGTrader: là một trang web khác với
hơn hai triệu mô hình 3D, có sẵn ở nhiều định
dạng tệp như 3DS, C4D, FBX, MAX và OBJ.
- Clara.io : lưu trữ hơn 100 nghìn mô hình
3D miễn phí ở các định dạng khác nhau như
Babylon.JS, OBJ, STL và Three.JS, hoạt động
trong nhiều ứng dụng thiết kế.
- 3DSky: có một bộ sưu tập gồm hơn 80
nghìn mẫu được sắp xếp theo nhiều loại khác
nhau như đồ gia dụng, phòng tắm, trang trí,
đồ nội thất, nhà bếp, vật liệu, kết cấu , v.v…
- MyMiniFactory: là một nền tảng được
sắp xếp giới thiệu các mô hình 3D. Bạn có
thể tìm kiếm và tải xuống các đối tượng, được
cộng đồng toàn cầu tải lên.
- Autodesk Online Gallery: nền tảng từ
Autodesk, lưu trữ khoảng 44 nghìn mô hình.
Ngoài ra, bất kỳ ai cũng có thể tải lên các mô
hình 3D của riêng mình.
- TurboSquid: cung cấp các mô hình 3D ở
nhiều định dạng như 3DS, C4D, FBX, OBJ và
hơn thế nữa. Trang web lưu trữ hơn 18 nghìn

mô hình, có thể tìm kiếm và có thể sắp xếp.
30 TẠP CHÍ KHOA HỌC

QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ

- 3DXtras: Với một bộ sưu tập các mô
hình 10k + 3D, 3DXtras lưu trữ các mô hình
trong nhiều danh mục bao gồm ô tô, điện tử,
xe máy, nhà máy, thể thao,...
- Archive 3D: là một kho lưu trữ khác chứa
bảy nghìn thiết kế 3D theo nhiều danh mục
như thiết bị và thiết bị, trang trí nội thất, cấu
trúc, v.v
- Cad Nav: cung cấp hơn 5 nghìn mô hình
3D, có sẵn để tải xuống ở nhiều danh mục
và các định dạng khác nhau trong 3DS, C4D,
IBJ, ZTL, v.v.
b, Bigdata:
Trong nền kinh tế chia sẻ, mọi người cung
cấp các nguồn lực xã hội nhàn rỗi cho người
khác theo cách chia sẻ. Thông qua các nền
tảng trực tuyến dựa trên cộng đồng, những
người cung cấp dịch vụ có thể kiếm được hoa
hồng (ví dụ như: thuê nhà/xe hơi/lao động
thặng dư,..) trong khi ai đó có quyền truy cập
ngắn hạn vào các nguồn lực xã hội với giá
thấp hơn thay vì mua nó. Do đó, giá trị sử
dụng dịch vụ dự kiến sẽ được tăng cường
trong thời gian đơn vị, mặc dù tổng lượng tài
nguyên xã hội không đổi. Bị ảnh hưởng bởi

nền kinh tế chia sẻ, một số công ty nổi tiếng
đã phát triển các hệ thống thông minh để phân
tích sự trùng hợp thích hợp nhất giữa nguồn
lực nhàn rỗi và nhu cầu thuê từ nhiều bộ dữ
liệu.
Mô hình Amazon Mechanical Turk chính là
một ví dụ điển hình cho việc ứng dụng các hệ
thống thông minh vào nền kinh tế chia sẻ đáp
ứng nhu cầu dịch vụ tối ưu.
Dựa trên mô hình Amazon Mechanical
Turk, những người có thể sử dụng lao động
dư thừa - có thể tìm thấy các lượt truy cập để
kiếm tiền, trong khi những người mà tải lên
các nhiệm vụ làm việc thì có thể nhận được
kết quả tốt. Hai loại tập dữ liệu khác nhau trở
nên lớn với số lượng người dùng trực tuyến


