Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

KHÁI LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÁC DOANH NGHIỆP DƯỢC PHẨM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.02 KB, 26 trang )

KHÁI LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP
KHẨU VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP DƯỢC PHẨM
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU
1.1.1. Thế nào là hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh quốc tế vượt ra khỏi phạm vi
một quốc gia. Có thể nói, hoạt động kinh doanh nhập khảu là hoạt động mua
bán hàng hóa hoặc dịch vụ từ nước ngòai để tái sản xuất hoặc phục vụ nhu cầu
trong nước nhằm mục đích thu lợi.
Như vậy, nhập khẩu là việc mua bán hàng hóa hoặc dịch vụ từ các tổ
chức kinh tế, các công ty nước ngoài để tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu đó
trên thị trường nội địa hoặc tái xuất khẩu nhằm thu lợi nhuận và nối liền sản
xuất với tiêu dùng.
1.1.2. Tác động của hoạt động kinh doanh nhập khẩu
Ta xem xét tác động của hoạt động kinh doanh nhập nhẩu với 3 đối tượng
đó là với nền kinh tế quốc dân, với doanh nghiệp và với người tiêu dùng để thấy
rõ hơn những tác động tích cực và các tác động tiêu cực của hoạt động kinh
doanh nhập khẩu.
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế quốc dân
1.1.2.1.1. Tác động tích cực
Nhập khẩu hàng hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội. Nhu cầu xã
hội hiện nay rất đa dạng vì thế chất lượng, mẫu mã, giá cả, … của các sản phẩm
càng đa dạng bao nhiêu càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội bấy nhiêu.
Hoạt động nhập khẩu đã là cách tốt nhất hiện nay để tăng mức thỏa mãn nhu
cầu của người tiêu dùng do hàng hóa được nhập về nhiều và trên thị trường hiện
nay có đa dạng hơn về chủng loại các mặt hàng.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu là nhân tố tác động tích cực đến quá
trình sản xuất, kinh doanh dịch vụ của cả nền kinh tế. Tại sao lại có thể nói
như vậy là do nhập khẩu tăng sẽ làm cho hàng hóa tự sản xuất trong nước buộc
phải cải tiến kỹ thuật, sử dụng mẫu mã hình thức ưu mắt hơn thì mới có thể
cạnh tranh được với hàng hóa nhập ngoại. Đồng thời, hoạt động kinh doanh


dịch vụ trong nước cũng sẽ phát triển hơn do những sản phẩm phục vụ cho kinh
doanh dịch vụ được cung cấp đầy đủ, tiện nghi và hiện đại hơn.
Hoạt động này còn làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông
qua việc đóng thuế nhập khẩu. Theo số liệu thống kê, nguồn thu thuế nhập khẩu
luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước. Giai đoạn từ 1992
đến 1998, có những năm tỷ lệ đạt 26% tổng thu. Giai đoạn 1999 – 2004, do phải
cắt giảm để thực hiện cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập, tỷ trọng có giảm
đi những vẫn chiếm 15,9%. Nếu tính cả thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc
biệt từ hàng nhập khẩu thì tỷ trọng thu từ hàng hóa nhập khẩu giai đoạn này đạt
rất cao (31,1%).
Góp phần tạo việc làm cho một bộ phận người lao động, giảm gánh nặng
thất nghiệp cho xã hội. Hiện nay, một bộ phận lớn người lao động đang làm
việc trong lịnh vực nhập khẩu và các lĩnh vực liên quan khác như thuế quan,
ngân hàng, …
1.1.2.1.2. Tác động tiêu cực
Nếu các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu định hướng không rõ ràng
có thể gây nên khủng hoảng thừa hoặc thiếu cho nền kinh tế. Khủng hoảng
thừa trong trường hợp doanh nghiệp dự đoán nhiều hơn sức mua của thị trường
và hàng hóa nhập về ồ ạt sẽ làm cho hàng hóa không tiêu thụ được do cung lớn
hơn cầu. Như trường hợp của Trung Quốc vào năm 2005 đã bị lâm vào tình
trạng khủng hoảng thừa khi mà lượng xe hơi tồn kho của Trung Quốc lên tới
600 nghìn chiếc, điện thoại di động tồn kho hơn 20 triệu chiếc cùng với 900 mặt
hàng khác có nguy cơ khủng hoảng thừa. Như vậy, khủng hoảng thừa sẽ làm
cho nền kinh tế giảm sút và hiệu quả kinh doanh không được như mong muốn.
Bên cạnh đó, tác động của khủng hoảng thiếu cũng mang lại nhiều mặt tiêu cực
cho nền kinh tế. Khi mà các nhà kinh doanh nhập khẩu không tính toán đúng
nhu cầu của thị trường, hàng hóa nhập về quá ít sẽ làm cho giá cả leo thang rất
nhanh do cung không đáp ứng nổi cầu. Một trường hợp điển hình đó là ở Ai
Cập thời gian từ đầu tháng 3/2008 đến nay đang có hiện tượng khủng hoảng
thiếu bánh mỳ nghiêm trọng. Chính phủ đã phải cho nhập khẩu thêm bộ mỳ và

