Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỨC CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.27 KB, 35 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỨC CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN
THIẾT PHẢI NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH.
Trong xu thế hội nhập và mở cửa nền kinh tế, cạnh tranh trở thành vấn đề
quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển được trong thị
trương cạnh tranh gay gắt và ngày càng quyết liệt, các doanh nghiệp cần phải
hình thành được những lợi thế cạnh tranh riêng và chú trọng đến việc nâng cao
sức cạnh tranh cho chính mình. Trên ý nghĩa đó, lý luận cơ bản về sức cạnh
tranh và sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh tạo ra bước đệm cho các
doanh nghiệp trong cuộc đua thị trường và khách hàng trong xu thế hiện nay.
I. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH
Cạnh tranh đã và đang diễn ra ngày càng gay gắt. Để có thể nâng cao sức
cạnh tranh cho doanh nghiệp, việc nắm vững các lý luận cơ bản về cạnh tranh
trở nên hết sức quan trọng với doanh nghiệp.
1. Khái niệm và bản chất của cạnh tranh.
Cạnh tranh là điều tất yếu và là đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế thị
trường. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tham gia kinh doanh cũng đều đối mặt với
cạnh tranh. Trong xu thế nền kinh tế ngày càng phát triển, thì cạnh tranh đã trở
thành một vấn đề trọng tâm trong chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp.
Bởi chỉ có khả năng cạnh tranh thì mới có thể đứng vững được trên thị trường.
Từ khi nền kinh tế vận hành, cạnh tranh đã trở thành vấn đề được nhiều
nhà kinh tế và các nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay, khái niệm “cạnh tranh”
được tiếp cận theo nhiều góc độ, được đứng trên nhiều quan điểm khác nhau.
Trước đây, khi mới bắt đầu nghiên cứu về cạnh tranh, người ta đã quan
niệm một cách máy móc và cho rằng cạnh tranh là một thuộc tính cố hữu của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Cách hiểu này chỉ phản ánh được một cách phiến
diện của khái niệm cạnh tranh, bởi lúc đó, người ta đã bỏ ngỏ cạnh tranh dưới
chế độ xã hội chủ nghĩa, và cho rằng dưới chế độ đó, thay vào cạnh tranh chỉ có
thi đua xã hội chủ nghĩa. Theo thời gian cùng với sự trưởng thành về mặt lý
luận và nhận thức, người ta đã dần bổ sung và hoàn thiện khái niệm cạnh tranh.
Trong lý thuyết cổ điển, vấn đề cạnh tranh được tiếp cận theo cách nhìn
nhận của nhà kinh tế học Adam Smith là: “Cạnh tranh là sự ganh đua, kình địch


giữa các nàh kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài
nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.
Khi bàn về chủ nghĩa tư bản, theo quan điểm của Các Mác, “cạnh tranh tư
bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự phấn đấu gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm
giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu
lợi nhuận siêu ngạch”. Trong khái niệm này, Các Mác đã nêu ra vấn đề cạnh
tranh trong xã hội tư bản chủ nghĩa, cạnh tranh diễn ra trong nền kinh tế với chế
độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Theo định nghĩa trong cuốn từ điển kinh doanh được xuất bản năm 1992
ở Anh thì cạnh tranh trong cơ chế thị trường chính là “sự ganh đua, sự kình địch
giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản xuất cùng một loại về
phía mình”.
Dưới góc độ kinh tế thuần tuý, cạnh tranh có thể được hiểu là “sự tranh
giành thị trường (khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp”, nói
cách khác là “sự đấu tranh giữa các doanh nghiệp nhằm giành giật những điều
kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để kiếm lời”.
Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học, khái niệm cạnh tranh được đề cập “là
sự đấu tranh đối lập giữa các cá nhân, tập đoàn hay quốc gia và nó nảy sinh khi
hai hay nhiều bên cố gắng giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành
được”.
Theo cách tiếp cận trong báo cáo về cạnh tranh toàn cầu, khái niệm “cạnh
tranh đối với một quốc gia là khả năng của nước đó đạt được những thành quả
nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
cao được xác định bằng thay đổi của GDP trên đầu người theo thời gian”.
Dưới góc nhìn của Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của tổng thống Mỹ,
khái niệm cạnh tranh với một quốc gia được hiểu là: “Cạnh tranh đối với một
quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng,
có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường
quốc tề đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước
đó”.

Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt Nam thì khái niệm cạnh tranh
được cho là “vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hoá, dịch vụ, đó là con đưòng
cũng như là phương thức để giành lấy lợi nhuận cao cho các chủ thể nền kinh
tế”.
Với khái niệm canh tranh, có quan điểm lại cho rằng: “Cạnh tranh đối với
một quốc gia là khả năng của nước đó đã đạt được những thành quả nhanh và
bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, được
xác định bằng thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo
thời gian”.
Ngoài ra, còn có khái niệm khác về cạnh tranh là” Cạnh tranh có thể định
nghĩa như một khả năng của doanh nghiệp nhằm đáp ứng và chống lại các đối
thủ cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ một cách lâu dài và có lợi
nhuận”. Nhiều nhà nghiên cứ đã cho rằng, một doanh nghiệp sẽ cạnh tranh
thành công khi sở hữu những lợi thế mà đối thủ của họ không có được. Tuy
nghiên, lợi thế đó có thể bị lu mờ dần theo thời gian, và trong điều kiện biến đổi
liên tục của thị trường, thì dù sớm hay muộn, doanh nghiệp đó cũng bị mất dần
đi lợi thế cạnh tranh đó.
Như vậy, khái niệm cạnh tranh được nhìn nhận dưới nhiều quan điểm,
nhiều giác độ và tùy theo phạm vi, mục đích và lĩnh vực nghiên cứu. Nhưng
nhìn chung có thể hiểu một cách chung nhất là “sự ganh đua, đấu tranh gay gắt
và quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị trường hàng
hoá nào đó nhằm giành giật thị trường và khách hàng, thông qua đó tiêu thụ
được nhiều hàng hoá và thu được lợi nhuận cao”.
Thực chất của cạnh tranh chính là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa
các chủ thể khi tham gia vào một thị trường. Các chủ thể khi tham gia vào thị
trường luôn muốn tối đa hoá lợi ích của mình. Với các doanh nghiệp, lợi nhuận
luôn là mục tiêu quan trọng, là kết quả mong đợi sau quá trình kinh doanh. Còn
với khách hàng, hàng hoá chất lượng tốt, giá cả hợp lý, nhiều tiện ích, giá trị sử
dụng cao lại luôn là sự lựa chọn tối ưu. Đây là quá trình mà các chủ thể kinh tế
sử dụng các biện pháp để giành và chi phối thị trường, thu hút và giữ khách

