Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

THỰC TRẠNG VỀ TẠO ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN GIAO THỦY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.84 KB, 27 trang )

THỰC TRẠNG VỀ TẠO ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THƠN
HUYỆN GIAO THỦY.
2.1. Q trình hình thành và phát triển.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Giao Thủy thực
hiện theo quy chế tổ chức và hoạt động chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Việt Nam ( NHNo & PTNT ) là đơn vị cơ sở dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Nam
Định , cùng trải qua những giai đoạn hình thành và phát triển với NHNo &
PTNT tỉnh Nam Định, cụ thể:
Thành lập ngày 26-3-1988, trong suốt những năm qua, từ một ngân hàng
nhỏ bé, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu, Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn Nam Định đã trưởng thành và trở thành ngân hàng
thương mại kinh doanh đa năng lớn nhất trên địa bàn tỉnh với cơ sở vật chất,
công nghệ hiện đại. Hoạt động hiệu quả của đơn vị đã góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn, xoá đói, giảm nghèo và xây dựng hệ thống ngân hàng thương mại lớn
mạnh. NHNo Nam Định đã trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển từ khi
thành lập.
- Giai đoạn 1988 – 1991: NHNo & PTNT có tên là : Ngân hàng phát triển
nông nghiệp. Ngân hàng phát triển nông nghiệp Hà Nam Ninh (tỉnh Hà Nam
Ninh được thành lập trên cơ sở hợp nhất 2 tỉnh Nam Hà và Ninh Bình ngày 2712-1975 ), chính thức đi vào hoạt động trong bối cảnh cả nước bước vào công
cuộc đổi mới, đặc biệt ngành nông nghiệp có bước đột phá lớn kể từ khi thực
hiện Nghị quyết 10/NQ-TW ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản đó, Ngân hàng phát triển nông nghiệp
Hà Nam Ninh phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách. Nền kinh tế những
năm đầu đổi mới chưa thoát khỏi tình trạng lạm phát tăng vọt, giá cả leo thang.


Trong lúc đó, tại nhiều địa phương, hàng loạt các hợp tác xã tín dụng bị đổ bể,
dẫn đến tình trạng không thu hồi được các khoản nợ, mất khả năng thanh toán


cho người gửi tiền.
Để kiềm chế tốc độ lạm phát, dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng phát triển
nông nghiệp Việt Nam, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân tỉnh, Ngân hàng phát triển nông nghiệp Hà Nam Ninh đã
mạnh dạn thực hiện đồng bộ và triệt để một loạt giải pháp cụ thể nhằm khắc
phục khó khăn, yếu kém, hướng tới sự phát triển bền vững.
Trong lĩnh vực kinh doanh, để có nguồn vốn kinh doanh lâu dài, chi
nhánh đã tích cực huy động nguồn vốn trong các tổ chức kinh tế, trong dân cư,
đồng thời tiếp tục đầu tư tín dụng đúng hướng, tập trung ưu tiên đầu tư cho 3
chương trình kinh tế của tỉnh, đó là lương thực - thực phẩm - hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu, trong đó sản xuất và lưu thông lương thực được xác định là
ngành mũi nhọn của tỉnh. Mặt khác, ngân hàng đã ban hành nhiều văn bản chỉ
đạo triển khai thực hiện chủ trương, chính sách, cơ chế nghiệp vụ của Ngân
hàng phát triển nông nghiệp Việt Nam.
Nhờ những biện pháp chỉ đạo của các cấp và sự cố gắng vượt bậc của tập
thể lãnh đạo và cán bộ nhân viên đơn vị, Ngân hàng phát triển nông nghiệp tỉnh
đã đạt được nhiều thành tích khả quan, nhất là trong công tác huy động vốn.
Trong giai đoạn 1988-1991, 85 - 90% tổng nguồn vốn tín dụng đã được tập
trung đầu tư cho 3 chương trình kinh tế, trong đó 65 - 70% tập trung cho sản
xuất và lưu thông lương thực. Ngoài ra, ngân hàng đã mạnh dạn đầu tư vốn cho
nhiều đơn vị kinh tế mạnh dạn chuyển sang làm mặt hàng xuất khẩu, giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động và tăng thu cho ngân sách nhà nước như:
đầu tư vào vùng dâu tằm tơ với tổng vốn cố định 1,7 tỷ đồng, vốn lưu động trên
10 tỷ đồng; đầu tư vào vùng trồng nấm xuất khẩu với số vốn 400 triệu đồng,...
Năm 1991 Ngân hàng phát triển nông nghiệp được đổi tên thành Ngân hàng
nông nghiệp


- Giai đoạn 1992 - 1996: sau hơn 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới
(1986 - 1991), kinh tế Nam Định đã đạt được những kết quả khả quan: sản xuất

nông nghiệp đang trên đà phát triển nhanh và ổn định; các ngành công nghiệp tiểu thủ công nghiệp dần thích nghi với cơ chế thị trường và sự tham gia của các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo bước phát triển mới, tích cực cho nền kinh
tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ thực tế trên, Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Định đã tập trung chỉ đạo đổi
mới cơ chế kinh doanh theo hướng thay đổi cơ cấu đầu tư vốn từ quốc doanh là
chủ yếu sang hộ sản xuất cá thể; cương quyết thực hiện khoán tài chính, gắn
hiệu quả kinh doanh với lợi ích của người lao động. Ngân hàng đã có nhiều đổi
mới về phương thức hoạt động cho phù hợp với tình hình thực tiễn của địa
phương, tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn theo phương châm “Đi vay để cho
vay”. Bên cạnh hình thức huy động vốn truyền thống như tiền gửi tiết kiệm, tiền
gửi các tổ chức kinh tế, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam
Định từng bước mở rộng quan hệ với các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế - xã
hội để huy động vốn, đồng thời nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tại
các chi nhánh huyện, thành phố.
Bám sát mục tiêu, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, ngân
hàng đã tập trung vốn đầu tư cho các dự án lớn của các doanh nghiệp nhà nước,
đồng thời tích cực cho vay hộ sản xuất nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thông
qua các dự án đầu tư theo từng xã và từng vùng kinh tế. Đến ngày 31-12-1992,
doanh số cho vay của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam
Định đạt 293 tỷ đồng, thu nợ 267 tỷ đồng, dư nợ 108 tỷ đồng, tăng 26 tỷ đồng
so năm 1991. Điều đáng chú ý là vốn cho vay hộ sản xuất đã phát huy hiệu quả,
tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thu được cả gốc và lãi đúng kỳ hạn, số nợ
quá hạn không đáng kể. Toàn tỉnh đã cho vay 45.124 hộ với tổng số vốn 66,7 tỷ
đồng, trong đó 35.544 hộ sản xuất nông nghiệp vay 33,4 tỷ đồng, 2.827 hộ sản
xuất tiểu thủ công nghiệp - vận tải vay 16,7 tỷ đồng, 1.206 hộ nghề cá - muối