trợ giá các lò bánh giảm bớt tình trạng thường xuyên xảy ra chen lấn, tranh
chấp, giành giật nhau để mua được bánh. Như vậy, hoạt động kinh doanh nhập
khẩu nếu không đựơc định hướng đúng sẽ rất dễ gây ra khủng hoảng thừa hoặc
khủng hoảng thiếu làm thiệt hại cho nền kinh tế.
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp
1.1.2.2.1. Tác động tích cực
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu giúp cho các doanh nghiệp tăng doanh
thu, tăng lợi nhuận, tăng thu nhập và đảm bảo được việc làm cho cán bộ công
nhân viên. Hàng hóa nhập về và được tiêu thụ sẽ làm tăng doanh thu cho doanh
nghiệp và với việc tính toán hợp lý giữa chi phí bỏ ra và doanh thu đạt được sẽ
tạo ra mức lợi nhuận đáng kể cho doanh nghiệp và từ đó doanh nghiệp sẽ có
thêm một khoản dôi dư để trả lương cho cán bộ, tăng lương giúp cho người lao
động đảm bảo hơn được chất lượng cuộc sống.
Để đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu thì các cán bộ phải thay đổi tư duy
theo hướng chuyên môn hóa để đáp ứng được quan hệ quốc tế mới có hiệu quả
trong vấn đề kinh doanh nhập khẩu. Các doanh nghiệp cần chú trọng vấn đề tạo
chữ tín. Các phòng ban phải tự vận động để nâng cao nghiệp vụ kinh doanh
nhập khẩu, tăng thêm sự hiểu biết về luật pháp, thông lệ trong thương mại quốc
tế. Chính những yếu tố bắt buộc đó đã làm cho trình độ của các cán bộ được
nâng cao.
Cơ sở vật chất cũng phải thay đổi với điều kiện của hoạt động kinh
doanh nhập khẩu theo hướng tốt hơn. Để doanh nghiệp được cấp giấy phép
nhập khẩu nhất là đối với các mặt hàng dược phẩm, thì buộc các doanh nghiệp
phải có các xưởng đạt tiêu chuẩn GMP, các máy tính nối mạng, … Như vậy, để
có hoạt động nhập khẩu buộc các doanh nghiệp phải có cơ sở vật chất hiện đại
hơn từ đó doanh nghiệp sẽ có hướng sản xuất hàng hóa với tiêu chuẩn tốt hơn.
1.1.2.2.2. Tác động tiêu cực
Nếu doanh nghiệp không xác định được nhu cầu, chủng loại, số lượng
hàng hóa thì dễ gây thua lỗ. Lúc này hoạt động nhập khẩu nghiễm nhiên trở
thành gánh nặng đối với doanh nghiệp. Nguyên nhân có thể do thuốc quá hạn sử