hàng, đồng thời đảm bảo tiêu thụ có lợi nhất, để nâng cao vị thế của mình.Có
thể nói rằng, cạnh tranh là một phương thức vận động của thị trường. Thị trường
và cạnh tranh luôn gắn liền với nhau. Không có cạnh tranh thì không có nền
kinh tế thị trường, và nói đến thị trường cũng đồng nghĩa nói tới sự cạnh tranh.
Chính vì vậy, khi kinh doanh trên bất cứ thị trường nào, thì dưới các phương
thức khác nhau, tuỳ theo các mức độ khác nhau, cạnh tranh luôn xuất hiện và
diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Như vậy, cạnh tranh được tiếp cận theo nhiều góc độ, phạm vi và mục
đích nghiên cứu. Nhìn chung, có thể thống nhất các khái niệm đó ở một số điểm
đó là:
- Về mục tiêu của cạnh tranh: Tối đa hoá lợi nhuận và nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao mức sống của quốc gia,
- Phương pháp thực hiện: Tận dụng và khai thác lợi thế so sánh của mình
trong việc cung ứng sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh.
- Thời gian: Cạnh tranh là một quá tình, vì thế nó đòi hỏi sự liên tục, bất kỳ
sự gián đoạn nào cũng để tuột mất vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền
kinh tế.
2. Các mô hình cạnh tranh.
Cạnh tranh là tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường. Vấn đề này
đã được nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu và phân tích, để đưa ra những yếu tố
quan trọng tác động đến cạnh tranh và từ đó, tạo ra nền tảng cho các doanh
nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trong cuộc chiến ngày càng gay go.
2.1 Lý thuyết cạnh tranh của Mc.Kinsey (mô hình 7S).
Để làm rõ hơn những yếu tố tác động đến cạnh tranh, Mc.Kinsey đã đề
xuất mô hình 7S (hình 1.1). Dưới góc độ nghiên cứu của Mc.Kinsey, ông cho
rằng để có năng lực cạnh tranh thì hệ thống tổng thể của doanh nghiệp không
chỉ bao gồm phần cứng mà còn phải có cả phần mềm. Phần cứng bao gồm chiến
lược, cấu trúc, hệ thống và phần mềm bao gồm phong cách quản lý, bộ máy
nhân viên, tay nghề và những giá trị được chia sẻ. Các yếu tố này cần phải được
kết hợp và vận hành một cách linh hoạt, phối hợp nhịp nhàng với nhau, và như

vậy sẽ giúp doanh nghiệp gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường mục tiêu.
Trong đó, những giá trị chia sẻ sẽ là trung tâm điều phối các yếu tố phần cứng
và phần mềm, tại đó, các thông tin và nguồn lực sẽ được phân bổ một cách hợp
lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy được lợi thế của mình tạo ra sức
cạnh tranh so với đối thủ.
2.2 Mô hình các lực lượng cạnh tranh của Michael Porter.
Một doanh nghiệp hoạt động luôn chịu tác động của yếu tố môi trường
kinh doanh quốc tế, quốc gia và môi trường kinh doanh ngành. Trong các môi
trường ấy, cạnh tranh vẫn luôn hiện hữu và vận hành, chi phối tới các doanh
nghiệp. Do vậy, mô hình các lực lượng cạnh tranh của Michael Porter giúp các
doanh nghiệp phân tích và đánh giá được các tác động của môi trường cạnh
tranh ngành, từ đó xác định được những ưu thế của mình nhằm gia tăng sức
cạnh tranh trên thị trường (xem hình 1.2).
Khách hàng:
Bao gồm những khách hàng hiện tại và tiềm năng. Đây là những người có nhu
cầu sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Yếu tố cầu tham gia vào
tác động đến mức độ cũng như cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
cùng ngành. Vì thế, nếu doanh nghiệp tìm hiểu, nắm bắt và đáp ứng được đúng
nhu cầu của khách hàng về hàng hoá và dịch vụ thì sẽ giành được thắng lợi
trong kinh doanh.
Những giá trị được chia sẻ
Shared value
STRATEGY
Chiến lược
STAFFS
Bộ máy nhân viên
STRUCTURE
Cấu trúc
STYLE
Phong cách quản lý

