Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.13 KB, 30 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH
NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I/ LỢI NHUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.Doanh nghiệp:
Nền kinh tế thị trường là động lực thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển
của xã hội.Đồng thời, nó cũng khuyến khích thu hút mọi thành phần kinh
tế, mọi tầng lớp xã hội tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh
nhằm tạo ra của cải và lợi ích xã hội.Doanh nghiệp là một trong những
thành phần đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế thị
trường.
Theo cách hiểu chung nhất,doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc
lập,có tư cách pháp nhân, thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị
trường nhằm mục đích tăng giá trị tài sản chủ sở hữu.
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại rất nhiều loại hình doanh nghiệp
như DN nhà nước,DN tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Công
ty liên doanh,…hoạt động trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân,
từ sản xuất cho tới kinh doanh thương mại.
1.1.2.Hoạt động của doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp là
sản xuất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng có nhu cầu,
trong giới hạn cho phép của nguồn nhân lực hiện có nhằm thu được
nhiều lợi nhuận nhất, nâng cao thu nhập của người lao động và góp
phần nâng cao thu nhập quốc dân, thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở
rộng của doanh nghiệp.Doanh nghiệp sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội.Như vậy, doanh nghiệp đã góp phần
vào sự phát triển kinh tế được đo lường bằng chỉ tiêu tổng sản phẩm
quốc nội (GDP).Đồng thời, để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ, doanh
nghiệp phải có các yếu tố đầu vào như: nguyên vật liệu, máy móc thiết
bị hay các bán thành phẩm từ các nhà sản xuất khác và đặc biệt là đội


ngũ lao động được đào tạo,có chuyên môn, nghiệpvụ.
Để có thể tồn tại và phát triển, mỗi doanh nghiệp đều phải giải quyết
được ba vấn đề cơ bản, đó là: sản xuất cho ai? sản xuất cái gì?và sản
xuất như thế nào?
Sản xuất cho ai?
Doanh nghiệp luôn có mối quan hệ mật thiết với nền kinh tế.Mọi
quyết định sản xuất của doanh nghiệp cuối cùng đều nhằm mục đích
thỏa mãn nhu cầu thị trường, hay nói cách khác là nhằm thỏa mãn nhu
cầu của khách hàng.Một doanh nghiệp không thể đáp ứng được nhu
cầu của tất cả khách hàng do nhu cầu quá đa dạng, phong phú và luôn
biến đổi còn khả năng của doanh nghiệp chỉ có giới hạn.Do vậy, mỗi
doanh nghiệp phải thực hiện phân đoạn thị trường, tìm cho mình một
nhóm khách hàng mục tiêu để sản xuất phục vụ yêu cầu của nhóm
khách hàng đó.
Quyết định sản xuất cho ai ảnh hưởng lớn đến kết cấu mặt hàng sản
xuẩt và tiêu thụ, quyết định khối lượng mặt hàng sản phẩm tiêu thụ từ
đó tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Quyết định sản xuất cái gì?
Nhu cầu thị trường về hàng hóa, dịch vụ rất phong phú, đa dạng và
ngày một tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhưng trên thực tế, nhu
cầu có khả năng thanh toán lại thấp hơn, cho nên muốn thỏa mãn nhu
cầu lớn trong khi khả năng thanh toán có hạn, xã hội nói chung và mỗi
người tiêu dùng nói riêng đều phải lựa chọn từng loại nhu cầu có lợi
nhất cho mình.Tổng các nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội,
của người tiêu dùng cho ta biết được nhu cầu có khả năng thanh toán
của thị trường.Nhu cầu này là căn cứ, là xuất phát điểm để định hướng
cho các chính phủ và các doanh nghiệp tính toán khả năng sản xuẩt của
nền kinh tế, của các doanh nghiệp và các chi phí sản xuất của nền kinh
tế, của doanh nghiệp, các chi phí sản xuất tương ứng để lựa chọn quyết
định sản xuất cái mà thị trường cần để có thể đạt được thu nhập quốc