dụng, bị tồn kho quá lâu mà không tiêu thụ được hoặc việc nhập những loại
nguyên liệu không phù hợp với năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong
nước.
Các doanh nghiệp không nhạy bén với xu thế phát triển của toàn cầu sẽ
gây thất thoát về tài chính. Ví dụ trong trường hợp điển hình đó là giá trị hàng
hóa đang tăng lên thì doanh nghiệp nhập vào và khi giá hàng hóa đang xuống
thì lại không nhập. Hoặc trong trường hợp có sự biến động tỷ giá, khi đồng
ngoại tệ tăng, đồng nội tệ giảm giá là lúc doanh nghiệp không nên nhập khẩu
hàng hóa nhưng nếu không nắm được rõ quá trình tăng giảm của tỷ giá thì
doanh nghiệp rất dễ bị thất thoát về mặt tài chính ngay ở khâu đầu tiên.
Nếu doanh nghiệp không xác định tốt được nhu cầu của thị trường thì sẽ
làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp . Cụ thể là trong trường hợp tháng
11/2007 khi mà thị trường đang rất cần thuốc để … dịch tiêu chảy nhưng đến
tận tháng 1/2008 doanh nghiệp mới nhập khẩu hàng về trong khi đó các doanh
nghiệp khác đã tung thuốc ra tiêu thụ trên thị trường. Lúc này doanh nghiệp đã
nhập khẩu chậm hơn các doanh nghiệp khác và việc nhập khẩu thuốc chậm
bỗng nhiên trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp khi mà lượng thuốc nhập về
không còn tiêu thụ được nhiều trên thị trường.
1.1.2.3. Đối với người tiêu dùng
1.1.2.3.1. Tác động tích cực
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu giúp đảm bảo được quyền lợi của
người tiêu dùng. Người tiêu dùng có thể lựa chọn mặt hàng theo ý muốn. Họ có
thêm nhiều sự lựa chọn, có thể dùng mặt hàng tốt nhất với cùng một giá thành.
Người tiêu dùng được đáp ứng nhu cầu nhanh và cấp thiết. Điều này
càng thể hiện rõ hơn ở lĩnh vưc y tế. Lượng thuốc sản xuất trong nước hiện nay
chưa đủ để đáp ứng cho người tiêu dùng. Một con số rõ nhất đấy là hiện nay
trong các bệnh viện lượng thuốc ngoại chiếm tới 65% các chỉ định của bác sĩ,
nhiều nhất là đối với những bệnh nhân ngoại trú. Như vậy, nếu không có lượng
thuốc lớn từ hoạt động nhập khẩu sẽ không thể đáp ứng được ngay nhu cầu của
các bệnh nhân đặc biệt trong các trường hợp cấp cứu.

1.1.2.3.2. Tác động tiêu cực
Có thể người tiêu dùng phải chịu giá cả quá cao nếu đó là hình thức
nhập khẩu độc quyền tương đối. Một ví dụ để nói về hiện tượng độc quyền
tương đối trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu đó là: nếu có dịch SAT thì
doanh nghiệp nào nhập khẩu về trước thì có thể nâng giá thành lên cao, trong
trường hợp này cung < cầu, cung không đáp ứng nổi cho cầu sẽ gây nên việc
tăng giá đột ngột. Người tiêu dùng khi đó sẽ phải bỏ ra lượng tiền lớn hơn so
với giá trị thực tế họ phải bỏ ra để nhận được các lợi ích mà họ cần.
1.2. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm và bản chất của HQKD
Mục đích chung của các công ty, doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt
động kinh doanh thì họ đều có mục đích chung là tối đa hoá lợi nhuận. Vậy, với
những nguồn lực hạn chế như: Trình độ nguồn nhân lực, khả năng vốn và công
nghệ,… làm sao có thể mang lại lợi nhuận cao nhất? Để lý giải điều này, người
ta thường sử dụng thuật ngữ “HQKD”.
Để hiểu rõ khái niệm và bản chất HQKD, chúng ta có thể xem xét sâu
hơn một số quan niệm trong số đó.
HQKD là kết quả thu được trong hoạt động kinh doanh, là doanh thu tiêu
thụ hàng hoá.
Theo đó, HQKD đã được đồng nhất với kết quả kinh doanh. Nghĩa là: chỉ
cần các hoạt động kinh doanh khác nhau mang lại kết quả như nhau đã có thể
kết luận rằng HQKD của các hoạt động đó là bằng nhau, mà không cần xem xét
đến các mức chi phí, thời gian bỏ ra để đạt được kết quả đó có thể là khác nhau.
Rõ rang, quan niệm này đã thể hiện sự không hợp lý về HQKD.
HQKD là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng
thêm của chi phí
Quan niệm này phản ánh mối quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt
được và chi phí phải bỏ ra để đạt được kết quả đó. Việc xem xét mối quan hệ đó
cho biết một đơn vị chi phí tăng them tạo ra được bao nhiêu đơn vị kết quả. Tuy