SKILLS
Kỹ năng tay nghề
SYSTEM
Hệ thống
Hình 1.1: Mô hình lý thuyết cạnh tranh của Mc.Kinsey
Các đối thủ cạnh tranh:
Bao gồm toàn bộ các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh cùng
một ngành nghề và trên một khu vực thị trường của doanh nghiệp. Số lượng,
quy mô của các đối thủ cạnh tranh có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Các đối thủ tiềm ẩn
Đây là những doanh nghiệp mới xuất hiện hoặc sẽ xuất hiện trên cùng một khu
vực thị trường với doanh nghiệp. Sự tham gia của các doanh nghiệp này sẽ làm
thay đổi bức tranh ngành, gia tăng mức độ và quy mô cạnh tranh.
Sức ép từ phía nhà cung cấp:
Các nhà cung cấp bao gồm những người bán nguyên vật liệu, thiết bị, vốn,…các
yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp. Tính chất của thị trường (thị trường mang tính
chất cạnh tranh, thị trường cạnh tranh hoàn hảo hay độc quyền, có hay không có
s iu tit ca Nh nc) s tỏc ng khỏc nhau n hot ng mua sm, d
trca doanh nghip. Cỏc yu t nh s lng nh cung cp nhiu hay ớt, kh
nng cung cp v v trớ quan trng n mc no ca doanh nghip n nh
cung cp, tớnh cht thay th ca cỏc yu t u vo l d hay khú s tỏc ng
trc tip v to ra sc ộp vi doanh nghip trờn th trng.
Sc ộp ca cỏc sn phm thay th.
õy l yu t tỏc ng n quỏ trỡnh tiờu th sn phm ca doanh nghip. Nu
sn phm thay th xut hin cng nhiu loi thỡ cng gõy ra sc ộp ti hot ng
tiờu th sn phm hoc dch v ca doanh nghip. Bi khi ú, sn phm ca
doanh nghip s phi chu nhiu sc ộp vi cỏc sn phm thay th, khi m
khỏch hng a dựng nhng sn phm mi cú tớnh nng mi, v chi phớ thp hn.
Khả năng

ép giá
Khả năng
ép giá

Nguy cơ có các đối thủ cạnh tranh mới

Nguy cơ bị các sản phẩm (dịch vụ) thay thế
Sức ép
CC I TH TIM N
KHCH HNG
NGI
CUNG NG
SN PHM THAY TH
TRONG NGNH
Ganh ua gia cỏc DN hin cú
Hình 1.2: Mô hình 5 áp lực cạnh tranh của Micheal Porter
3. Phân loại hoạt động cạnh tranh
Cạnh tranh được tiếp cận theo nhiều quan điểm và theo nhiều lĩnh vực, và
theo nhiều mục đích khác nhau. Chính vì thế, việc phân loại hoạt động cạnh
tranh cũng rất đa dạng, được chia thành nhiều căn cứ khác nhau.
3.1 Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
− Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là hoạt động cạnh tranh trong đó các
doanh nghiệp cạnh tranh với nhau trong cùng một lĩnh vực, về cùng một loại
sản phẩm, dịch vụ.
− Cạnh tranh giữa các ngành: là hoạt động cạnh tranh trong đó các doanh
nghiệp cạnh tranh với nhau ở các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, các ngành
kinh tế khác nhau.
3.2 Căn cứ vào hình thái cạnh tranh:
− Cạnh tranh hoàn hảo: là loại cạnh tranh tự do, các doanh nghiệp có quy
mô vừa và nhỏ tham gia sản xuất, kinh doanh các sản phẩm tương tự nhau về

