Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN TRONG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.69 KB, 13 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN
TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
Vốn là một phạm trù kinh tế, điều kiện tiên quyết cho bất cứ doanh nghiệp ,
nghành nghề kỹ thuật, kinh tế ,dịch vụ nào trong nền kinh tế. Để tiến hành được hoạt
động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải nắm giữ được lượng vốn nào đó.
1.1.1 Vốn là gì?
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt
động kinh doanh với mục tiêu chung và quan trọng nhất đối với doanh nghiệp đó là lợi
nhuận. Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp phải luôn gắn liền với sự hoạt động của
đồng vốn. Để hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thực sự có hiệu quả
thì điều đầu tiên mà các doanh nghiệp quan tâm và nghĩ đến là làm thế nào để có đủ
vốn và sử dụng nó như thế nào để đem lại hiệu quả cao nhất. Vậy vốn là gì?
Như vậy, theo quan điểm của K.Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng
dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này mang một tầm khái quát lớn,
nhưng do bị hạn chế bởi những điều kiện lúc bấy giờ nên Marx đã quan niệm chỉ có
khu vực sản xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, các nhà khoa học đại diện cho các trường phái khác nhau đã bổ
sung các yếu tố mới cũng được coi là vốn. Nổi bật nhất là Paul.A.Samuelson_ Nhà kinh
tế học trường phái tân cổ điển đã kế thừa các quan niệm của phái cổ điển đã phân chia
các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thành 3 bộ phận là đất đai, lao động và vốn .
Trong đó đất đai và lao động là các yều tố đầu tiên sơ khai, và vốn, hàng hóa là các yếu
tố kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong cuốn “Kinh tế học” của David Begg đã bổ sung thêm: “Vốn được phân
chia theo hai hình thái là vốn hiện vật và vốn tài chính”. Như vậy, ông đã đồng nhất vốn
với tài sản của doanh nghiệp.Trong đó:
Vốn hiện vật: Là các hàng hoá dự trữ đã sản xuất mà sử dụng để sản xuất ra các
hàng hoá khác.
Vốn tài chính: Là tiền và tài sản trên giấy của doanh nghiệp.
Vốn của doanh nghiệp dùng vào hai mục đích: thứ nhất dùng cho các hoạt động


và khai thác (đảm bào cho các hoạt dộng hàng ngày của doanh nghiệp, trả tiền cho
người cung ứng, thanh toán tiền lương, nộp phí, lệ phí, đóng góp cho xã hội vv…); thứ
hai dùng để đầu tư trung và dài hạn (tiếp tục sản xuất, đầu tư mở rộng theo chiều rộng
và chiều sâu ).
Ngoài ra, có nhiều quan niệm khác về vốn nhưng đều có thể khái quát lại trong
mọi quá trình sản xuất kinh doanh hình thái biểu hiện như sau:
T...... H (TLLD, TLSX) ....... SX ....... H’......T’
Như vậy, muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nào cũng
cần phải có một lượng vốn nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là điều kiện tiên
quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Nhưng tiền không phải là vốn. Nó chỉ trở thành vốn khi có đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất: Tiền phải đại diện cho một lượng giá trị tài sản hữu hình hoặc vô hình
hay nói cách khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng hàng hoá có thực (máy
móc, nhà xưởng, bằng phát minh, tài sản trí tuệ khác …).
Thứ hai: Tiền phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định. Doanh
nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh phải có được lượng tiền đủ lớn
đề đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ban đầu (mua sắm trang thiết bị máy móc, thuê nhà
xưởng…). Muốn làm được điều đó, các doanh nghiệp không chỉ dựa vào tiềm năng về
vốn của mình, mà phải tìm cách thu hút vốn từ nhiều nguồn khác như phát cổ phiếu,
góp vốn liên doanh liên kết...
Thứ ba: Khi có đủ một lượng nhất định thì tiền phải luôn vận động để sinh lời:
tiền chỉ là một dạng tiềm năng của vốn thông qua quá trình sản xuất kinh doanh lượng
tiền ban đầu tăng lên. Trong quá trình vận động vốn không ngừng thay đổi hình thái
biểu hiện nhưng bắt đầu hay kết thúc của vòng tuần hoàn này luôn là biểu hiện dưới
dạng tiền.
Từ những vấn đề trên ta rút ra vốn có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Vốn là hàng hoá đặc biệt:
- Vốn là hàng hoá vì nó bao hàm giá trị và giá trị sử dụng.
+ Về mặt giá trị: giá trị của vốn được thể hiện ở chi phí mà ta bỏ ra để có được
nó.

