Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

nong noc luong cu o ke go ha tinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.22 MB, 88 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
------- 000 -------

VÕ THANH HƢNG

ĐẶC ĐIỂM NÒNG NỌC MỘT SỐ LOÀI LƯƠNG CƯ
Ở KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN KẺ GỖ -HÀ TĨNH

CHUYÊN NGÀNH: ĐỘNG VẬT HỌC
Mã Số :62.42.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Hướng dẫn khoa học:
TS : CAO TIẾN TRUNG
TS : HOÀNG NGỌC THẢO


2
VINH - 2011MỞ ĐẦU

KBTTN Kẻ Gỗ có diện tích vùng lõi nằm ở phía nam của tỉnh Hà Tĩnh
Thuộc địa bàn của ba huyện Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, Hương Khê. KBT có đồi núi
thấp nhưng có rất nhiều khe suối nhỏ. Đặc biệt trung tâm có vùng lòng hồ rộng
do đó Kẻ Gỗ là nơi trú ẩn thích hợp cho nhiều loài lưỡng cư.
Lưỡng cư là nhóm di chuyển kém, gặp nhiều rủi ro khi môi trường sống
bị tác động nên nhiều loài trong số chúng đang đứng trước nguy cơ bị đe dọa
nếu không có các biện pháp xử lý thích hợp..


Việt Nam là nước có tính đa dạng cao về các loài lưỡng cư, cho đến nay ở
nước ta hiện biết 176 loài, trong đó có rất nhiều loài đặc hữu. Trong thời gian
gần đây còn phát hiện thêm nhiều loài mới. Tuy nhiên các loài Lưỡng cư ở Việt
Nam được xây dựng chủ yếu dựa trên nghiên cứu các cá thể trưởng thành,những
nghiên cứu về nòng nọc của chúng chưa được biết đến nhiều.
Việc xây dựng danh lục các loài lưỡng cư ở KBTTN Kẻ Gỗ đã được tiến
hành nghiên cứu một số năm trở lại đây đã xác định được 33 loài. Tuy nhiên với
đặc điểm đặc trưng riêng nên số lượng loài ở đây chưa được ghi nhận hết. Riêng
nghiên cứu về nòng nọc hiện nay mới chỉ có một công bố mô tả về nòng nọc của
loài Rhacophorus verrucosus. Chính vì vậy nghiên cứu nòng nọc các loài sẽ góp
phần đánh giá tính đa dạng cũng như bổ sung thành phần loài lưỡng cư cho danh
lục của Khu bảo tồn, đồng thời cung cấp thêm thông tin về phân bố của chúng.
Trên cơ sở đó chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu “Đặc điểm sinh
học nòng nọc một số loài lưỡng cư ở Khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ”.
1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nòng nọc một số loài lưỡng cư ở KBTTN Kẻ Gỗ nhằm cung
cấp dẫn liệu về hình thái, sự phát triển qua các giai đoạn và đặc điểm sinh học
một số loài, đồng thời bổ sung tư liệu cho bộ môn Herpetology ở nước ta.
2. Nội dung nghiên cứu


3

- Sự đa dạng thành phần loài nòng nọc lưỡng cư ở KBTTN Kẻ Gỗ.
- Phân tích đặc điểm hình thái nòng nọc các loài lưỡng cư và các giai đoạn
phát triển nòng nọc một số loài ở KVNC, từ đó xây dựng khóa định loại cho các
loài.
- Đặc điểm môi trường sống và sự phân bố nòng nọc các loài ở KVNC.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Bổ sung tư liệu về thành phần loài, đặc điểm hình thái và các giai đoạn

phát triển nòng nọc các loài lưỡng cư ở KBTTN Kẻ Gỗ.
- Cung cấp thông tin về địa điểm phân bố, sinh cảnh sống làm cơ sở cho
việc xây dựng bản đồ phân bố các loài lưỡng cư ở vùng nghiên cứu, phục vụ cho
công tác bảo tồn.