vay 6,2 tỷ đồng,... Việc cho vay kinh tế hộ triển khai mạnh ở tất cả các huyện đã
mang lại hiệu quả kinh tế to lớn cho cả khách hàng và ngân hàng. Đặc biệt,

nguồn vốn trên đã giúp các hộ đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh, giải
quyết việc làm cho hàng ngàn lao động, tạo nguồn thu hàng chục tỷ đồng. Điển
hình là Chi nhánh Ngân hàng phát triển nông nghiệp huyện Xuân Thuỷ, Chi
nhánh Ngân hàng phát triển nông nghiệp huyện Hải Hậu, Chi nhánh Ngân hàng
phát triển nông nghiệp huyện ý Yên. Vốn vay của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn Nam Định đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn ở nông thôn,
xoa dịu cơn khát vốn, hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi, thúc đẩy kinh tế nông
nghiệp, nông thôn phát triển, củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới.
- Giai đoạn 1997- nay : tên ngân hàng nông nghiệp được đổi thành ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Tháng 1-1997, tỉnh Nam Định được tái lập. Trong thời gian tái lập tỉnh,
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Định gặp rất nhiều khó
khăn. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu công việc; nợ quá hạn rất cao
66,9 tỷ đồng, chiếm 32,2% tổng dư nợ,... Ngoài ra, ngân hàng còn chịu ảnh
hưởng của tình hình suy thoái và trì trệ của nền kinh tế thế giới và trong nước
do tác động xấu của cuộc khủng khoảng tài chính - tiền tệ (1996 - 1997). Trước
thực trạng đó, lãnh đạo ngân hàng xác định: trước mắt phải tăng cường kiểm tra,
kiểm soát và duy trì 100% hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp
huyện, Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp loại IV, đồng thời triển khai và thực
thi các văn bản nhằm chấn chỉnh hoạt động ngân hàng. Muốn thoát khỏi khó
khăn, kinh doanh có hiệu quả, trước hết phải đổi mới phong cách làm việc, nâng
cao trình độ chuyên môn và từng bước hiện đại hoá hoạt động ngân hàng, tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho nghiệp vụ gửi và lĩnh tiền mặt. Các điều kiện phục
vụ khách hàng đã được trang bị đầy đủ hơn, phong cách giao dịch thay đổi theo
hướng tiếp cận với cơ chế thị trường nên khách hàng đến với ngân hàng ngày
càng đông, doanh thu tăng mạnh. Đặc biệt, sau 5 năm thực hiện Quyết định số


67/1999/QĐ-TTg ngày 30-3-1999 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính

sách tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, ngân
hàng đã tranh thủ sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
tỉnh. Thông qua cầu nối là các tổ chức đảng, chính quyền, hội nông dân, hội phụ
nữ thành lập, ngân hàng đã thành lập 3.922 tổ vay vốn tiết kiệm, tạo điều kiện
cho 193 nghìn hộ nông dân vay vốn từ kênh ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thành lập 3.826 tổ vay vốn tiết
kiệm (kể cả tổ vay vốn hộ nghèo) với 260.507 thành viên tham gia, thu hút 60
nghìn hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất, cải thiện cuộc sống. Đến hết năm
2003, nguồn vốn của ngân hàng đạt 1.625 tỷ đồng, tăng 237% so với đầu năm
1997 (thời điểm thực hiện Quyết định số 67/QDĐ-TTg).
Về cho vay, đến cuối năm 2003, tổng dư nợ đạt 1.406 tỷ đồng, tăng 409%
so với đầu năm 1997. Tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân đạt trên 80%/năm.
Qua 7 năm cho vay uỷ thác từ nguồn vốn của ngân hàng người nghèo và một
năm cho vay uỷ thác từ nguồn vốn của ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Định đã tạo cơ hội cho 18 nghìn hộ
có hoàn cảnh khó khăn vươn lên thoát nghèo. Ngân hàng đã mở rộng cho vay
các thành phần kinh tế trong phạm vi toàn tỉnh, nhất là hộ sản xuất nông - ngư
nghiệp, sản xuất - kinh doanh, làng nghề, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp,
trang trại, các cụm công nghiệp, khu công nghiệp tập trung.
Để thực hiện có hiệu quả Quyết định số 67/QĐ-TTg, trong năm 2004,
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Định tiếp tục tranh thủ sự
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp, kết hợp chặt chẽ với
các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, đổi mới phong cách giao dịch; củng cố
hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống tổ vay vốn tiết kiệm, đẩy mạnh huy
động vốn và cho vay các chương trình phát triển kinh tế của tỉnh, phấn đấu bảo
đảm tăng trưởng nguồn vốn 25%, giải ngân hết nguồn vốn uỷ thác cho vay hộ
nghèo, bảo đảm nợ quá hạn ở mức dưới 1%. Với những thành tích hoạt động
xuất sắc trong nhiều năm liền, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn



Nam Định đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng
Ba.
Và cho đến nay, với sự nỗ lực của các cấp lãnh đạo của tổ chức và sự tâm
huyết trong nghề nghiệp của các cán bộ công nhân viên , NHNo&PTNT Nam
Định đã được công nhận là ngân hàng cấp II. , góp phần lớn vào cơng tác xóa
đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh, hồn thành tốt những nhiệm vụ được giao
phó.
Dưới sự chỉ đạo hiệu quả của NHNo & PTNT Nam Định, NHNo &
PTNT huyện Giao thủy đã đạt được những thành tích nhất định góp vào thành
cơng chung của hệ thống ngân hàng tỉnh , cụ thể về kết quả hoạt động kinh
doanh năm 2009 tại NHNo & PTNT huyện Giao thủy đạt được như sau:
Ngân hàng NNO & PTNT huyện Giao Thủy đã bám sát định hướng hoạt
động kinh doanh của ngành và mục tiêu cho từng tháng, quý và cả năm 2009, đã
đạt được qua các chỉ tiêu cơ bản sau :
- Về nguồn vốn huy động đến 31/12.2009 : 279.665 triệu đồng , tăng so
với đầu năm là 22.416 triệu đồng.
Trong đó : Nguồn vốn địa phương là 183.837 triệu đồng, tăng so
31/12/2008 là 32.770 triệu đồng.
Tổng dư nợ đến 31/12/2009 là : 497.334 triệu đồng, tăng so 31/12/2008 là
93.066 triệu đồng.
Doanh số cho vay : 537.493 triệu đồng.
Doanh số thu nợ : 444.427 triệu đồng.
-

Nợ xấu : 1.740 triệu , tỷ lệ nợ quá hạn là 0,35%

-

Số hộ có quan hệ vay vốn với Ngân hàng là : 13.909 hộ, giảm so với đầu
năm373 hộ


-

Kết quả tài chính : Thu –Chi chênh lệch 11.102 triệu đồng vẫn đảm bảo
kế hoạch tài chính hệ số 1 lần tiền lương cho cán bộ công nhân viên.
Đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện quan tâm hơn, hoạt động

kinh doanh chất lượng, hiệu quả và an toàn tài sản lớn nhất là an toàn kho quỹ.