dân và lợi nhuận tối đa.
Sản xuất như thế nào?
Có quyết định sản xuất cái gì, doanh nghiệp phải lựa chọn phương
thức sản xuất sao cho có hiệu quả nhất.Cụ thể hơn là phải lựa chọn và
quyết định sản xuất hàng hóa đó bằng nguyên vật liệu gì, thiết bị công
cụ dụng cụ như thế nào, công nghệ sản xuất ra sao nhằm đem lại sản
phẩm có hàm lượng công nghệ cao, chất lượng tốt nhất với giá cả thấp
nhất có thể.
Quyết định sản xuất cái gì là sự lựa chọn và kết hợp tối ưu các yếu
tố đầu vào của sản xuất.
Để đứng vững trên thị trường doanh nghiệp luôn phải đổi mới kỹ
thuật và công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề công nhân, tăng cường
chất lượng quản lý.Quyết định sản xuất như thế nào có ý nghĩa sống
còn với doanh nghiệp.Trong điều kiện nền kinh tế phát triển sôi động
như ngày nay quyết định này cần thiết phải được quan tâm.
1.2.Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường.
1.2.1.Khái niệm và nguồn gốc lợi nhuận
Ở đâu người ta cũng nhắc đến lợi nhuận, đặc biệt đối với các doanh
nhân thì đó là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Lợi nhuận là vấn đề băn
khoăn, trăn trở của các nhà lý luận và thực tiễn.
Trước hết, để nghiên cứu lợi nhuận cần hiểu rõ nguồn gốc và bản
chất của lợi nhuận.Rất nhiều câu hỏi được đặt ra: Lợi nhuận có từ đâu?
tại sao người ta thu được lợi nhuận?Lợi nhuận có phải là kết quả của
quá trình “mua rẻ, bán đắt”?
Theo từng quan điểm và góc độ xem xét, các nhà kinh tế đưa ra
nhiều quan điểm khác nhau:
Các nhà kinh tế học cổ điển trước Marx cho rằng “ cái phần trội lên
trong giá bán so với chi phí sản xuất là lợi nhuận”.
Còn các nhà kinh tế học hiện đại như P.A Samuelson lại quan niệm “

lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ đi tổng
số chi” hay cụ thể hơn “lợi nhuận được định nghĩa là khoản chênh lệch
giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của một doanh nghiệp”.Theo David
Begg, Stanley Fisher và Rudigev Dover Busch thì “lợi nhuận là lượng
dôi ra của doanh thu so với chi phí”.
Các nhà kinh tế học thuộc nhiều trường phái khác nhau đã đưa ra rất
nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của lợi nhuận.
+Phái trọng thương cho rằng:”Lợi nhuận được tạo ra trong lĩnh vực
lưu thông”
+Phái trọng nông quan niệm :” Giá trị thặng dư hay sản phẩm thuần
túy là tặng phẩm vật chất của thiên nhiên và nông nghiệp là ngành duy
nhất tạo ra sản phẩm thuần túy”.
+Phái cổ điển cụ thể là Adam Smith tuyên bố:”Lao động là nguồn gốc
sinh ra giá trị thặng dư”.Đồng thời, ông còn cho rằng:” Giá trị hàng hóa
bao gồm tiền công ,lợi nhuận và địa tô”. Còn David Ricardo thì cho rằng
“giá trị lao động của công nhân sáng tạo ra là nguồn gốc sinh ra tiền
lương cũng như lợi nhuận và địa tô”.Như vậy, cả Adam Smith và
Ricardo đều nhầm lẫn giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư.
Kế thừa những gì tinh tế nhất do các nhà kinh tế học tư sản cổ điển
để lại, kết hợp với việc nghiên cứu sâu sắc nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt nhờ có lý luận vô giá về giá trị hàng hóa sức lao động,
Mác đã đi đến một cách chính xác “ Giá trị thặng dư được quan niệm là
con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, mang hình thái biến tướng là lợi
nhuận”.Mác đã đưa ra công thức biểu thị giá trị thặng dư của hàng hóa
sản xuất ra như sau:
Gt = C + V + m
Trong đó: Gt là giá trị hàng hóa
C là chi phí sản xuất bỏ ra mua tư liệu sản xuất
V là chi phí thuê nhân công
m là giá trị thặng dư