4

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lƣợc sử nghiên cứu nòng nọc lƣỡng cƣ
1.1.1. Lược sử nghiên cứu nòng nọc Lưỡng cư trên thế giới và đông nam Á
Lịch sử nghiên cứu nòng nọc Lưỡng cư trên thế giới,bắt đầu tiến hành từ
những năm cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16. Đầu tiên là tác giả Gosner (1551 1604). Tiếp đến là tác giả Rosel von Rosenhof (1753- 1758) (theo Lê Thị Thu
[11]) lần đầu tiên đã mô tả sự phát triển của rất nhiều loài Lưỡng cư từ ấu trùng
đến cá thể trưởng thành. Tuy nhiên thời điểm đầu tiên nghiên cứu này đa số các
cá thể nòng nọc được xem là giai đoạn phát triển sớm của Lưỡng cư trưởng
thành. Nhưng sau một thời gian một số loài mới xác định được.
Tiếp đến là nghiên cứu đầu tiên về phần miệng nòng nọc của tác giả
Swammerdam (1737 - 1738) (theo Lê Thị Thu [11]).
Năm (1916), tác giả Smith [30] mô tả 5 loài nòng nọc của 3 giống
Microhyla, Rana và Bufo ở khu vực Thái Lan và Singapore, tiếp đó năm (1917)
Smith tiếp tục mô tả nòng nọc của 16 loài thuộc các giống Rana, Rhacophorus,
Microhyla, Megophrys, Bufo ở Thái Lan [31]. Annadale N., Rao R. C., (1918)
(trích theo Lê Thị Thu (2008) [11]) xây dựng khóa định loại nòng nọc Lưỡng cư
ở Ấn Độ, tác giả mô tả nòng nọc của 52 loài Lưỡng cư ở khu vực này.
Năm 1960, Gosner K. L. (trích theo Lê Thị Thu (2008) [11] đã có công trình
nghiên cứu có tính hệ thống và đầy đủ về các giai đoạn phát triển của nòng nọc
lưỡng cư. Trong đó tác giả đã phân chia quá trình phát triển nòng nọc lưỡng cư
thành 46 giai đoạn từ khi thụ tinh đến khi hoàn thiện biến thái.
Kenny J.S. (1969) [24] nghiên cứu đặc điểm dinh dưỡng, cấu trúc cơ thể

của các loài nòng nọc Lưỡng cư, tính thích ứng về tập tính kiếm ăn của các loài
này.


5

Heyer W. R. (1971) [21] mô tả 22 loài nòng nọc ở đông bắc Thái Lan
thuộc 4 họ Bufonidae, Microhylidae, Rhacophoridae và Ranidae, tác giả phân
tích hình thái, cấu trúc răng các loài trên.
Berry P. Y., (1972) [14] mô tả 4 loài nòng nọc hiếm ở khu vực tây
Malaysia và xác định 79 loài thuộc 19 giống, 5 họ Lưỡng cư đã được mô tả ở
khu vực này.
Phân tích mật độ quần thể và cấu trúc tuổi của nòng nọc phải kể đến các tác
giả Altig R., (1975) [13] đã nghiên cứu trên 3 loài Lưỡng cư thuộc họ Hylidae
trong KVNC.
Sokol O. M. (1975) [32] phân tích 4 dạng khác nhau về khoang mang, sự
khác nhau về tập tính, hình thái giải phẫu thấy rõ ở 2 nhóm Ascaphidae và
Discoglossidae.
Tiếp theo đó có nhiều nghiên cứu về hình thái nòng nọc cũng như đặc
điểm sinh học, sinh thái của chúng được tiến hành nhiều vùng khác trên thế giới.
Nghiên cứu nòng nọc Lưỡng cư khu vực Đông Nam Á phải kể đến tác giả
Inger R. F. (1983, 1985) [22, 23]. Tác giả đã mô tả, xây dựng khóa định loại,
phân tích đặc điểm sinh thái của các loài nòng nọc Lưỡng cư.
Tác giả Relak I., (1985) nghiên cứu loài Paramesotriton deloustali, đã mô
tả trứng, nòng nọc, con non và con trưởng thành trong điều kiện nuôi 12 cá thể
trong 6 năm (trích theo Lê Thị Thu, 2008) [11].
Các loài Lưỡng cư mới được mô tả dựa trên sự phân tích nòng nọc của
chúng được nhiều tác giả công bố: Way C. S., Kuramoto M. mô tả loài mới
Chirixalus idiootocus tại Đài Loan dựa trên sự khác biệt nòng nọc của chúng và
các loài khác cùng giống. Matsui M., Nabhitabhata J., (2006) mô tả 1 loài mới