đơn vị, mặc dù tổng lượng tài
nguyên xã hội không đổi. Bị ảnh

Hình
1. Hệ
thống
tổ chức
vàchia
quảnsẻlýAmazon
đào tạo Mechanical
nghề cho laoTurk
động(ảnh:

nôngInternet)
thôn.
Hình
1. Mô
hình
kinh tế

vụ bao gồm một khối lượng lớn dữ
Dựa trên mô hình Amazon
liệu mô tả thông tin về nơi làm việc
Mechanical Turk, những người có
ngày càng tăng. Trong đó, bộ dữ liệu dịch vụ
c, AI:
thể sử
dụng
laolớn
động
thừa
có thể
của con người, giờ làm việc và thanh
bao gồm một
khối
lượng
dữdư
liệu
mô- tả
Trí
tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence-AI)
thông tin về
nơithấy

làm các
việc lượt
của con
giờkiếm
tìm
truyngười,
cập để
toán
dự kiến để làm việc tốt. Tương
là trí tuệ được biểu diễn bằng bất kỳ một hệ
làm việc vàtiền,
thanhtrong
toán dự
kiến
để
làm
việc
tốt.
khi những người mà tảithống tự,
một
tả dụng
công của
việctríđược
nhân
tạoloạt
nàocác
đó.mô
Ứng
tuệ
Tương tự, một loạt các mô tả công việc được

lêntrong
các nhiệm
có thểnhân tạo
bao
tác vụ
lập
đánh
giágồm
caocác
trong
tậpđiều
dữ khiển,
liệu nhu
đánh giá cao
tập dữ vụ
liệulàm
nhu việc
cầu. thì
Phân
lời trên
các
đượctrên
kếttoán
quảtửtốt.
Haitứcloại
cầu. (scheduling),
Phân tích dữkhả
liệunăng
lớn trả
chạy

tích dữ liệunhận
lớn chạy
khớp,
là tậpkế hoạch
câu
hỏi
về
chẩn
đoán
bệnh,
nhận
dạng
chữ
trí thông minh
nhânkhác
tạo Amazon,
tìmlớn
kiếm
dữ liệu
nhau trởđể
nên
với sốviết tay,
toán
tử khớp, tức là trí thông minh
nhận dạng tiếng nói và khuôn mặt…
một giải pháp phù hợp với nhu cầu dịch vụ
lượng người dùng trực tuyến ngàyvv. Cùng
nhân
để tìm
vớitạo

sự Amazon,
phát triển của
côngkiếm
nghệ,một
trí
tối ưu, từ hai bộ dữ liệu lớn. Khi một cặp dịch
đã và
đang
được
tăng. kết
Trong
dữthuận
liệu dịchtuệ nhân
giảitạo
pháp
phù
hợp
vớiứng
nhudụng
cầu trong
dịch
vụ và nhu càng
cầu được
hợp đó,
tốt, bộ
thỏa
thanh toán 90% tương ứng cho công nhân và
10% còn lại cho mô hình Amazon Mechanical
Turk có thể được thực hiện.


Trước hết, bộ điều khiển hệ thống thông
minh chia bộ tác vụ khớp dịch vụ toàn cầu
thành các nhóm con, mỗi nhóm tương ứng
với một cặp dịch vụ nhỏ hơn và bộ dữ liệu
nhu cầu.
Tóm lại, chia sẻ kinh tế có tầm quan trọng
lớn trong việc hiện thực hóa tiêu dùng xanh
và phát triển bền vững trong xã hội loài người
chúng ta. Chia sẻ kinh tế doanh nghiệp kêu
gọi thiết kế hệ thống thông minh để phù hợp
với nhu cầu dịch vụ trong kỷ nguyên dữ liệu
lớn hiện nay.

rất nhiều lĩnh vực khác nhau như lao động, y
tế, an ninh, giao thông, marketing….