phẩm chất, quy cách, mẫu mã trên thị trường.
− Cạnh tranh không hoàn hảo là loại cạnh tranh trong đó một hoặc một vài
tập đoàn thống trị độc quyền sản xuất và kinh doanh sản phẩm trong các lĩnh
vực như ô tô, dầu khí…Ngày nay, loại cạnh tranh này ngày càng trở nên phổ
biến. Trong thị trường này, phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với nhau.
Một loại sản phẩm nhưng được phân thành nhiều cấp độ chất lượng khác nhau.
3.3 Căn cứ vào chủ thể kinh tế tham gia.
− Cạnh tranh giữa những người bán với nhau.
Đây là cuộc cạnh tranh gay gắt, và chiếm nhiều nhất trên thị trường. Khi
nền kinh tế càng phát triển, cuộc cạnh tranh này diễn ra càng mạnh mẽ và quyết
liệt, với nhiều cấp độ, cách thức và phương pháp khác nhau. Để tranh giành thị
trường nội địa và quốc tế, các doanh nghiệp đều phải điều chỉnh chiến lược
cạnh tranh của mình nhằm giành và giữ được thị trường, từng bước thâm nhập
vào thị trường của đối thủ cạnh tranh.
− Cạnh tranh giữa những người mua với nhau.
Cuộc cạnh tranh này thường diễn ra khi mà cung nhỏ hơn cầu. Chênh
lệch cung cầu (cung < cầu) càng lớn, thì mức độ cạnh tranh diễn ra càng gay
gắt. Điều này làm cho hàng hoá ngày càng trở nên khan hiếm, giá cả tăng vọt.
Tuy nhiên, người mua thường muốn mua được những sản phẩm hợp với nhu
cầu và thị hiếu của mình, và để có được những sản phẩm đó, họ vẫn sẵn sang trả
mức giá cao hơn để sở hữu được sản phẩm đó.
− Cạnh tranh giữa người bán và người mua
Đây là cạnh tranh trong đó diễn ra việc mua rẻ bán đắt trên thị trường.
Người mua luôn muốn có sản phẩm phù hợp nhu cầu, thị hiếu của mình với chất
lượng tốt, nhưng giá cả thấp nhất có thể. Còn người bán, để tối đa hoá lợi nhuận
của mình, luôn muốn sản phẩm với giá cao nhất có thể. Kết quả của quá trình
mua bán đó là giá cả cuối cùng khi hai bên đã thống nhất và thoả thuận với
nhau.
3.4 Căn cứ vào mức độ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế:
− Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước: là loại cạnh tranh trong đó Nhà

nước tham gia vào định hướng, điều chỉnh và giới hạn bằng các thể chế, pháp
luật và chính sách.
− Cạnh tranh tự do: là loại cạnh tranh trong đó, Nhà nước không tham giao
vào điều chỉnh, điều tiết và có các biện pháp giới hạn.
3.5 Căn cứ vào phạm vi địa lý
− Cạnh tranh trên phạm vi từng quốc gia
+ Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước.
+ Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước và
nước ngoài trên phạm vi một quốc gia.
− Cạnh tranh trên phạm vi quốc tế:
+ Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc nhóm nước phát triển với nhau.
Các doanh nghiệp này có tiềm lực tài chính mạnh, có mạng lưới kinh doanh
rộng khắp và trình độ công nghệ rất cao.
+ Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc nhóm nước đang phát triển với
nhau. Trong loại hình cạnh tranh này, các doanh nghiệp thường công có sự
chênh lệch lớn về tiềm lực tài chính, trình độ công nghệ, tận dụng được lợi thế
nguồn nhân công rẻ, và lợi thế về tài nguyên thiên nhiên trong nước mình.
+ Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc nhóm nước phát triển và đang
phát triển. Sự cạnh tranh này được đánh giá là gay gắt nhất bởi sự chênh lệch
sâu sắc về trình độ công nghệ giữa các bên.
3.6 Căn cứ vào chiến lược cạnh tranh
− Cạnh tranh trực diện: Là cạnh tranh trong đó, các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh trực tiếp, công khai ganh đua, đấu tranh với nhau giành được những
điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
− Cạnh tranh không trực diện: Là loại cạnh tranh trong đó, các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh không thể hiện sự ganh đua, đấu tranh công khai với
nhau, mà quá trình cạnh tranh diễn ra ngầm nhằm giành những điều kiện thuận
lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
4. Vai trò của cạnh tranh.
Khi nền kinh tế thị trường ra đời và vận hành thì cạnh tranh trở thành một