Amolops panhai dựa trên nòng nọc của chúng ở bán đảo nam Thái Lan [trích
theo 11].
Từ năm 1990, các nghiên cứu về nòng nọc Lưỡng cư bắt đầu phát triển
nhiều tại các địa phương khác nhau khu vực Đông Nam Á. Ngoài việc tiếp tục


6

mô tả, tu chỉnh phân loại, các nghiên cứu về sinh học, sinh thái được tiếp tục
công bố.
Tác giả Leong T. M. (1998 - 2000) [25, 26] nghiên cứu nòng nọc Lưỡng
cư khu vực Singapore, tác giả đã mô tả, xây dựng khóa định loại cho 25 loài
thuộc 14 giống, 5 họ Lưỡng cư trong toàn bộ khu vực Singapore. Sự phát triển
qua các giai đoạn, hướng sinh sản của các loài, sinh cảnh phân bố, hình thái.
Leong T. M. (2002) nghiên cứu nòng nọc Lưỡng cư ở Malaysia: có 88
loài Lưỡng cư được ghi nhận, trong đó có 71% số loài thuộc họ Bufonidae;
88% số loài thuộc họ Megophrydae; 77% số loài thuộc họ Ranidae và 56% số
loài thuộc họ Rhacophoridae đã xác định và mô tả nòng nọc (trích theo Lê Thị
Thu [11]).
Việc phân tích đặc điểm hình thái cho các giống theo sinh cảnh được
nghiên cứu khá phổ biến, tác giả Khan S. M., (2000) [28] mô tả đặc điểm cấu
tạo đĩa miệng liên quan đến đặc điểm dinh dưỡng của giống Microhyla.
Grosjean S. (2001) [17] phân tích hình thái của giống Leptobrachium.
Gần đây do có nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật, các nghiên cứu giải
phẫu nòng nọc Lưỡng cư được tiến hành ở nhiều nơi: Hass A., (2008) [19]
nghiên cứu các đặc điểm phân loại nòng nọc, sự khác nhau về nòng nọc các họ
Bufonidae, Discoglossidae, Dendrobatidae, Hyperollidae, Microhylidae. Tác giả
xác định có 136 đặc điểm hình thái giải phẫu nòng nọc, 6 đặc điểm hệ sinh dục,
14 đặc điểm hình thái cá thể trưởng thành có thể dùng để định loại các loài
Lưỡng cư thuộc các họ này.

Những nghiên cứu về thành phần Lưỡng cư hiện nay trên thế giới đã bổ
sung các dẫn liệu về cả giai đoạn nòng nọc đang được tiến hành. Những công bố
về thành phần loài Lưỡng cư cần phải xây dựng dựa trên các dẫn liệu về nòng
nọc của chúng, cần phải xác định có bao nhiêu loài đã được mô tả nòng nọc. Tác
giả Leong T. M. (2003, 2004) (trích theo Lê Thị Thu) [11] phân tích thành phần
loài Lưỡng cư ở Malaysia khu vực Faraser'hill đã xác định 21 loài Lưỡng cư, tác