Về mạng lưới hoạt động kinh doanh:
Đến nay NHNo & PTNT huyện Giao Thủy có 3 phịng giao dịch. Thực
hiện theo đúng quy chế hoạt động của phòng giao dịch thuộc chi nhanh NHNo &
PTNT Việt Nam. Doanh số hoạt động năm sau cao hơn năm trước đảm bảo đúng
thể lệ , chế độ an toàn nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh.
Để tổ chức củng cố hoạt động mạng lưới Tổ vay vốn theo Quyết định 67
của Thủ Tướng Chính phủ tới các xóm , đội sản xuất tổ hưu, tổ giáo viên vay tiêu
dùng ở các xã, thị trấn trong tồn huyện, đến nay đã có 415 tổ vay vốn và tiết
kiệm. Trong đó, tổ hưu chí : 22 , Tổ công nhân viên chức : 51, Tổ vay vốn hộ sản
xuất :339 đã và đang hoạt động có nề nếp giúp Ngân hàng Nơng Nghiệp hoạt
động chất lượng, hiệu quả kinh doanh cao hơn .
Đặc biệt, NHNo & PTNT huyện đã tranh thủ sự quan tâm của Thường
trực huyện ủy, Ủy ban nhân dân(UBND) huyện thành lập Ban chỉ đạo đầu tư vốn
Ngân hàng Nông nghiệp huyện do đồng chí Phó chủ tịch thường trực UBND
huyện làm trưởng ban và 22 phòng đại diện đầu tư vốn Ngân hàng nông nghiệp
ở các xã, thị trấn trong huyện, do đồng chí phó chủ tịch UBND xã làm trưởng
phịng .
Như vậy, từ huyện đến xã, thị trấn, thơn xóm đã có hệ thống mạng lưới
hoạt động vững chắc, hiệu quả cao hơn thể hiện uy tín hoạt động Ngân hàng
Nông nghiệp ngày càng cao.

2.2. Chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng nông nghiệp huyện Giao Thủy.
Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của NHNo&PTNT Giao Thủy cũng
tương đồng với chức năng nhiệm vụ của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam là :
kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng . Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn huyện Giao Thủy cũng như NHNo&PTNT Nam Định có
vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội Nam Định
phát triển, nhất là lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn trong việc tạo việc làm và
ngành nghề mới, giúp đời sống nhân dân được cải thiện , nâng cao.


Với vị trí chủ lực, chủ đạo trong thị trường tài chính nơng thơn, Ngân
hàng nơng nghiệp và phát triển nông thôn Nam định đã thực hiện tốt đầu tư
phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn với dư nợ tính đến 31/12/2009 là
497.334 triệu đồng, tăng so với đầu năm 93.066 triệu đồng, tỷ lệ tăng : 23,02%.
Trong đó dự nợ cho vay hộ sản xuất, tư nhân cá thể là 493.384 triệu đồng ,
chiếm tỷ trọng 99,2 % trong tổng dư nợ.
Trong đó :
-

Cho vay hỗ trợ lãi suất : 110.247 triệu đồng ( Hộ sản xuất kinh doanh :
106.647 triệu đồng ). Khách hàng được hỗ trợ lãi suất : 1.193 ( Hộ sản
xuất kinh doanh : 1.190)

-

Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất 31/12/2009 : 56.679 triệu đồng, tỷ lệ
11,4% , số tiền lãi được hỗ trợ 2.433 triệu đồng

-


Số tiền lãi đã hỗ trợ :2.443,5 triệu đồng ( Hộ sản xuất kinh doanh 2.336
triệu đồng)
Hầu hết các hộ nông dân trên địa bàn huyện đã được tiếp cận vốn và các

dịch vụ của Ngân hàng nơng nghiệp và phát triển nơng thơn huyện, góp phần
đưa kinh tế nông thôn phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm nhiều
việc làm và thêm nhiều ngành nghề mới như nuôi trồng thủy sản ( nghề nuôi
tôm )…, tăng thu nhập, từng bước chuyển dổi mạnh mẽ từ kinh tế tự cấp, tự túc
từng bước phát triển thành kinh tế sản xuất hàng hóa . Đồng thời, cùng với
NHNo&PTNT Việt Nam , NHNo&PTNT huyện đã mở rộng thành công các
nghiệp vụ ngân hàng thương mại đa năng theo hướng hội nhập và hiện đại, củng
cố và nâng cao vị thế, uy tín của mình trong hoạt động đối ngoại.
2.4. Chiến lược phát triển của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn huyện Giao Thủy
Với sự hướng dẫn, chỉ đạo cũng như tạo điều kiện về nghiệp vụ quản lý
ngành của đơn vị chủ quản cấp trên , NHNo & PTNT Giao Thủy cũng đưa ra
mục tiêu trong giai đoạn tới là : phấn đấu trở thành ngân hàng nông nghiệp cấp
II , tiếp tục giữ vững vị trí chủ đạo trong thị trường tài chính nông thôn , luôn là


đối tác tin cậy khách hàng đặc biệt là đối tượng nông dân , giúp họ nâng cao đời
sống vật chất , đẩy mạnh nền kinh tế tại địa phương , góp phần thúc đẩy nền
kinh tế vùng và quốc gia.
Bên cạnh đó, trong năm 2010 tới đây , NHNo & PTNT huyện Giao Thủy
cũng đưa ra những mục tiêu kinh doanh cụ thể đối với từng chỉ tiêu :
1. Nguồn vốn : Tổng nguồn vốn đến 31/12/2010 dư : 349.581 triệu, tăng so

với đầu năm 69.916 triệu , tương ứng với tăng 25% .
Trong đó :



Nội tệ : đến 31/12/2010 kà 323.774 triệu, tăng so với đầu năm là
25%

+ Vốn kho bạc : 100.100 triệu, tăng 4.172 triệu , tỷ lệ 0,004 %.
+ Địa phương : 218.346 triệu , tăng 55.401 triệu , tỷ lệ 34%.
+ Tiền gửi dân cư : 160.704 triệu , tăng 32.448 triệu, tỷ lệ tăng 25,3%.


Nguồn ngoại tệ :

Ngoại tệ quy đổi đến ngày 31/12/2010 : 25.000 triệu, tăng 5.223 triệu
đồng, ứng với tỷ lệ tăng 25%.
2. Tín dụng : tăng trưởng dư nợ trên cơ sở tăng trưởng nguồn vốn:
-

Dư nợ đến 31/12/2010 : 571 trỷ đồng

-

Tăng so với đầu năm

: 74 tỷ đồng, tỷ lệ tăng 15%.

Trong đó:
dư nợ hộ sản xuất nông nghiệp nông thôn : 561 tỷ , chiếm 98% tổng dư nợ.
Dư nợ doanh nghiệp 10 tỷ chiếm 2%.
Dư nợ cho vay thỏa thuận : 200 tỷ, chiếm 35%.
Lãi suất đầu ra bình quân : 13,5%/năm.
Tỷ lệ cho vay ngăn hạn 75% , trung hạn 25%.

Tỷ lệ nợ xấu 1%.
3. Dịch vụ:

Phát hành thẻ ATM : 5000 thẻ.
Phát hành thẻ Sinh Viên Lập Nghiệp : 3000 thẻ.