Bằng những đổi mới không ngừng nghỉ
cùng với sự phát triển của Internet và công
nghệ thông tin có liên quan có vẻ quá tải. Ban
đầu, vào những năm 1990, các ứng dụng của
Internet chủ yếu tập trung vào xuất bản và lấy
thông tin. Thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ
mới chứng kiến sự phát triển của cái gọi là
cộng đồng chia sẻ và mạng xã hội Web 2.0.
Và hiện tại thì dường như mọi thứ trở nên
thuận tiện hơn rất nhiều với nền kinh tế chia
sẻ và các ứng dụng của Trí tuệ nhân tạo (AI).
Internet là một phương tiện mạnh mẽ để
cắt ngắn thời gian, bớt tốn công sức và sự
không đáng tin cậy. Nó có thể đóng vai trò

TẠP CHÍ KHOA HỌC 31
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ


trung gian rất thông minh, điều phối tất cả các
hành động cần thiết để giải quyết các thách
thức, theo cách giải quyết vấn đề và cơ hội
được khai thác theo cách hiệu quả nhất. Ta
có thể hiểu rõ hơn điều này thông qua ứng
dụng Email. Email làm trung gian giữa các cá
nhân để người này có thể truy vấn hoặc đề
xuất giải pháp cho người khác mà không bị
giới hạn bởi khoảng cách, thời gian hoặc chi
phí. Các công cụ tìm kiếm làm trung gian giữa
một người dùng có yêu cầu và lượng thông
tin khổng lồ có sẵn trên web có thể trả lời câu
hỏi đó. Ngoài ra còn có các trang web chia
sẻ thông tin, chẳng hạn như Wikipedia, thu
thập, sắp xếp và công khai các câu trả lời có
thể hữu ích, do đó làm cho chúng dễ tìm thấy
hơn. Phương tiện truyền thông xã hội tự động
hóa việc tuyên truyền cung cấp và nhu cầu
trên các mạng xã hội hoặc cộng đồng.
Các cửa hàng hoặc chợ trên web, như
Amazon hoặc eBay, làm trung gian giữa các
khách hàng muốn mua một số mặt hàng và
các nhà cung cấp sẵn sàng bán nó. Họ cung
cấp quyền truy cập vào một loạt các mặt hàng
lớn hơn nhiều so với những gì có sẵn trong
một cửa hàng truyền thống, trong khi thuật

toán của họ có thể giúp bạn tìm ra sản phẩm
phù hợp nhất với giá thấp nhất. Các hệ thống
cung cấp dịch vụ đám đông (như Amazon
Mechanical Turk) và các trang web tự do (như
oDesk) làm trung gian giữa những người
hoặc tổ chức cần thực hiện một số công việc
và mọi người sẵn sàng làm việc đó. Các nền
tảng gây quỹ cộng đồng làm trung gian giữa
các đại lý cần vốn để bắt đầu một dự án đầy
triển vọng và hàng triệu người có thể sẵn
sàng cung cấp một số tiền của họ để đầu tư
vào một liên doanh.
Ngay cả nhu cầu di chuyển cũng được
chia sẻ trên các trang web (như Expedia hoặc
Google Maps) để tìm thấy các chuyến xe buýt,
xe lửa hoặc máy bay để đưa bạn từ vị trí hiện
tại đến điểm đến mong muốn của bạn tại thời
điểm mong muốn. Điều này vẫn còn tương
32 TẠP CHÍ KHOA HỌC

QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ

đối không linh hoạt, bởi vì nó bắt đầu từ việc
cung cấp giao thông công cộng hiện có, có thể
không đáp ứng nhu cầu cụ thể của bạn. Liên
quan đến xe ô tô tư nhân có thể giải quyết vấn
đề này. Dịch vụ taxi phối hợp linh hoạt, như
Uber hoặc Lyft, phù hợp với tài xế và hành
khách tùy thuộc vào khoảng cách, thời gian
và giá cả. Tuy nhiên, điều này vẫn còn khá tốn