7

giả đã phân tích kèm theo 16 loài đã xác định được nòng nọc ở các giai đoạn từ
28 - 42. Sự mô tả các loài nòng nọc đã cung cấp các dẫn liệu và xác định 1 loài
mới R. banjarvana cho khu vực này. Các dẫn liệu về nòng nọc các loài Lưỡng
cư tiếp tục được bổ sung.
Bên cạnh những phân tích về hình thái giải phẫu phân loại, các nghiên
cứu về sự tiến hóa của đĩa miệng và các đặc điểm hình thái khác cũng được. Tác
giả Grosjean S., Venees M., Dubois A., (2004) [16] phân tích cây tiến hóa của
đĩa miệng các loài thuộc họ Ranidae, phân tích mức độ phân hóa đĩa miệng của
giống Hoplobatrachus.
Phân tích sự biến dị hình thái trong các giai đoạn phát triển nòng nọc
Lưỡng cư được Grosjean S., (2005) tiến hành trên nòng nọc Rana nigrovittata từ
giai đoạn 26 đến 38. Sự phân tích các biến dị được tiến hành ở mỗi giai đoạn
phát triển (trích theo [11]).
Dựa trên sự mô tả nòng nọc, vùng phân bố của các loài Lưỡng cư ngày
càng được cập nhật. Nhiều loài Lưỡng cư rất khó phát hiện cá thể trưởng thành
nhưng lại ghi nhận nòng nọc của chúng, chính vì vậy nòng nọc của các loài
Lưỡng cư ngày càng được phát hiện nhiều. Inger R. F., Stuebing R. B., Stuart B.
L., (2006) mô tả nòng nọc của loài Rana glandulora tại Malaysia theo hướng
này (trích theo [11]).
Các hướng nghiên cứu về sinh học nòng nọc, dinh dưỡng của nòng nọc,

liên hệ giữa tập tính kiếm ăn và các vấn đề cần định hướng nghiên cứu khác về
nòng nọc được các tác giả Altig R., Whules M. R, Taylor C. L, (2007) thảo luận
và đề xuất (trích theo [11]).
Phân tích cấu trúc xương của nòng nọc Lưỡng cư được tác giả Handrigan
G.R., Wassersug R. J. (2007) [20] tiến hàng trên các loài thuộc họ Megophridae.
Tác giả phân tích xương sọ, xương trục, xương chi của các loài thuộc họ này.


8

Các chuyên khảo về nòng nọc Lưỡng cư được tác giả McDiamid R.W.,
Altig R., (1999) thảo luận trong ấn phẩm "The Biology of Anuran larvae" (trích
theo [11]).
1.1.2. Lược sử nghiên cứu nòng nọc Lưỡng cư ở Việt Nam
Những nghiên cứu về nòng nọc các loài Lưỡng cư Việt Nam được tiến
hành từ những năm đầu thế kỷ 19. Đầu tiên là nghiên cứu của tác giả Smith M.
A, (1924) về nòng nọc của loài Rana johnsi (Rana sauteri) ở cao nguyên
Langbian Đà Lạt (trích theo [11]). Tiếp đến là tác giả Bourret R, ( 1942) [15],
tác giả đã mô tả đặc điểm hình thái phân loại, xây dựng khóa định loại cho 164
loài Lưỡng cư ở Đông Dương, đồng thời tác giả cũng mô tả và xây dựng khóa
phân loại nòng nọc cho 62 loài trong các loài Lưỡng cư trên trong đó có các loài
của Việt Nam.
Sau đó là nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn Sáng, Hồ Thu Cúc tại
Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật. Năm 2000, Nguyễn Kim Tiến nghiên
cứu sự phát triển của nòng nọc ếch đồng, tác giả đã phân chia thêm 6 giai đoạn
phát triển nòng nọc ếch đồng khác với sự phân chia của Gosner, (1960) và đưa
ra sự ảnh hưởng của nhiệt độ đến thời gian phát triển biến thái nòng nọc ếch
đồng (trích theo [11]).
Thời kỳ sau này nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở hợp tác với các tác
giả khoa học nước ngoài.