Bán bảo hiểm ô tô , xe máy : 200 sản phẩm.
Bán bảo hiểm Bảo An tín dụng : 7000 sản phẩm , tương ứng 1.500 triệu.
4. Tài chính :


Tổng thu : 78.006 triệu đồng

-

Thu lãi tiền vay: 73.500 triệu đồng.

-

Thu dịch vụ : 900 triệu đồng.

-

Thu Kinh doanh ngoại tệ và vàng: 10 triệu đồng.

-

Thu từ kinh doanh khác : 520 triệu đồng.


-

Thu nhập khác; 3.076 triệu đồng. Trong đó, Thu 238 là 100 triệu đồng.


Tổng chi:64.347 triệu đồng.

-

Chi hoạt động tín dụng: 51.800 triệu đồng.

-

Chi hoạt động dịch vụ : 1.000 triệu đồng.

-

Chi nộp thuế và các khoản phí : 90 triệu đồng.

-

Chi kinh doanh khác : 530 triệu đồng.

-

Chi phí cho nhân viên: 1.435 triệu đồng .

Chênh lệch thu – chi : 13.659 triệu.
Hệ số lương đạt được bằng 1 lần.
2.5. Mơ hình cơ cấu tổ chức tại ngân hàng nông nghiệp huyện Giao Thủy.

Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Giao Thủy thực hiện
theo quy chế tổ chức và hoạt động của chi nhánh NHNo & PTNT Việt Nam.
Tính đến 31/12/2009, tổng số cán bộ cơng nhân viên của ngân hàng có mặt là
53 cán bộ, trong đó có 34 đồng chí nữ , chiếm 64,15% cán bộ trong tồn cơ
quan.
Trong đó :
CBCNV có trình độ đại học , trên đại học là 31 người, chiếm 58,48%.
CBCNV trình độ trung học là 14 người , chiếm 26,41%.
CBCNV có nghiệp vụ khác ( lái xe, vật tư …) là 8 người , chiếm 15,09%.
Mô hình cơ cấu tổ chức
- Ban giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp huyện : 4 người .


- Phòng nghiệp vụ kinh doanh :7 người .
- Phòng kế tốn ngân quỹ : 7 người
- Phịng Hành chính nhân sự - kiểm sốt : 6 người .

Mỗi phịng ban đều có 1 trưởng phịng và 1-2 phó phịng. Đây thể hiện cơ
cấu tổ chức theo chức năng, nó cũng thể hiện những ưu điểm nhất định như:
phát huy đầy đủ hơn ưu thế của chun mơn hóa cơng việc và tạo điều kiện
kiểm tra dễ dàng cho cấp cao nhất . Dù vậy cũng không tránh khỏi những
khuyết điểm của loại hình cơ cấu tổ chức này đó là mâu thuẫn giữa các đơn vị
chức năng khi đề ra các chỉ tiêu và chiến lược ,cũng có hạn chế trong việc phối
hợp hành động giữa các phòng ban và có thể gây ra cách nhìn hạn hẹp ở các
cán bộ quản lý.
Với mạng lưới hoạt động đến nay có 3 phịng gia dịch hoạt động tại khu
vực,gồm :
-

Phịng gia dịch Giao Phong : 10 người


-

Phòng giao dịch Hồng Thuận :11 người

-

Phòng giao dịch Xuân Long Hải : 8 người .
Mỗi phịng giao dịch có bộ máy điều hành gồm : 1 đồng chí Giám đốc, 1

phó Giám đốc và tổ trưởng tổ kế toán ngân quỹ .
Việc đặt các phòng giao dịch tại các khu vực khác nhau thể hiện cơ cấu tổ
chức theo địa dư, ưu điểm của nó là tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với
các dịch vụ của tổ chức được thuận tiện hơn, gần hơn, đồng thời các dịch vụ của
ngân hàng sẽ được tiến hành linh hoạt phù hợp với điều kiện từng vùng, khu
vực như vậy chất lượng dịch vụ cũng được nâng cao hơn, phù hợp hơn, bên
cạnh đó, trách nhiệm quản lý sẽ được giảm thiểu cho lãnh đạo cấp cao . Tuy
vậy, kiểu cơ cấu tổ chức này cũng có những nhược điểm khó tránh khỏi như địi
hỏi nhiều cán bộ quản lý.
Như vậy, có 16 cán bộ làm công tác điều hành và tham gia điều hành từ
Ban Giám đốc, trưởng phó phịng NHNo huyện đến Giám đốc, phó giám đốc, tổ
trưởng phịng giao dịch . Cán bộ làm cơng tác tín dụng là 18 trong đó có 2 cán


bộ tín dụng đang kiêm nhiệm 2 xã ở phịng giao dịch Giao Phong và trung tâm
NHNo huyện do NHNo tỉnh điều động 2 cán bộ phó giám đốc Phịng giao dịch,
01 phó phịng tín dụng đi nhận cơng tác ở đơn vị mới từ tháng 11 năm 2009.
Thực hiện công văn hướng dẫn của NHNo tỉnh, mặc dù thực trạng cán bộ
NHNo huyện có trình độ ở khung tuổi cao, khó khăn trong đào tạo nâng cao
trình độ. Vì vậy, với năng kực hiện có và đội ngũ cán bộ của mình, NHNo Giao

Thuỷ đã động viên mọi cán bộ viên chức tự rèn luyện vươn lên không nhừng
nâng cao phẩm chất và năng lực cơng tác, có xu hướng phát triển tốt, tạo nguồn
kế cận quy hoạch cán bộ sau nài trên cơ sở đó phát huy nhân tố tích cực, có
hướng đào tạo phát triển qua hàng năm, nhận xét đánh giá bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ được quy hoạch.
Từ quy hoạch cán bộ trong năm 2009, NHNo huyện đã đề nghị NHNo
tỉnh bổ nhiệm kiện toàn 1 đồng chí phó phịng tín dụng và 1 phó Giám đốc
NHNo được phân cơng phụ trách phịng giao dịch Hồng Thuận thay cán bộ nghỉ
hưu.
Gíam đốc
P.GĐ
Tín dụng
P.GĐ
Kế tốn
Phịng KH -KDoanh
Phịng kế tốn
Phịng HC – N.Sự
PGD Đại Đồng
Thuận
PGD Giao Phong
PGD Xuân Long Hải
Các phòng giao dịch

2.6. Các hoạt động chủ yếu
2.6.1. Huy động vốn


Nguồn vốn của ngân hàng được phân chia như sau:
Theo thời hạn
- Trên 12 tháng

- Đến 12 tháng
- Không kỳ hạn

Theo đối tượng
- Từ dân cư
- Từ tổ chức kinh tế
- Từ tổ chức tín dụng
- Từ tiền gửi kho bạc nhà nước.

Theo loại tiền
- VNĐ ( việt nam đồng)
- Ngoại tệ ( quy đổi).