kém vì người lái xe cần đầu tư đầy đủ xe, thời
gian và nhiên liệu.
Gần đây còn xuất hiện một số cách thức
chia sẻ khá mới lạ như trong trường hợp chia
sẻ đi xe, có các nền tảng thương mại (như
AirBnB), nơi mọi người được cung cấp một
phòng ở nơi họ đến để đổi lấy một khoản phí
trả cho chủ phòng và các tổ chức phi thương
mại (như Couchsurfing), nơi mọi người có thể
ở tự do trong phòng của ai đó với điều kiện
duy nhất là để nó ở trạng thái tốt. Trong cả
hai trường hợp, nền tảng làm trung gian giữa
chủ sở hữu địa phương cung cấp phòng và
khách du lịch yêu cầu phòng, đồng thời tìm
kiếm sự phù hợp tối ưu theo các tiêu chí như
địa điểm, thời gian, phí và danh tiếng của chủ
sở hữu hoặc khách du lịch. Một ví dụ khác là
chia sẻ khu phố, nơi những người sống trong
một cộng đồng cụ thể sử dụng trang web để
quảng cáo các thiết bị hiếm khi được sử dụng
(như máy xén cỏ, thang hoặc máy khoan) mà
họ sẵn sàng cho các thành viên khác trong
cộng đồng vay - với điều kiện duy nhất là họ
cũng vậy có thể mượn một cái gì đó từ cộng
đồng khi họ cần. Việc cung cấp lớn và đa dạng
giúp loại bỏ nhu cầu của hầu hết các cá nhân
để mua thiết bị đó, do đó giảm mạnh chi phí
và tiêu thụ tài nguyên.
4, Đánh giá các cơ hội và thách thức
trong nền kinh tế chia sẻ

a, Cơ hội:
Lợi ích đạt được của nền kinh tế chia sẻ là
rất lớn. Cụ thể là tiết kiệm chi phí, giúp bảo vệ
môi trường, tăng tính hiệu quả của nền kinh
tế, giảm bớt sự lãng phí tài nguyên xã hội và


sự dư thừa năng lực của các sản phẩm dịch
vụ. Đây chính là những yếu tố khiến mô hình
nền kinh tế chia sẻ có những tiềm năng phát
triển lớn mạnh hơn nữa trong tương lai, sẽ
không chỉ là một thị trường ngách hay một
hiện tượng nhất thời mà là tương lai của môi
trường kinh doanh toàn cầu.
Mở ra nhiều cơ hội kinh doanh lớn: KTCS
giúp tạo ra một phương thức kinh doanh mới,
mở ra cơ hội kinh doanh mới dựa trên nền
tảng số, ứng dụng công nghệ 4.0. Bên cạnh
đó, KTCS góp phần tạo nên một thị trường
cạnh tranh hơn và loại hình dịch vụ đa dạng
hơn, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng;
đồng thời, tạo thêm nhiều việc làm cho người
lao động, tăng thêm thu nhập.
b, Thách thức:
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích vượt
trội trên, mô hình nền kinh tế chia sẻ cũng tồn
tại nhiều mối lo ngại cho sự phát triển của nó,
đặc biệt là tính pháp lý.
Những thách thức về khung pháp lý đặt
ra cho mô hình kinh doanh chia sẻ, đó là sự

cạnh tranh “không công bằng”, tình trạng này
đang khiến cơ quan quản lý của nhiều quốc
gia bối rối. Bên cạnh đó, việc trốn thuế của
các công ty tham gia nền kinh tế chia sẻ cũng
sẽ trở thành mối quan tâm lớn của Chính phủ
các quốc gia, khi mà những khoản lợi nhuận
mà các công ty này thu được ước tính lên tới
những con số khổng lồ. Những công ty này
hiện vẫn duy trì danh nghĩa là công ty tư nhân,
điều này cho phép họ linh động điều chỉnh,
không phải báo cáo số liệu với cổ đông, không
bị kiểm toán độc lập và không ai có thể giám
sát tài khoản.
5, Một số giải pháp phát triển nền kinh
tế chia sẻ tại Việt Nam
Đầu tiên là cần tận dụng cơ hội cho phát
triển kinh tế - xã hội mà KTCS mang lại, coi đó
cũng là tận dụng cơ hội của cách mạng công