Tác giả Grosjean S., (2001) [17] tiến hành nghiên cứu tại khu bảo tồn
thiên nhiên Hoàng Liên tỉnh Lào Cai đã mô tả nòng nọc của loài Leptobrachium
echiiratum, so sánh các đặc điểm loài thuộc giống này ở Việt Nam, phân tích
đặc điểm sinh cảnh, biến dị hình thái ở các giai đoạn khác nhau, phân tích cấu
tạo đĩa miệng.
Tác giả Ziegler R., Vences M., (2002) [33] nghiên cứu mô tả nòng nọc
của loài Rhacophorus verrucosus ở KBTTN Kẻ Gỗ, Hà Tĩnh, Việt Nam. Tác


9

giả đã mô tả hình thái ngoài của nòng nọc, đặc điểm sinh thái và phân bố của
loài này.
Tác giả Grosjean S., Vences M., Dubois A., (2004) [16] nghiên cứu các
đặc điểm tiến hóa hình thái đĩa miệng 3 loài thuộc giống Hoplobatrachus ở khu
vực Châu Á và Châu Phi. Các mẫu nòng nọc của loài H. chinensis được thu thập
tại Vườn Quốc gia Bến En, Thanh Hóa từ giai đoạn 31 đến giai đoạn 40. Đây là
những ghi nhận đầu tiên của nòng nọc loài H. chinensis ở Việt Nam.
Hendrix R., và cộng sự (2007) xác định sự phân bố của loài Rhacophorus
annamensis tại VQG Phong Nha - Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình [20].
Gần đây, những nghiên cứu về đa dạng nòng nọc lưỡng cư cho cả vùng đã
được tiến hành như nghiên cứu của Lê Thị Thu (2008) ở hệ sinh thái rừng tây
Nghệ An [11]; Lê Thị Quý (2010) nghiên cứu nòng nọc lưỡng cư ở VQG Bạch
Mã.
Như vậy nghiên cứu nòng nọc ở Việt Nam nói chung và KBTTN Kẻ Gỗ
nói riêng chưa nhiều và có hệ thống. Vì vậy, nội dung nghiên cứu của đề tài là
cần thiết.
1.2. Khái quát về điều kiện tự nhiên KVNC
1.2.1. Vị trí địa lý
KBTTN Kẻ Gỗ nằm phía Tây Nam tỉnh Hà Tĩnh, và phía đông dãy

Trường Sơn Bắc. Thuộc địa phận hành chính của 3 huyện: Cẩm Xuyên, Kỳ Anh
và Hương Khê .
- Đông giáp khu phòng hộ Cẩm Xuyên và khu phòng hộ Nam Hà Tĩnh.
- Tây giáp khu phòng hộ Thạch Hà và khu phòng hộ Ngàn Sâu.
- Bắc giáp Hồ Bộc Nguyên và khu dân cư xã Cẩm Thạch - Cẩm Xuyên Hà Tĩnh.
- Nam giáp tỉnh Quảng Bình.
* Toạ độ địa lý: 19091’ đến 20016’ độ vĩ Bắc
105033’ đến 105064’ độ kinh Đông