Ngân hàng chủ yếu huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi từ khách hàng và từ
dân cư trong địa bàn bằng các hình thức khuyến khích về lãi suất , về phí và thủ
tục.
2.6.2. Hoạt động tín dụng
Là hoạt động cho vay vốn từ ngân hàng tới những người cần vốn, có thể
họ là đơn vị sản xuất kinh doanh hoặc cá thể, hộ nông dân. Đây cũng chính là
hoạt động Ngân hàng thực hiện chức năng thúc đẩy nền kinh tế địa phương và
khuyến khích hoạt động kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất của người dân
Các hình thức cho vay tín dụng hiện nay được áp dụng :
Phân theo thời gian:
+ Cho vay ngắn hạn
+ Cho vay trung hạn

Phân theo thành phần kinh tế
+ Doanh nghiệp nhà nước.
+ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
+ Hợp tác xã.

+ Hộ sản xuất kinh doanh, cá nhân.

2.6.3. Dịch vụ ngân hàng
Theo sự phát triển chung của thế giới cũng như sự phát triển của ngành
ngân hàng, NHNo & PTNT huyện Giao Thủy cũng phát triển các dịch vụ ngân
hàng như
-

Phát hành thẻ ATM

-

Phát hành thẻ sinh viên lập nghiệp

-

Dịch vụ Mobile banking

-

Dịch vụ bán Bảo hiểm ô tô xe máy

-

Dịch vụ bán bảo hiểm Bảo An tín dụng.

2.6.4. Hoạt động tài chính
Bao gồm các hoạt động thu chi trong tổ chức



Về thu , gồm :
+ Thu lãi tiền vay
+ Thu dịch vụ
+ Thu từ kinh doanh ngoại tệ và vàng
+ Và thu từ các hoạt động kinh doanh khác…
Về chi , gồm :
+ Chi hoạt động tín dụng
+ Chi hoạt động dịch vụ
+ Chi nộp thuế và các khoản phí
+ Chi cho nhân viên
+ Chi khác…
Đánh giá chênh lệch thu – chi .
2.6.5. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo-PTNT Giao Thủy trong năm
tài chính 2009( tại trung tâm và chi nhánh các xã )

2.7. Động lực làm việc của người lao động tại Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn huyện Giao Thủy.
Từ trước tới nay, công việc làm trong ngành Ngân hàng đặc biệt là trong
ngân hàng quốc doanh luôn là mong muốn và là sự lựa chọn ưu tiên của người
lao động, đặc biệt là lao động nữ, bởi tính ổn định trong cơng việc, kể cả về thu
nhập. Bởi vậy, khi có được cơng việc người lao động ln cố gắng để hồn
thành cơng việc được giao.
Hơn nữa, công việc trong ngành Ngân hàng khơng những địi hỏi sự mềm
dẻo trong giao tiếp, sự chính xác trong tính tốn mà cịn phải có sự sáng suốt


trong việc thẩm định các dự án vay vốn, do đó người lao động cũng tập trung hết
sức trong khi làm việc.
Cũng như bất kỳ tổ chức nào, NHNo & PTNT Giao Thủy cũng có những
nội quy, quy định đặc trưng của ngành và của riêng tổ chức, bắt buộc người lao

động phải tuân theo và hành động đúng. Dù mang tính bắt buộc, cưỡng ép nhưng
nó cũng là động lực để người lao động cố gắng làm việc, đảm bảo kế hoạch của
tổ chức hướng đến mục tiêu chung.
Giao Thủy là một huyện ven biển, sự hoạt động của các tổ vay vốn có
tầm quan trọng lớn đối với người dân. Sự ra đời của các tổ vay vốn có sự quản lý
của các cán bộ tín dụng đảm bảo cho người dân hoạt động hiệu quả trên cơ sở
nguồn vốn vay, đồng thời đảm bảo kế hoạch thu hồi vốn của Ngân hàng. Sự phát
triển của mạng lưới tổ vay vốn cũng như sự hiệu quả trong hoạt động của tổ vay
vốn cũng là động lực để các cán bộ tín dụng lao động và cống hiến
Ban lãnh đạo Ngân hàng cũng thường xuyên có những quyết định luân
chuyển lao động giữa các phòng ban và giữa các phịng giao dịch, nhằm tạo
khơng khí mới mẻ, hứng thú làm việc cho nhân viên. Tuy nhiên, sự luân chuyển
này chưa hẳn lúc nào cũng hợp lý và tạo được động lực làm việc cho người lao
động, bởi địa bàn huyện khá rộng, nhân viên chủ yếu là nữ, nếu phân công công
việc tại địa điểm quá xa nơi ở cũng là cản trở, gây khó khăn cho việc thực hiện
công việc, điều này gây ra tác động ngược so với mục tiêu ban đầu đề ra.
Như vậy, động lực làm việc chủ yếu của người lao động tại đây xuất phát
từ suy nghĩ và hành động chủ quan của người lao động, ít có sự tác động từ bên
ngồi, từ ban lãnh đạo tổ chức.
2.8. Tạo động lực làm việc cho người lao động tại NHNo & PTNT Giao
Thủy
2.8.1. Thực trạng tạo động lực cho người lao động tại NHNo & PTNT Giao
Thủy
2.8.1.1 Nhóm các yếu tố duy trì
 Các khoản thu nhập của người lao động


Về tiền lương
Tiền lương được hiểu là số lượng tiền tệ mà người lao động được người
sử dụng lao động trả theo giá trị hao phí sức lao động trên cơ sở thỏa thuận.

Với cơ cấu là một tổ chức quốc doanh, các nhân viên tại NHNo & PTNT
được trả lương theo ngạch bậc và theo chức danh làm việc, được quy định theo
chính sách tiền lương của Nhà nước. Tiền lương là một trong số những nhân tố
ảnh hưởng rất lớn tới động lực làm việc và năng suất làm việc của người lao
động.
Tiền lương người lao động tại NHNo & PTNT Giao Thủy được tính dựa
trên căn cứ là chính sách tiền lương do Nhà nước quy định đối với cán bộ,
người lao động viên chức, cách tính như sau:
Tiền lương = hệ số lương x Mức tiền lương tối thiểu
Trong đó:
Mức tiền lương tối thiểu hiện được áp dụng là 650.000 vnđ, sắp tới từ 1/5
mức này được nâng lên là 730.000vnđ.
Hệ số lương: tùy thuộc vào bằng cấp người lao động có, thời gian người
lao động đã tham gia làm việc và tính chất cơng việc cụ thể, trung bình khi tăng
lương thì hệ số lương cơ bản được cộng thêm 0,33/ 1 lần. Được quy định theo
Nghị định số 204/2004/NĐ-CP của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán
bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.
Ngồi ra, cịn có một khoản gọi là lương chức vụ, được tính bằng mức
lương cơ bản x hệ số chức vụ, hệ số chức vụ được tính bằng % của hệ số lương,
tùy vào chức vụ người đó đảm nhận.
Theo như tình hình hiện nay, hầu hết các nhân viên làm việc trong khu
vực quốc doanh đều đồng ý rằng với mức lương và cách tính lương như hiện
nay thì họ khơng đủ để trang trải cuộc sống hàng ngày, đây cũng chính là một
trong những ngun nhân dẫn đến người lao động khơng tồn tâm tồn ý vào
nhiệm vụ chính mà có xu hướng làm thêm bên ngoài gia tăng thu nhập, như vậy
ảnh hưởng rất lớn tới năng suất và hiệu quả công việc. Họ cảm thấy việc trả


lương chưa thực sự công bằng với công sức mà họ bỏ ra, như vậy khó có thể
khuyến khích được họ làm việc một cách nhiệt tình, dẫn đến tình trạng đùn đẩy

trách nhiệm, người làm ít, người làm nhiều. Bởi tính ổn định mà yếu tố lương
chỉ mang tính chất để duy trì cơng việc của người lao động mà thơi, ít có sự
khích lệ, động viên người lao động làm việc nhiệt tình, hăng say.
Theo điều tra tại đơn vị thực tập qua hệ thống bảng hỏi, kết quả thu nhận
được đối với 40 nhân viên như sau:

Bảng 2.1: Mức độ thỏa mãn tiền lương của người lao động
Mức độ thỏa mãn với tiền lương của người lao
động.
1.Thỏa mãn
2. Bình thường
3. Khơng thỏa mãn

Số lượng/tổng số
(người/người)
6/40
29/40
5/40

Tỷ lệ (%)
15%
72,5%
12,5%

(Nguồn: kết quả điều tra thực tế tại NHNo huyện Giao Thủy)
Như vậy chỉ có 15% số nhân viên điều tra thỏa mãn về mức lương hiện
có của mình và 12,5% số nhân viên không thỏa mãn, 72,5% số nhân viên cịn
lại cảm thấy bình thường, chưa hẳn hài lịng với mức lương hiện tại. Đây là
những con số đáng được chú ý để ban lãnh đạo đơn vị có những hành động hợp
lý thúc đẩy động lực làm việc cho nhân viên tại đơn vị.

Về tiền thưởng
Tiền thưởng nhằm thể hiện sự ghi nhận những thành tích đóng góp của
người lao động trong tổ chức và tôn vinh họ. Do đó, tiền thưởng có tác dụng lớn
kích thích người lao động làm việc.
Nguồn hình thành quỹ tiền thưởng ở NHNo & PTNT Giao Thủy: Chủ yếu
trích từ quỹ lương hàng năm, khoảng 3% để thành lập quỹ thưởng cho cán bộ
công nhân viên
Điều kiện xét thưởng:


- Người lao động khơng chịu bất kì hình thức kỷ luật, cảnh cáo nào trong năm
xét thưởng.
- Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Người lao động có thời gian làm việc trên 1 năm tại tổ chức.
Hình thức khen thưởng: hàng quý và cuối năm có thưởng bằng vật chất
(bằng tiền mặt).
Nhưng nhìn chung, khen thưởng cịn mang tính chất bình qn, người có
chức vụ cao được khen thưởng cao, người chức vụ thấp khen thưởng thấp( về
vật chất ), mức chênh lệch cũng không đáng kể, thưởng chưa tính đến hiệu quả
làm việc cũng như những đóng góp thực chất của người lao động cho tổ chức.
Về mặt nào đó, vật chất ln là cái đích mà người lao động hướng tới khi làm
việc, tuy nhiên việc thưởng như trên lại chưa có tác động mạnh mẽ, thúc đẩy
người lao động nhiệt tình làm việc và cống hiến cho tổ chức.
Theo kết quả điều tra tại đơn vị thu được kết quả về mức độ hài lòng của
nhân viên về tiền thưởng như sau:
Bảng 2.2: Mức độ hài lòng của nhân viên với tiền thưởng
Mức độ hài lịng của nhân viên với tiền thưởng
1. Hài lịng
2. Bình thường
3. Khơng hài lịng


Số lượng/tổng số
( người / người)
4/40
5/40
31/40

Tỷ lệ (%)
10%
12,5%
77,5%

Có đến 77,5% nhân viên chưa hài lịng với mức thưởng hiện có, như vậy,
tiền thưởng chưa thể hiện được hiệu quả của nó trong việc nâng cao động lực
làm việc cho người lao động tại tổ chức.
 Điều kiện làm việc

NHNo & PTNT Giao Thủy, tuy là ngân hàng tuyến huyện, song cơ sở vật
chất ở đây được trang bị khá đầy đủ. Tại trung tâm, nơi đặt trụ sở chính của
Ngân hàng, các nhân viên được làm việc trong môi trường khá thuận lợi, trụ sở
mới được khánh thành với phòng ốc hiện đại, thoải mái với máy tính cá nhân
cho từng nhân viên, fax, in ấn, bàn ghế, tủ kệ đựng tài liệu... các thiệt bị phục vụ


như quạt, máy điều hòa, mạng internet... cũng được trang bị tạo điều kiện cho
người lao động có điều kiện tốt nhất để làm việc.
Tại các văn phòng giao dịch chi nhánh, tuy điều kiện không được như ở
trung tâm, nhưng cũng đảm bảo cơ bản điều kiện cho người lao động như về
bàn ghế, máy tính, máy in, tủ kệ... và các thiết bị điện như quạt...
Ngoài ra, Ngân hàng cịn có trang bị xe phục vụ cho cán bộ đi họp cấp

trên và đi kiểm tra hoạt động tại các chi nhánh trên địa bàn huyện.
Về điều kiện làm việc, NHNo & PTNT Giao Thủy đã có sự trang bị tốt,
góp phần tạo cảm giác thoải mái, yên tâm làm việc, kích thích người lao động
làm việc hiệu quả.
 Sự quản lý, giám sát của lãnh đạo Ngân hàng.

- Về định hướng mục tiêu:
Đây là nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ nhà quản lý nào cũng phải thực
hiện đối với tổ chức của mình. Trên cơ sở là chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ
của mình, ban giám đốc ngân hàng đề ra những mục tiêu, chiến lược cụ thể cho
toàn tổ chức và cho từng đơn vị, phòng, ban, cá nhân... theo từng tháng, quý và
cả năm. Đây là cơ sở để xét tiến độ hoàn thành kế hoạch của đơn vị và cá nhân,
phục vụ cho việc bình bầu khen thưởng.
- Về phân cơng lao động:
Việc phân công lao động hợp lý, đúng chuyên môn giúp người lao động
tự tin, tạo động lực làm việc tốt hơn, từ đó nâng cao hiệu quả và chất lượng
cơng việc. Với thực tế là cán bộ tại Ngân hàng chủ yếu là cán bộ trẻ và là cán bộ
nữ (64,15%), thêm với việc tổ chức chia thành 4 điểm giao dịch trên địa bàn
tồn huyện thì việc phân cơng lao động cũng gặp nhiều khó khăn. Khơng những
phân cơng lao động đúng chun mơn, sở trường để kích thích khả năng sáng
tạo và cống hiến của nhân viên, lãnh đạo cịn phải phân cơng sao cho hợp lý về
địa điểm làm việc, để nhân viên đi làm không quá xa, tạo tâm lý yên tâm công
tác cho người lao động, bởi hầu hết các chị em đều có gia đình và có con đang
trong tuổi đến trường.