Giá trị thặng dư, một phần của toàn bộ giá trị hàng hóa là lao động
không được trả công của công nhân nhập vào, là biểu thị của lợi
nhuận.Nếu hàng hóa bán ra theo giá trị của nó thì doanh nghiệp thu
được lợi nhuận bằng phần giá trị thừa so với chi phí sản xuất ra loại
hàng hóa đó.
Ở nước ta theo điều 3 luật doanh nghiệp ghi nhận “ Doanh nghiệp là
tổ chức kinh doanh có tên riêng, tài sản, trụ sở giao dịch ổn định, được
đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh”. Mà kinh doanh là việc thực hiện một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.Điều đó chứng tỏ lợi nhuận đã được pháp luật thừa nhận
như là mục tiêu chủ yếu và là động cơ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tuy nhiên, từ góc độ doanh nghiệp, theo cách hiểu chung nhất thì
“lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa thu nhập và chi
phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để đạt được thu nhập đó từ các hoạt
động của doanh nghiệp”.Lợi nhuận được tính cụ thể theo đơn vị thời
gian thường là một năm.
Tuy nhiên, nhà sản xuất vẫn thu được lợi nhuận khi bán hàng hóa
dưới điều kiện giá bán đó cao hơn tổng chi phí đã bỏ ra để sản xuất
hàng hóa dịch vụ đó.Đồng thời, để có được lợi nhuận doanh nghiệp
phải luôn tìm tòi, sáng tạo, đổi mới, phải nhìn thấy cơ hội mà người khác
bỏ qua, phát hiện ra sản phẩm mới, tìm ra phương pháp sản xuất tốt
hơn để có được chi phí sản xuất thấp.Nói cách khác, doanh nghiệp cần
mạo hiểm đầu tư vào lĩnh vực đôi khi là hoàn toàn mới mẻ, rủi ro cao.
Cũng có thể lợi nhuận doanh nghiệp thu được là do những lợi thế
đặc biệt mà những doanh nghiệp khác không có-lợi nhuận độc quyền.
Như vậy, có thể khẳng định được rằng lợi nhuận của doanh nghiệp
có nguồn gốc từ ba nguồn chính: Lợi nhuận thực thu được do hoạt động

sản xuất kinh doanh, phần thưởng từ sự mạo hiểm chấp nhận rủi ro và
lợi nhuận do độc quyền.
1.2.2. Vai trò của lợi nhuận
Lợi nhuận là kết quả cuối cùng của doanh nghiệp, đặc biệt trong nền
kinh tế thị trường khi mà các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán,
chế độ kinh tế kinh doanh, thì lợi nhuận là yếu tố sống còn đối với mỗi
doanh nghiệp.Lợi nhuận có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ riêng
đối với mỗi doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa đối với toàn xã hội.Ở đây
chỉ đề cập tới ý nghĩa của lợi nhuận đối với doanh nghiệp.Lợi nhuận của
doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của bộ phận sản phẩm thặng dư do
kết quả của người lao động mang lại.
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp nhất thể hiện kết quả của toàn bộ quá
trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, là yếu tố quyết định sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp.Nó thể hiện kết quả của hàng loạt các
công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh, từ khi bắt đầu tìm kiếm thị
trường, tiến hành sản xuất kinh doanh cho tới khi tổ chức bán hàng.Nó
phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh, phản
ánh chất lượng quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một thực thể thực hiện hoạt động sản xuất kinh
doanh.Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải
bỏ ra một chi phí nhất định.Sau khoảng thời gian của một chu kỳ sản
xuất nhất định, doanh nghiệp thu được một khoản lợi nhuận, để nuôi
sống bộ máy hoạt động và tiếp tục quá trình tái sản xuất.Lợi nhuận là
nguồn nuôi dưỡng doanh nghiệp thể hiện sức mạnh của doanh nghiệp
trên thương trường.Lợi nhuận là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp.
Lợi nhuận có ảnh hưởng lớn tới nguồn thu nhập của cán bộ công
nhân viên trong mỗi doanh nghiệp.Nhân viên trong doanh nghiệp có thu
nhập cao đủ đảm bảo đời sống vật chất và góp phần nâng cao đời sống
tinh thần là rất có ý nghĩa đối với toàn xã hội.Nhưng bên cạnh đó, nó