10

Gần KBTTN có các tuyến giao thông quan trọng như đường 12, đường
Hồ Chí Minh, đường 17,... do đó vừa chứa đựng các yếu tố thuận lợi và khó
khăn đặc biệt là trong công tác bảo vệ và bảo tồn đa dạng sinh học của KBTTN.
1.2.2. Địa hình, địa thế
Toàn bộ KBTTN Kẻ Gỗ thuộc địa hình vùng đồi núi thấp của Miền
Trung, có độ cao tuyệt đối phổ biến từ 150 m - 500 m. Địa hình bị chia cắt phức
tạp bởi các khe, suối. Vùng thượng nguồn Kẻ Gỗ bị chia cắt mạnh hơn. Nhìn
chung địa hình có những cấp độ dốc như sau:
- Độ dốc cấp I (< 90) có diện tích ít.
- Độ dốc cấp II (5 - 200) chiếm phần lớn diện tích, đó là các lưu vực Rào
Cời, Rào Len, Rào Bưởi, Rào Trường, Rào Bội, Rào Pheo, Rào Cát và thung
lũng Cát bịn - thượng nguồn Kẻ Gỗ.
1.2.3. Khí hậu thuỷ văn
* Khí hậu
Theo tài liệu của trạm khí tượng thuỷ văn Hà Tĩnh, khí hậu khu vực
KBTTN Kẻ Gỗ vừa mang đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng
ẩm, mưa nhiều, tập trung vừa có đặc điểm của tiểu vùng khí hậu.
* Nhiệt độ trung bình hàng năm

Nhiệt độ không khí trung bình năm 240C tháng nóng nhất là tháng 6 nhiệt
độ có khi lên tới 400C, tháng lạnh nhất là tháng 11 và tháng 12 nhiệt độ thấp
nhất xuống tới 80C. Biên độ nhiệt ngày đêm trung bình 7,20C. Nhiệt độ tháng 6
thường cao hơn các tháng khác là do ảnh hưởng của gió mùa Tây nam thổi từ
bên Lào sang đã ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng phát triển của cây trồng.
KVNC có lượng mưa trung bình hàng năm 2.700mm, lượng mưa không
đều tập trung chủ yếu vào mùa mưa, từ tháng 8, 9, 10. Độ ẩm tương đối bình
quân 84%, tháng khô nhất là tháng 5 và tháng 6.
Lượng bốc hơi trung bình hàng năm khoảng 701mm, hướng gió chính là
hướng Đông nam từ biển thổi vào, hướng gió hại là gió Tây nam (Gió phơn Tây


11

nam) từ bên Lào thổi sang vượt qua dãy Trường sơn mang theo hơi nóng và khô
gây hạn hán ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của cây trồng cũng như hoạt
động sống của con người và gia súc gia cầm. Tốc độ gió trung bình trong khu
vực khoảng 1,3m/s.
Các chỉ tiêu khí hậu như nhiệt độ không khí, lượng mưa, độ ẩm không khí
bình quân các tháng (thời kỳ 1998-2008) tại KVNC được thể hiện trong bảng
1.1:
Bảng 1.1: Một số chỉ tiêu khí hậu bình quân các tháng trong năm
Đơn vị tính: 0c; mm; %
Tháng

1

2

3


4

5

6

7

8

9

10

11

12

Nhiệt độ
không khí 16,5 17,4 20,2 28,7 29,9 32,9 29,2 28,5 27,4 26,1 20,9 18,0
TB
Lượng
mưa TB

Cả năm
24

86


73

83

107 297

297 319 402

407 392 149

89

2700

Độ
ẩm
không khí 83
TB

84

85

85

81

86

83


84

83

450

83

86

86

83

NhiÖt ®é

400
350

35
30

300
250
200

L- î ng m- a Tb
§ é Èm TB


25
20
NhiÖt ®éTB

150

15

100
50

10
5

0
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12

0
1

3

5

7

9

11


Biểu đồ 1.1. Biểu đồ vũ nhiệt Gausen - Walter [12]