yếu tố tất yếu. Cạnh tranh tác động nhiều mặt tới đời sống kinh tế xã hội, đem
lại cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp, khách hàng nói riêng nhiều
lợi ích vô hình và hữu hình.
4.1 Vai trò cạnh tranh với nền kinh tế
Với nền kinh tế, cạnh tranh có vai trò rất quan trọng. Nhờ có cạnh tranh, nền
kinh tế đã có những chuyển biến mới, ngày càng đạt được những thành tựu lớn,
không chỉ diễn ra trên phạm vi một nước, mà còn trên phạm vi một khu vực và
toàn cầu.
Cạnh tranh thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động và góp
phần gia tăng hiệu quả kinh tế. Để giành được ưu thế trên thị trường ngày càng
cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, các doanh nghiệp luôn phải tìm cách tranh thủ
những thế mạnh của mình, tạo ra sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh hoặc gia
tăng sản xuất để giành được lợi thế theo quy mô, tăng cường chiếm lĩnh thị
trường. Chính vì vậy, vô hình chung đã làm cho nền kinh tế vận động đi lên, đạt
được những tiến bộ không những về lượng mà còn cả về chất.
Cạnh tranh góp phần làm cho lực lượng sản xuất phát triển, thúc đẩy quá
trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế. Khi nền kinh tế mới sơ khai,
cạnh tranh còn xuất hiện khá mờ nhạt, nhưng cùng với sự vận động của nền
kinh tế, cạnh tranh diễn ra ngày càng mạnh mẽ và gay gắt buộc các doanh
nghiệp luôn phải tự đổi mới và phát triển để tránh nguy cơ bị “cá lớn nuốt cá
bé” và bị đẩy ra khỏi cuộc chơi chung. Trong quá trình đó, các doanh nghiệp
phải áp dụng những thành tựu khoa học, những phương pháp sản xuất mới,
những tiến bộ mới, đồng thời tạo ra bước tiến mới cho nền kinh tế.
Cạnh tranh cho phép sử dụng tối đa hoá các nguồn tài nguyên. Nền kinh
tế thị trường càng phát triển thì số lượng các doanh nghiệp tham gia vào quá
trình sản xuất kinh doanh càng nhiều, nguồn tài nguyên ngày càng trở nên khan
hiếm, do đó cuộc chiến về nguồn tài nguyên là tất yếu. Để giành được lợi thế về
chi phí, buộc các doanh nghiệp phải tìm cách tận dụng một cách tối đa các
nguồn tài nguyên, tránh thất thoát và lãng phí.
Cạnh tranh khuyến khích áp dụng khoa học công nghệ kỹ thuật hiện đại.

Thực tế cho thấy sự phát triển của nền kinh tế luôn gắn liền với sự phát triển của
khoa học và công nghệ. Khoa học công nghệ đã tạo ra nhiều công cụ, nhiều điều
kiện cho nền kinh tế phát triển. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp luôn
phải tận dụng những thành tựu mới, những tiến bộ mới của khoa học công nghệ
để gia tăng sức cạnh tranh, giành thắng lợi trên thương trường. Nhu cầu về
những phương thức sản xuất tối tân của các doanh nghiệp ngày càng trở nên
bức thiết, vì thế thúc đẩy các doanh nghiệp luôn cố gắng nghiên cứu đầu tư phát
triển côn nghệ. Điều này làm cho khoa học công nghệ kỹ thuật phát triển không
ngừng.
4.2 Vai trò cạnh tranh với doanh nghiệp
Cạnh tranh tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Để đứng vững trên thị trường, các doanh
nghiệp buộc phải vận động theo quy luật của nền kinh tế. Số lượng các doanh
nghiệp mới xuất hiện càng nhiều, trong khi các doanh nghiệp hiện có ngày càng
có nhiều kinh nghiệm dày dặn hơn trên thị trường. Điều này khiến các doanh
nghiệp phải không ngừng phát triển, gia tăng hiệu quả kinh doanh để tăng khả
năng cạnh tranh trên thị trường.
Cạnh tranh góp phần xoá bỏ độc quyền bất hợp lý, tạo môi trường kinh
doanh bình đẳng. Trước đây, nền kinh tế còn được bảo hộ rất lớn bởi Chính phủ
các nước, làm cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài gặp rất nhiều
khó khăn. Trong quy luật chung của nền kinh tế nhân loại, cạnh tranh đã dần
tháo dỡ các chế độ độc quyền, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được phát
huy năng lực của mình, gia tăng doanh số và lợi nhuận.
Cạnh tranh tạo ra các nhà kinh doanh, đội ngũ cán bộ lãnh đạo và lao
động tốt cho xã hội. Khi nền kinh tế càng phát triển, nhu cầu về nhân lực có
chất lượng cao trở thành vấn đề bức thiết. Để gia tăng được sức cạnh tranh của
mình, các doanh nghiệp phải đầu tư vào đội ngũ nhân lực, nâng cao chất lượng
đào tạo nhằm hình thành được lợi thế riêng biệt cho mình. Đây chính là yếu tố
quan trọng giúp doanh nghiệp thắng thế trên thị trường.
4.3 Vai trò cạnh tranh với người tiêu dùng