còn là động lực để tăng năng suất lao động- một trong những nhân tố
quan trọng nhằm nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
Có lợi nhuận doanh nghiệp mới có điều kiện trích lập các quỹ như:
quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ dự phòng tài
chính, quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm.
Tình hình trích lập các quỹ trên là rất quan trọng, bởi lẽ, mỗi quỹ đều
có mục đích riêng nhưng cuối cùng vẫn là tăng lợi nhuận cho doanh
nghiệp.
+ Quỹ đầu tư phát triển để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và
đổi mới công nghệ, trang thiết bị, đồng thời dùng để góp vốn liên
doanh,liên kết,mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn cổ phần.
+ Quỹ dự phòng tài chính nhằm mục đích bù đắp phần còn lại của
những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy ra trong quá trình sản xuất kinh
doanh sau khi đã bồi thường của các tổ chức cá nhân gây ra thiệt
hại.Quỹ dự phòng tài chính có đủ mạnh thì mới có thể giúp cho doanh
nghiệp bù đắp được những rủi ro bất thường xảy ra trong quá trình hoạt
động kinh doanh để ổn định sản xuất.
+ Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm nhằm tạo điều kiện trợ giúp
những khó khăn tạm thời đối với người lao động đã làm việc từ một năm
trở lên bị mất việc làm tạm thời, chi đào tạo lại chuyên môn, kỹ thuật do
thay đổi công nghệ hoặc chuyển sang công nghệ mới đặc biệt là đào
tạo nghề dự phòng cho cán bộ nữ của doanh nghiệp, tất cả đều nhằm
mục đích giúp đỡ người lao động nâng cao trình độ, tạo sự yên tâm,
khích lệ người lao động làm việc để tăng năng suất và hiệu quả lao
động.
+ Quỹ khen thưởng dùng để thưởng
+ Quỹ phúc lợi nhằm mục đích để đầu tư xây dựng hoặc sửa chữa,
bổ sung vốn xây dựng các công trình phúc lợi công cộng trong và ngoài
doanh nghiệp.Đồng thời còn dùng vào mục đích chi cho công nhân viên,
cán bộ quản lý có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, thưởng hoàn thành tốt

nhiệm vụ được giao nhằm động viên khích lệ tinh thần làm việc.Đồng
thời quỹ này còn được dùng với mục đích thưởng cho những cá nhân
và đơn vị bên ngoài doanh nghiệp có quan hệ kinh tế đã hoàn thành tốt
những điều kiện của hợp đồng, đóng góp có hiệu quả vào hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.cho các hoạt động thể thao văn hóa, phúc
lợi tập thể nhằm nâng cao năng lực lao động cũng như trình độ văn hóa
chung của toàn doanh nghiệp.
Ngoài ra có thể chi trợ cấp khó khăn cho người lao động của
doanh nghiệp khi đã nghỉ hưu, mất sức lao động, lâm vào hoàn cảnh
khó khăn, không nơi nương tựa, xây nhà tình nghĩa từ thiện nhằm mục
đích tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa doanh nghiệp với đội ngũ cán bộ
công nhân viên, tạo sự tin tưởng an toàn tuyệt đối cho người lao động
trung thành với doanh nghiệp, coi kết quả hoạt động chung của doanh
nghiệp cũng là kết quả hoạt động của chính bản thân họ.
Lợi nhuận là một đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến
khích người lao động và các đơn vị ra sức phát triển sản xuất nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở
phân phối đúng đắn.
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có lợi nhuận không chỉ tác động tích
cực đến bản thân doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền
kinh tế xã hội. Đứng trên quan điểm kinh tế học, khi doanh nghiệp làm
cho mình lớn mạnh cũng là lúc doanh nghiệp góp phần làm cho toàn bộ
nền kinh tế vững mạnh.Như vậy, khi doanh nghiệp phấn đấu tạo ra và
tạo ra càng nhiều lợi nhuận cho mình cũng là lúc doanh nghiệp góp
phần phát triển nền kinh tế quốc dân, hoạt động đó được thể hiện rõ ở
những điểm sau:
Thứ nhất, để đạt được mục tiêu gia tăng lợi nhuận, doanh nghiệp
phấn đấu tăng mức sản lượng tiêu thụ, tức là tăng của cải vật chất cho
xã hội, doanh nghiệp cần phấn đấu hạ giá thành sản phẩm cá biệt, tức
là đã tiết kiệm hao phí lao động để sản xuất ra một sản phẩm.Đây là