- Về giám sát tiến độ công việc
Ban lãnh đạo Ngân hàng thường xuyên có các chuyến đi kiểm tra tình
hình hoạt động ở các chi nhánh xã, đồng thời cũng thường xuyên yêu cầu việc
báo cáo kế hoạch hoạt động tại các chi nhánh theo định kỳ.

 Mối quan hệ giữa các cá nhân trong tổ chức

Mối quan hệ giữa các đồng nghiệp có tác động rất lớn tới tâm lý làm việc
của người lao động, từ đó tạo nên thái độ lao động của người lao động. Một
không khí thoải mái, thân thiện, được gọi là tốt đẹp là khi người lao động cảm
thấy được cảm thông, chia sẻ và được giúp đỡ khi khó khăn trong cơng việc.
Bầu khơng khí làm việc có tác động trực tiếp đến khả năng làm việc và sự hứng
thú đối với cơng việc của người lao động, kết quả của nó thể hiện trực tiếp ở
năng suất lao động, chất lượng lao động và hiệu quả lao động.
Khi tiến hành điều tra phiếu hỏi các nhân viên về bầu khơng khí làm việc
tại nơi làm việc thì có 67,5%( 27/40 ) số nhân viên cho rằng họ được làm việc
trong bầu khơng khí thoải mái, thân thiện và được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
đồng nghiệp khi gặp khó khăn. Tại các phịng giao dịch và phịng tín dụng, khi
mà các nhân viên thường xuyên tiếp xúc với khách hàng thì khơng những cần
sự nhạy bén trong cách ứng xử mà cịn sự chính xác trong các con số, ln
thường trực một bầu khơng khí thân thiện, cởi mở, đây là điều kiện để các nhân
viên trẻ ít kinh nghiệm có cơ hội được sự hỗ trợ từ các nhân viên kỳ cựu trong
cách thức làm việc, xử lý các tình huống trong giao tiếp.
Về mối quan hệ giữa lãnh đạo và người lao động: các cán bộ lãnh đạo của
Ngân hàng huyện Giao Thủy luôn bám sát công việc của nhân viên, và có sự hỗ
trợ kịp thời khi cần thiết. Không chỉ quan tâm đến nhân viên trong công việc,
các cán bộ quản lý của tổ chức cũng quan tâm đến đời sống của nhân viên, có
những sự động viên về tinh thần khi hiếu, hỷ, ốm đau... Nói chung, mối quan hệ
giữa cấp trên – cấp dưới ở đây khá cởi mở, thân thiện, là tiền đề tạo nên một tập
thể vững mạnh, khiến người lao động gắn bó với cơng việc hơn.
 Các chế độ, chính sách của tổ chức


Tổ chức đã có một hệ thống các văn bản quy định rõ ràng về chính sách
lương bổng, các chế độ khen thưởng, kỷ luật; thai sản, ốm đau... với các điều

luật rõ ràng để các nhân viên có thể tự đối chứng, kiểm tra và hành động theo.
Điều này giúp các nhà quản lý thực hiện các chức trách của mình một cách
minh bạch, hạn chế được sự nghi kỵ trong tổ chức.
2.8.1.2. Nhóm các yếu tố tạo động lực
 Bản chất bên trong công việc

Công việc chủ yếu tại Ngân hàng là thực hiện các giao dịch về tiền, các
hoạt động cho vay và huy động vốn, thẩm định các dự án vay vốn…
Đặc trưng công việc của ngành Ngân hàng là ít cần sự sáng tạo nhưng
cũng không quá dập khuôn gây tâm lý nhàm chán trong công việc. Công việc
chủ yếu cần sự nhạy bén, khéo léo trong giao tiếp, xử lý nhanh các tình huống,
đơi khi tiếp xúc với quá nhiều khách hàng gây nên áp lực tâm lý cho nhân viên,
đặc biệt là nhân viên giao dịch. Không phải do phân công lao động thiếu đồng
đều mà do đặc trưng công việc của từng phòng ban cho nên vẫn tồn tại hiện
tượng phòng làm việc ít, phịng làm việc nhiều. Do đó, khi ban lãnh đạo ít có sự
thun chuyển cơng tác giữa các nhân viên phịng ban thì sẽ gây tâm lý nhàm
chán và có thể ghen tỵ cho người lao động.
 Phúc lợi, dịch vụ

Ngân hàng áp dụng đúng quy định về phúc lợi của Nhà nước theo Bộ luật
lao động Việt Nam, có hai loại phúc lợi là phúc lợi tự nguyện và phúc lợi bắt
buộc.
-

Áp dụng đúng chế độ bảo hiểm xã hội theo đúng 5 chế độ mà Luật lao
động đã ban hành.

-

Tiến hành khám sức khỏe định kì cho người lao động hàng năm.


-

Trợ cấp thăm hỏi, ốm đau từ 3 ngày trở lên với mức trợ cấp 300.000 vnđ/
người/ lần , không quá 2 lần/ năm.


-

Tổ chức kỷ niệm ngày quốc tế phụ nữ 8/3, 20/10, ngày thương binh liệt
sĩ… và các ngày lễ trọng đại khác, và có quà cho những người thuộc diện
hưởng.

-

Hàng năm tổ chức đi tham quan, nghỉ mát.

-

Ngày tết thiếu nhi, trung thu có quà cho trẻ em là con em trong ngành,
tuổi từ 14 trở xuống.
Ngân hàng nông nghiệp huyện Giao Thủy đã thực hiện khá đầy đủ các

phúc lợi cho người lao động, bên cạnh đó cịn quan tâm đến con em của nhân
viên trong ngành, điều này tạo tâm lý yên tâm, sẵn sàng cống hiến và gắn bó lâu
dài với tổ chức, từ đó tạo động lực mạnh mẽ làm việc cho người lao động.
 Kết quả mong muốn và trách nhiệm của người lao động

Mỗi người khi hành động, làm việc đều có những mục tiêu nhất định, có
thể về vật chất, về sự thăng tiến hay bất kỳ một yếu tố nào đó, song, đây chính

là động lực làm việc hữu hiệu giúp nhân viên làm việc hết mình vì mục tiêu bản
thân đề ra và hướng tới mục tiêu chung của tổ chức. Khi mục tiêu hoàn toàn
được hoàn thành hoặc được thực hiện phần nào đó thì cũng kích thích người ta
hưng phấn làm việc có thể tiến tới mục tiêu cao hơn hoặc hồn thành nốt mục
tiêu đã đưa ra. Chính vì con người làm việc hồn tồn có mục tiêu, mục đích rõ
ràng cho nên với tư cách của những nhà quản lý, cán bộ lãnh đạo Ngân hàng
Giao Thủy đã cố gắng quan sát, tìm hiểu những mục tiêu riêng của cá nhân nhân
viên từ đó có những quyết định, hành động hướng họ làm việc vì mục tiêu
chung của tổ chức nhưng không tách rời mục tiêu riêng của cá nhân, bằng
những biện pháp giúp đỡ trong công việc, trao cho họ những cơng cụ làm việc
hữu ích. Một trong những công cụ mà lãnh đạo Ngân hàng Giao Thủy đã thực
hiện đó là thực hiện phân quyền và trao quyền, giao cho nhân viên quyền tự chủ
trong giới hạn có thể, từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm làm việc của nhân
viên, đồng thời cũng cho họ cảm giác được tín nhiệm, do đó họ sẽ hết lịng vì
cơng việc, dốc sức vì sự nghiệp chung của tổ chức.
 Sự thừa nhận và thăng tiến trong nghề nghiệp