nghiệp lần thứ tư.
Hai là, tiếp tục cải thiện môi trường kinh
doanh nhằm thích nghi với sự đa dạng và phát
triển nhanh của nền kinh tế số, trong đó KTCS
chỉ là một dạng mô hình kinh doanh mới ở
một số lĩnh vực, tồn tại đồng hành cùng mô
hình kinh doanh truyền thống; bảo đảm môi
trường kinh doanh bình đẳng, khuyến khích
các start-up.
Ba là, cần nhanh chóng cải thiện hệ sinh
thái đổi mới sáng tạo, tạo thuận lợi cho việc

mở rộng phạm vi các sáng kiến kinh doanh,
đào tạo nhân lực, kết nối giữa các bên tham
gia hệ sinh thái, thu hút vốn đầu tư mạo hiểm…
Bốn là, đẩy mạnh xây dựng Chính phủ
điện tử và kết cấu hạ tầng số, đặc biệt là xây
dựng hệ thống dữ liệu mở, thông suốt để phục
vụ quản lý nhà nước đối với KTCS.
Cuối cùng là tăng hoạt động đánh giá tác
động của KTCS đến các mục tiêu phát triển
(đầu tư, việc làm, công nghệ, thuế, cạnh
tranh...) và dự báo sự phát triển của các lĩnh
vực có tiềm năng cho mô hình KTCS để chủ
động điều chỉnh linh hoạt chính sách, quy
định.
6, Kết luận
Có thể thấy rằng "kinh tế chia sẻ" đang
là xu hướng mới song hành cùng cuộc cách
mạng về công nghệ thông tin trở thành một
trong những trụ cột quan trọng của nền kinh
tế số (Digital Economy), là mối quan tâm hàng
đầu của các doanh nhân và doanh nghiệp
khởi nghiệp tại nhiều quốc gia và được ví
như là "gà đẻ trứng vàng" mới cho nhiều nền
kinh tế. "Kinh tế chia sẻ" vẫn còn nhiều không
gian rộng lớn để phát triển và lấp đầy những
khoảng trống của các thị trường kinh doanh
truyền thống hiện tại
Cần tận dụng cơ hội cho phát triển kinh
tế - xã hội của mô hình kinh tế chia sẻ mang
lại; coi đó cũng là tận dụng cơ hội của cuộc

TẠP CHÍ KHOA HỌC 33
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ


CMCN 4.0, cụ thể là sự phát triển của thời đại
số, bắt kịp xu hướng chung của thế giới; tiếp
tục cải thiện môi trường kinh doanh cho thích
nghi với sự đa dạng và phát triển nhanh của
nền kinh tế số, trong đó kinh tế chia sẻ chỉ là
một dạng mô hình kinh doanh mới ở một số
lĩnh vực, tồn tại đồng hành cùng mô hình kinh
doanh truyền thống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Arun Sundarajan, “Sách: Nền kinh tế
chia sẻ_Sự kết thúc của việc làm và sự trỗi
dậy của chủ nghĩa tư bản dựa trên đám đông”,
Nguyễn Tuấn Việt dịch, NXB Trẻ, 2018.

34 TẠP CHÍ KHOA HỌC

QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ

[2]. ThS. Lê Thanh Thủy (2018), “Các mô
hình kinh tế chia sẻ nổi bật trên thế giới và vấn
đề đặt ra với Việt Nam”, Tạp chí Tài chính.
[3]. Botsman, R., & Rogers, R. (2010),
“What’s mine is yours: The rise of collaborative
consumption”, New York, NY: Collins.
[4]. Lovins, H., & Cohen, B. (2011),
“Climate capitalism: Capitalism in the age of

climate change”, New York, NY: Hill & Wang.



×