những đóng góp không nhỏ của doanh nghiệp đối với nền kinh tế quốc
dân.
Thứ hai, để đáp ứng nhu cầu gia tăng lợi nhuận một cách nhanh
chóng, doanh nghiệp thực hiện việc tái sản xuất mở rộng.Điều này tạo
ra thu hút thêm lực lượng lao động vào quá trình sản xuất của doanh
nghiệp, tạo ra một cơ hội làm việc cho một lực lượng lao động không
nhỏ để đáp ứng các yếu tố vật chất đầu vào của quá trình sản xuất của
doanh nghiệp.Như vậy,doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ vào việc
giảm thất nghiệp cho xã hội.Bên cạnh đó, việc nâng cao đời sống cán
bộ công nhân viên là việc thường xuyên, liên tục của doanh nghiệp, qua
đó doanh nghiệp đã góp phần nâng cao mức sống cho xã hội.
Thứ ba,lợi nhuận đạt được ngày càng nhiều thì phần đóng góp của
doanh nghiệp từ lợi nhuận đối với nhà nước ngày càng lớn ( thông qua
thuế thu nhập doanh nghiệp).Đây là khoản thu không nhỏ của ngân
sách nhà nước, tạo ra nguồn tích lũy để tái sản xuất mở rộng trong
phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Đối với bên thứ ba là những người có quan hệ với doanh nghiệp như
nhà cung cấp, ngân hàng, các nhà đầu tư..Nếu doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh có hiệu quả,có lợi nhuận thì doanh nghiệp dễ dàng đi vay
thêm vốn từ các ngân hàng, thu hút vốn của các nhà đầu tư,tạo lập tín
dụng thương mại với các nhà cung cấp.
Như vậy, có thể nói lợi nhuận giữ một vai trò quan trọng trong sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.Việc các doanh nghiệp phấn đấu để hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp mình ngày càng có hiệu quả, tạo ra lợi nhuận
ngày càng nhiều là điều kiện mà không chỉ doanh nghiệp mong muốn
mà cả nền kinh tế quốc dân cũng mong muốn như vậy.Lợi nhuận không
chỉ có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ riêng đối với bản thân
doanh nghiệp mà cả nền kinh tế.Vì vậy, có thể nói lợi nhuận là mục tiêu
cao nhất của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

1.2.3.Phân loại lợi nhuận:
Lợi nhuận có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đối tượng được các nhà lý
luận cũng như các nhà thực tiễn quan tâm.Do đặc điểm hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng nên lợi
nhuận được hình thành từ nhiều bộ phận.Hiểu rõ nội dung, đặc điểm
của từng bộ phận là cơ sở để thực hiện tốt công tác phân tích lợi
nhuận.Xét theo nguồn hình thành, lợi nhuận của doanh nghiệp chia
thành ba bộ phận chính như sau:
+ Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
+ Lợi nhuận từ hoạt động bất thường
Lợi nhuận của doanh nghiệp là tổng đại số của ba đại lượng trên.
Tùy từng doanh nghiệp cụ thể mà tỉ trọng mỗi loại khác nhau nhưng
nói chung lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh luôn chiếm tỉ
trọng lớn.Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực
tài chính, tiền tệ, ngân hàng thì lợi nhuận hoạt động tài chính lại chiếm tỉ
trọng lớn hơn.Nói chung, tỷ trọng từng bộ phận phụ thuộc vào từng loại
hình doanh nghiệp.
Bên cạnh đặc điểm của nền kinh tế thị trường cũng ảnh hưởng
không nhỏ tới cơ cấu bộ phận này.Tại những nền kinh tế thị trường phát
triển ở trình độ cao, các hoạt động tài chính năng động, hiệu quả thì
mảng tài chính doanh nghiệp sẽ phát triển với các hoạt động đa dạng về
tài chính.Do vậy, tỷ trọng lợi nhuận hoạt động tài chính cao hơn và
ngược lại với nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp, bộ phận này chiếm
tỷ trọng nhỏ.
Về nguyên tắc khi phân tích lợi nhuận của doanh nghiệp người ta
phân tích tất cả các bộ phận cấu thành.Tuy nhiên, trong điều kiện nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay với các doanh nghiệp không hoạt
động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh
doanh chiếm tỉ trọng chủ yếu.

a,Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh:
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuân thụ được
do tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.Đây là bộ phận lợi nhuận chiếm tỉ trọng lớn
trong toàn bộ lợi nhuận.

×