nhiên, quan niệm này còn nhiều bất cập, đó là chỉ xét tới phần kết quả và chi phí
tăng them mà không đề cập đến kết quả và chi phí ban đầu. Do vậy quan niệm
này chỉ đánh giá được hiệu quả của hoạt động bổ sung mà không đánh giá được
toàn bộ hiệu quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. HQKD được so
sánh giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra
Quan niệm này phản ánh HQKD chính là lợi nhuận thu được từ hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Mối quan hệ bản chất của HQKD đã được
đề cập đến, có cả kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Tuy nhiên,
quan niệm này chưa thể hiện được tương quan về lượngvà về chất giữa kết quả
và chi phí. Điều đó thể hiện khi các hoạt động kinh doanh cùng tạo ra một mức
lợi nhuận, nhưng thời gian để đạt mức lợi nhuận đó, quy mô của các hoạt động
kinh doanh là khác nhau, như vậy chưa thể nói được rằng HQKD giữa các hoạt
động đố là giống nhau được.
HQKD là mối quan hệ giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của
chi phí đồng thời phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất
Quan niệm này đã phản ảnh được trình độ sử dụng các nguồn lực sản
xuất của doanh nghiệp thông qua mối tương quan về lượng và về chất giữa kết
quả và chi phí, sự vận động của kết quả và sự vận động của chi phí.
Như vậy, quan niệm thứ tư là quan niệm đúng đắn và đầy đủ hơn cả. Tóm
lại, ta có thể đưa ra khái niệm HQKD như sau: HQKD là phạm trù phản ánh
mối quan hệ giữa sự vận động của kết quả của hoạt động kinh doanh với sự vận
động của chi phí tạo ra kết quả đó, phản ảnh trình độ sử dụng các nguồn lực sản
xuất, trình độ tổ chức bộ máy quản lý của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao
nhất các mục tiêu kinh tế - xã hội với chi phí thấp nhất.
Mặt định tính: Mức độ hiệu quả kinh doanh là những nỗ lực của doanh
nghiệp và phản ánh trình độ quản lý của doanh nghiệp đồng thời gắn những nỗ
lực đó với việc đáp ứng các mực tiêu và yêu cầu của doanh nghiệp và của xã hội
về kinh tế, chính trị và xã hội.
Mặt định lượng: hiệu quả kinh doanh biểu hiện tương quan so sánh giữa
kết quả thu được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh doanh

chỉ có được khi kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra.
1.2.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
1.2.2.1. Căn cứ vào phương pháp tính hiệu quả
Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối: phạm trù chỉ lượng hiệu quả của từng
phương án, từng thời kỳ kinh doanh, từng doanh nghiệp bằng cách lấy chênh
lệch giữa kết quả kinh doanh và chi phí tạo ra kết quả đó.
Tổng lợi nhuận = Tổng kết quả - Tổng chi phí
Hiệu quả kinh doanh tương đối: phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực sản xuất của doanh nghiệp
H
1