+ Về mặt giá trị sử dụng thể hiện ở việc ta sử dụng vốn để đầu tư vào quá trình
sản xuất kinh doanh như mua máy móc, thiết bị vật tư, hàng hoá...
- Vốn là hàng hoá đặc biệt vì có sự tách biệt rõ ràng giữa quyền sử dụng và
quyền sở hữu nó. Khi mua các hàng hóa khác quyền sử dụng và quyền sở hữu không
tách rời nhau nhưng với vốn ta có thể vay mượn khi đó chỉ có quyền sử dung mà không
có quyền sở hữu.
Tính đặc biệt của vốn còn thể hiện ở chỗ: Nó không bị khấu hao trong quá trình
sử dụng mà còn có khả năng tạo ra giá trị lớn hơn bản thân nó, có khả năng sinh lời.
Chính vì vậy, giá trị của nó phụ thuộc vào lợi ích cận biên của của bất kỳ doanh nghiệp
nào. Vì vậy nhiệm vụ đặt ra là phải làm sao sử dụng tối đa hiệu quả của vốn để đem lại
một giá trị thặng dư tối đa, đủ chi trả cho chi phí đã bỏ ra mua nó nhằm đạt hiệu quả lớn
nhất.
Thứ hai: Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định chứ không thể có đồng vốn
vô chủ. Tuỳ theo hình thức đầu tư mà người sở hữu và người sử dụng vốn có thể đồng
nhất hay độc lập. Song, trường hợp nào đi chăng nữa, người sở hữu vốn vẫn được ưu
tiên đảm bảo quyền lợi và quyền sở hữu vốn của mình.
Thứ ba: Vốn phải luôn luôn vận động sinh lời. Một đồng hôm nay có giá trị hơn
giá trị đồng tiền ngày hôm sau, do giá trị của đồng tiền chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
như: đầu tư, rủi ro, lạm phát, chính trị...
Thứ tư: Vốn phải được tích tụ tập trung đến một lượng nhất định mới có thể
phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, một doanh nghiệp muốn khởi sự thì phải có một lượng vốn pháp định đủ
lớn. Muốn kinh doanh tốt thì doanh nghiệp phải tìm cách gom tiền thành món để có thể
đầu tư vào phương án sản xuất của mình. Trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp
quản lý vốn kinh doanh và sử dụng vốn kinh doanh có hiêu quả là nội dung quan trọng
nhất, có tính chất quyết định đến mức độ tăng trưởng hay suy thoái của doanh nghiệp.
Do vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ta vần phải nắm được vốn có
những loại nào, đặc biệt vận động của nó ra sao...
1.1.2 Vai trò của vốn đối với doanh nghiệp
Vốn là một yếu tố đầu vào cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là điều