Sự thừa nhận của tổ chức, đồng nghiệp không chỉ dừng lại ở việc công
nhận về khả năng nghiệp vụ, ứng xử mà cịn được cụ thể hóa bằng các cuộc
bình bầu thi đua khen thưởng hàng quý, hàng năm và giai đoạn.
Cuối mỗi năm, Ngân hàng Giao Thủy đều tiến hành bình bầu thi đua cho
các nhân viên và có các mức khen thưởng tương ứng.
Kết quả cơng tác thi đua khen thưởng tại NHNo & PTNT Giao Thủy năm
2009 như sau:
- 51/54 cán bộ đề nghị Ngân hàng nông nghiệp tỉnh đạt lao động tiên tiến,
3 cán bộ cịn lại khơng đạt do trong thời gian nghỉ sản và cán bộ mới tuyển
dụng, chưa đủ thời gian công tác xét thưởng.
- 2 cán bộ đề nghị chiến sỹ thi đua cấp cơ sở.
- 6 cán bộ đề nghị danh hiệu người tốt, việc tốt.

- 1 cán bộ đề nghị danh hiệu 2 giỏi nghiệp vụ và tin học.
- 5 cán bộ đề nghị danh hiệu người tốt việc tốt 5 năm từ 2005-2009.
Hành động này đã kịp thời tiếp thêm động lực làm việc cho người lao
động, tăng thêm trách nhiệm làm việc cho họ vì những danh hiệu mà họ đã đạt
được. Tuy nhiên, thực tế cũng cho rằng, việc bình bầu này cịn mang tính hình
thức nhiều, tính chất cào bằng, bình qn, ai cũng được khen và mức thưởng
chênh lệch không đáng kể phần nào đó đã gây sự bất mãn, giảm sự cống hiến
của họ cho tổ chức.
Dù vậy , đây cũng là cơ sở để ban lãnh đạo Ngân hàng xem xét, cân nhắc
và đưa ra các quyết định thăng tiến trong nghề nghiệp của nhân viên. Có thể
thăng tiến trong chức vụ điều hành nhưng cũng có thể là thăng tiến trong trình
độ nghiệp vụ. Đó là cử nhân viên xuất sắc, có điều kiện học tập và mong muốn
học tập nâng cao kiến thức nghiệp vụ và quản lý, trở thành lớp cán bộ kế cận
sau này. Đây là công cụ tạo động lực khá hiệu quả đối với bất kì tổ chức nào
khơng riêng gì đối với Ngân hàng Giao thủy.
2.8.2. Đánh giá công tác tạo động lực
2.8.2.1. Điểm mạnh


Qua phân tích sơ lược về các yếu tố tạo động lực tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thơn huyện Giao Thủy, có một số điểm đáng cơng
nhận như sau:
Thứ nhất, tổ chức đã tạo ra được môi trường vật chất tương đối tốt, tạo
điều kiện làm việc hiện đại, đầy đủ cho người lao động, tạo tâm lý thoải mái
góp phần nâng cao năng suất làm việc và hiệu quả cơng việc. Ngồi ra, Ngân
hàng cịn tổ chức được bữa ăn trưa đối với nhân viên nhà xa với mức giá hỗ trợ,
giúp người lao động bớt khó khăn và đảm bảo sức khỏe làm việc.
Thứ hai, Ngân hàng đã thực hiện đúng các chế độ bảo hiểm cho người lao
động, tạo tâm lý an tâm cho người lao động khi tham gia làm việc, từ đó họ sẵn
sàng cống hiến sức lực và tài năng cho tổ chức, vì lợi ích của bản thân cũng như

lợi ích chung của Ngân hàng.
Thứ ba, Ngân hàng đã kịp thời khen thưởng, khuyến khích tinh thần làm
việc cho người lao động, giúp người lao động hăng say, tâm huyết và trách
nhiệm với công việc hơn. Đồng thời, tổ chức cũng đã đáp ứng phần nào nhu cầu
học hỏi của các cán bộ nhân viên trong Ngân hàng bằng các lớp học nâng cao
trình độ với cách thức đào tạo trong và ngồi tổ chức. Điều này khơng những có
lợi cho bản thân người lao động mà còn tốt cho sự phát triển của tổ chức sau
này.
Thứ tư, bầu không khí làm việc ở Ngân hàng Giao Thủy được duy trì ổn
định với khơng khí thoải mái, chia sẻ và cảm thông giữa các nhân viên và giữa
nhân viên và cán bộ quản lý. Nó sẽ làm cho người lao động hứng khởi mỗi khi
bước chân đến nơi làm việc.
Thứ năm, ban lãnh đạo Ngân hàng đã đưa ra những chiến lược, mục tiêu
rõ ràng và phù hợp với tiềm lực của tổ chức, phân công lao động đúng chuyên
ngành, sở trường của nhân viên, kích thích được sự sáng tạo của nhân viên.
2.8.2.2. Điểm yếu
Bên cạnh những điểm mạnh là những điều mà ban lãnh đạo tổ chức Ngân
hàng thực hiện khá tốt thì cũng cịn tồn tại những điểm yếu cần khắc phục:


Một là, việc phân công lao động tại Ngân hàng Giao Thủy có thể nói là
hợp lý khi giao đúng người đúng việc, song lãnh đạo của Ngân hàng chưa phát
huy hết tiềm năng của người lao động, chưa đa dạng hóa cơng việc cho người
lao động. Mặt khác, việc phân công lao động tại các địa điểm cũng chưa hồn
tồn hợp lý, bởi vẫn cịn một số chị em có con nhỏ phải đi làm tại các chi nhánh
xa nơi ở, gây khó khăn trong việc đi lại, ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý làm
việc của người lao động.
Hai là, chính sách lương bổng của tổ chức vẫn chưa thỏa mãn được người
lao động, vẫn gây sự bất mãn đối với cơng việc. Chính sách lương đã được thể
chế hóa bởi luật của Nhà nước, song trong khn khổ của mình, tổ chức vẫn

chưa có những can thiệp hỗ trợ để đảm bảo thu nhập cho người lao động, tạo
động lực mạnh mẽ cho người lao động làm việc hăng say, nhiệt tình.
Ba là, trách nhiệm làm việc của nhân viên chưa cao, người lao động chưa
toàn tâm tồn ý vào cơng việc. Phần lớn họ vào làm bởi tính chất ổn định của
cơng việc đem lại, ít có sự thích thú, say mê đối với cơng việc.


×