Nhờ cạnh tranh, người tiêu dùng được tiếp cận hàng hoá dịch vụ đa dạng
phong phú. Đó là kết quả của quá trình ganh đua tranh giành thị phần và khách
hàng. Để mở rộng được thị phần tiêu thụ, tăng doanh thu bán hàng, các doanh
nghiệp phải cố gắng mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ của mình, tạo ra
những sản phẩm dịch vụ mới, độc đáo hơn nhằm thu hút khách hàng về phía
mình. Đồng thời với quá trình ấy, người tiêu dùng cũng được sử dụng hàng hoá
dịch vụ với giá cả hợp lý hơn.
5. Các công cụ cạnh tranh
Trên thực tế, khi sản xuất kinh doanh trên bất kỳ thị trường nào, doanh
nghiệp cũng luôn phải đổi mặt với sự cạnh tranh. Chính vì thế, việc chọn lựa
công cụ cạnh tranh trở thành vấn đề hết sức quan trọng với doanh nghiệp. Tuỳ
vào đặc điểm thị trường và loại hình kinh doanh cũng như những năng lực, ưu
thế của mình, doanh nghiệp có thể lựa chọn cho mình một hợc nhiều công cụ
cạnh tranh nhằm mở rộng thị phần, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm và gia
tăng doanh số bán hàng.
5.1 Cạnh tranh bằng sản phẩm, dịch vụ.
Khi quyết định kinh doanh ở đâu thì việc hình thành chính sách sản phẩm
hay dịch vụ cho mình là một điều tất yếu đối với doanh nghiệp. Theo Michael
Porter, các doanh nghiệp sẽ tạo ra ưu thế cạnh tranh bằng cách chọn một trong
những chiến lược sau:
“Cost Leadership: Cạnh tranh bằng cách tạo ra sản phẩm hay dịch vụ với
mức giá thành sản phẩm và chi phí liên quan ở thấp nhất có thể. Khi đó doanh
nghiệp có thể bán được số lớn hàng và với giá trung bình và tạo ra lợi nhuận
lớn.
Differentiation: cạnh tranh bằng cách tạo ra sự cách biệt mà các doanh
nghiệp khác khó cạnh tranh. Sự khác biệt này có thể là chất lượng sản phẩm,
thời gian giao hàng, sự nhận biết về thương hiệu, hệ thống phân phối rộng khắp.
Concentration: cạnh tranh bằng cách tập trung nguồn lực, sức mạnh vào
một sản phẩm, một phân khúc hay một nhóm khách hàng đặc biệt”.
Cụ thể là để chiến thắng đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp có thể tập trung

vào một số mặt chủ yếu sau:
Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ
Theo quan niệm của Tổ chức quốc tế “Chất lượng sản phẩm là một tập
hợp các thuộc tính của sản phẩm, tạo ra cho sản phẩm đó khả năng thoả mãn
yêu cầu đã nêu ra hay tiềm ẩn”. Đây có thể nói là một trong những vũ khí cạnh
tranh lợi hại nhất trong cuộc chiến cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, đặc biệt
trên phân đoạn thị trường dành cho giới khách hàng thượng lưu. Sản phẩm có
chất lượng tốt sẽ đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng và là cơ
hội để doanh nghiệp giành được ưu thế cho mình. Chất lượng quyết định nhiều
tới khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ:
− Chất lượng hoàng hoá cao sẽ gia tăng giá trị cho sản phẩm

×