kiện vật chất không thể thiếu được trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Như vậy, vốn kinh doanh của doanh nghiệp có vai trò quyết định trong thành
lập hoạt động và phát triển cuả doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp lớn hay nhỏ là một
trong những điều kiện để sắp xếp doanh nghiệp vào quy mô như : nhỏ, trung bình... và
cũng là một trong những điều kiện sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có và tương lai về
sức lao động, nguồn hàng hoá, mở rộng và phát triển thị trường. Vốn là điều kiện tiền
đề của quá trình sản xuất kinh doanh, nó quyết định sự ổn định liên tục của quá trình
sản xuất kinh doanh.
Vốn kinh doanh thực chất là nguồn của cải của xã hội tích luỹ tập trung lại. Nó
chỉ là một điều kiện, một nguồn khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Tuy
nhiên nó chỉ phát huy được tác dụng khi biết sử dụng quản lý chúng một cách đúng
hướng hợp lý tiết kiệm và có hiệu quả.
1.1.3 Phân loại vốn
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ ... hay hoạt
động bất cứ ngành nghề gì, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định. Số
vốn kinh doanh đó được biểu hiện dưới dạng tài sản. Trong quá trình sản xuất kinh
doanh, doanh nghiệp phải sử dụng các loại vật tư, nguyên vật liệu, hao mòn máy móc
thiết bị, trả lương nhân viên... Để quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện các định
mức chi phí, hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí ở từng khâu sản xuất và toàn
doanh nghiệp. Cần phải tiến hành phân loại vốn, phân loại vốn có tác dụng kiểm tra,
phân tích quá trình phát sinh những loại chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tiến
hành sản xuất kinh doanh. Có nhiều cách phân loại vốn tùy vào mục đích nghiên cứu
mà ta có thể phân loại vốn theo tiêu thức sau:
1.1.3.1 - Phân loại vốn theo nguồn hình thành :
Theo cách phân loại này, vốn bao gồm: Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.

Nợ phải trả: là các khoản nợ phát sinh trong quá trình kinh doanh mà doanh
nghiệp có nhiệm vụ phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế khác như ngân hàng, các
pháp nhân kinh tế khác, phải trả cho người bán, phải trả nhà nước,... Ngoài ra, còn có
khoản vốn chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị nguồn hàng, khách hàng và bạn hàng.



Vốn chủ sở hữu: là số vốn phải có khi hình thành doanh nghiệp, tức là số vốn
cần thiết để đăng ký kinh doanh, hoặc vốn góp của công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc vốn của nhà nước giao. Có ba nguồn cơ bản tạo
nên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, đó là:
- Vốn kinh doanh: Gồm vốn góp (Nhà nước, các bên tham gia liên doanh, cổ
đông, các chủ doanh nghiệp) và phần lãi chưa phân phối của kết quả sản xuất kinh
doanh.
- Các quỹ của doanh nghiệp: Hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh như:
quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng phúc lợi.
- Chênh lệch đánh giá lại tài sản (chủ yếu là tài sản cố định): Khi nhà nước cho
phép hoặc các thành viên quyết định.
Ngoài ra, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm vốn đầu tư XDCB và kinh
phí sự nghiệp (khoản kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, phát không hoàn lại sao cho
doanh nghiệp chi tiêu cho mục đích kinh tế lâu dài, cơ bản, mục đích chính trị xã hội...).
1.1.3.2 - Phân loại theo thời gian huy động và sử dụng vốn thì nguốn vốn của doanh nghiệp
bao gồm:

Nguồn vốn thường xuyên: bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn
của doanh nghiệp. Đây là nguồn vốn được dùng để tài trợ cho các hoạt động đầu tư
mang tính dài hạn như đầu tư vào tài sản cố định. Trong đó:
- Nợ dài hạn: Là các khoản nợ dài hơn một năm hoặc phải trả sau một kỳ kinh
doanh, không phân biệt đối tượng cho vay và mục đích vay.

Nguồn vốn tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm) đáp
ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh tron quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm: vay ngân hàng, tạm ứng,
người mua vừa trả tiền...
Như vậy, ta có:

TS = TSNH + TSCĐ
= Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
= Vốn tạm thời + Vốn thường xuyên
Việc phân loại theo cách này giúp doanh nghiệp thấy được yếu tố thời gian về
vốn mà mình nắm giữ, để sử dụng nguồn vốn thích hợp khi đầu tư.
1.1.3.3 - Phân loại vốn dựa trên phương thức chu chuyển của vốn
Theo đó người ta phân chia vốn thành hai loại là vốn cố định và vốn lưu động.

×