= KQ/CP hoặc H
2
= CP/KQ
1.2.2.2. Căn cứ vào phạm vi tính toán hiệu quả
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp: Hiệu quả kinh doanh được tính chung cho
toàn doanh nghiệp, chó các bộ phận trong doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh bộ phận: là hiệu quả kinh doanh tính riêng cho từng
bộ phận của doanh nghiệp hoặc từng yếu tố sản xuất.
1.2.2.3. Căn cứ vào thời gian mang lại hiệu quả
Hiệu quả trước mắt: là hiệu quả kinh doanh được xét trong khoảng thời
gian ngắn, mang lại ngay khi thực hiện hoạt động kinh doanh
Hiệu quả lâu dài: là hiệu quả được xét trong khoảng thời gian dài, mang
lại sau khi thực hiện hoạt động kinh doanh trong một thời gian nhất định
1.2.2.4. Căn cứ vào đối tượng xem xét hiệu quả
Hiệu quả kinh doanh trực tiếp: hiệu quả do chính việc thực hiện hoạt
động kinh doanh đó mang lại.
Hiệu quả kinh doanh gián tiếp: hiệu quả do một hoạt động kinh doanh
khác mang lại.

1.2.2.5. Căn cứ vào khía cạnh khác của hiệu quả
Hiệu quả tài chính: hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt kinh tế
tài chính được biểu hiện qua các chỉ tiêu thu chi trực tiếp của doanh nghiệp.
Hiệu quả chính trị - xã hội: hiệu quả kinh doanh về khía cạnh chính trị -
xã hội.
1.2.2.6. Căn cứ vào phạm vi của hoạt động thương mại
Hiệu quả kinh doanh nội thương: hiệu quả do hoạt động kinh doanh nội
địa mang lại.
Hiệu quả kinh doanh ngoại thương: hiệu quả do hoạt động kinh doanh
quốc tế mang lại
1.2.3. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.3.1. Chỉ tiêu lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
Chỉ tiêu lợi nhuận:
Trong cơ chế thị trường, lợi nhuận (P) vừa được coi là nhân tố để tính toán hiệu
quả kinh tế, vừa được coi là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của doanh nghiệp. Chỉ
tiêu này được tính theo công thức:
P = D – ( Z + th + TT)
Trong đó:
P: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh.
D: Doanh thu tiêu thụ trong 1 kỳ kinh doanh.
Z: Giá thành sản phẩm trong 1 kỳ kinh doanh.
Th: Các loại thuế phải nộp sau mỗi kỳ
TT: Các tổn thất sau mỗi kỳ kinh doanh.
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận: Chỉ tiêu này được tính theo hai cách:
P
dt
= Tổng P/Tổng D
hoặc P
cp
= Tổng P/Tổng CP

1.2.3.2. Chỉ tiêu mức vốn hao phí cho 1 đơn vị sản phẩm
Chỉ tiêu này được tính theo công thức
S = V/Q ( Tổng vốn/sản lượng)
Trong đó:
S
v
: Suất hao phí vốn.
V: Tổng vốn.
Q: Sản lượng (sản phẩm)
Chỉ tiêu này cho ta biết được hiệu quả sử dụng các loại vốn bằng tiền của
doanh nghiệp. Lượng vốn sử dụng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp
gồm: Vốn đầu tư cơ bản, vốn cố định, vốn lưu động…
1.2.3.3. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư
Chỉ tiêu này được tính toán căn cứ vào mức lợi nhuận thu được sau mỗi
kỳ kinh doanh và do đó, nó cho biết rõ hiệu quả của việc sử dụng vốn đầu tư sau
khi đã được vật hoá. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư phản ảnh khoảng thời gian mà
vốn đầu tư dần dần được thu hồi lại sau mỗi kỳ kinh doanh và được xác định
theo công thức sau:
T
v
= V
đt
/P ( tổng vốn đầu tư trong thời kỳ kinh doanh/lợi nhuận sau mỗi
kỳ kinh doanh)
Trong đó:
T
v
: Thời hạn thu hồi vốn đầu tư.
P: Lợi nhuận thu được sau mỗi kỳ kinh doanh.
V

đt
: Tổng số vốn đầu tư chu kỳ kinh doanh đó.
Chỉ tiêu này cho thấy thời hạn thu hồi vốn đầu tư mà càng ngắn thì hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư sẽ càng cao và ngược lại.
1.2.3.4. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn đầu tư

×