12

* Thuỷ văn
Toàn bộ khu vực được hình thành bởi 7 lưu vực và hệ thống khe suối
chằng chịt. Cuối hạ lưu là hồ chứa nước Kẻ Gỗ, do địa hình cao dốc cùng với
chế độ mưa theo mùa nên gây ra nhiều biến động lớn về dòng chảy, mùa khô
hạn lượng dòng chảy giảm gây ra cạn kiệt ở lòng hồ Kẻ Gỗ, ngược lại về mùa
mưa lượng dòng chảy tăng cao đây là nguyên nhân gây ra lũ lụt, xói mòn, sạt lở.
Tuy nhiên hồ Kẻ Gỗ có vai trò hết sức quan trọng cung cấp nguồn nước cho
thành phố Hà Tĩnh, huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà sản xuất nông nghiệp
và nước sinh hoạt.
Từ điều kiện khí hậu thuỷ văn của KVNC cho thấy khí hậu thuỷ văn ở
đây đã ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động sản xuất nông lâm nghiệp, dân sinh
kinh tế của địa phương. Đồng thời với lưu lượng thuỷ văn bất thường như vậy
đã gây lũ lụt hạn hán nghiêm trọng cho vùng hạ lưu.
1.2.4. Đất đai, thổ nhưỡng
Theo bản đồ đất tỉnh Hà tĩnh (1995) của Viện ĐTQH rừng, các nhóm đất
chính thuộc vùng dự án được hình thành trên các nền địa chất:
- Các loại đá mẹ chủ yếu trong vùng là đá sa thạch, phiến thạch. Sản phẩm
phong hoá của các loại đá này hình thành các loại đất Feralít có thành phần cơ
giới từ trung bình đến thịt nặng. Trong KBTTN có các loại đất chính sau:
+ Đất Feralít màu vàng phát triển trên đá cát, đá sa thạch.
+ Đất Feralít đỏ vàng phát triển trên đá phiến thạch.
+ Đất Feralít sa thạch bao gồm các loại trầm tích hạt thô và loại có kết cấu
hạt mịn.
+ Đất dốc tụ ven khe, suối và các thung lũng hẹp.
- Nhóm đá Mắcma axít kết tinh chua gồm các loại Grarít, Rolít. Đất

Feralít hình thành trên các loại phiến thạch sét, sa thạch, Mắcma axít kết tinh
chua chúng phân bố đan xen vào nhau khá phức tạp tạo nên các loại đất có độ
phì khác nhau. Tuỳ thuộc vào kiểu địa hình, độ cao, độ dốc, nhìn chung đất đai


13

trong vùng còn được thực bì che phủ, tầng đất còn dày, nhiều mùn, có khả năng
trồng cây ăn quả có tán che, cây bản địa.
1.2.5. Tài nguyên sinh vật
* Thực vật:
KBTTN Kẻ Gỗ trước đây được bao phủ bởi rừng kín thường xanh, với
nhiều loài cây gỗ quý. Theo kết quả điều tra mới nhất đã thống kê được 567 loài
thực vật thuộc 117 họ, 367 chi. Trước đây, do mật độ dân cư đông, địa hình
bằng phẳng, giao thông thuận lợi, thuận tiện cho việc khai thác nên tài nguyên
rừng bị tác động mạnh (thời kỳ Lâm trường Cẩm Kỳ quản lý). Ở từng vùng khác
nhau mức độ rừng bị tác động cũng khác nhau rõ rệt. Hiện nay rừng nguyên sinh
dưới dạng bị tác động nhẹ có diện tích ít chỉ còn lại vài nơi. Diện tích rừng
nghèo kiệt chiếm 36,0% diện tích rừng tự nhiên. Đất trống chiếm 19,0% đất lâm
nghiệp, chủ yếu thuộc trạng thái Ic, loại thực bì ưu thế là cây bụi và một số diện
tích khá lớn còn nhiều cây tái sinh trung bình 300 - 500 cây/ha. Đây là vùng
thích hợp cho khoanh nuôi XTTS và khoanh nuôi XTTS có tác động biện pháp
lâm sinh. Rừng trồng chiếm 7,8% đất lâm nghiệp, chủ yếu phân bổ ở ven hồ Kẻ
Gỗ, loài cây trồng chủ yếu là Keo lá tràm và Thông nhựa, một số ít diện tích là
cây Lim Xanh trồng dưới tán rừng. Đến nay đa số diện tích đã khép tán.
* Động vật:
Khu hệ động vật KBTTN Kẻ Gỗ thuộc vùng Bắc trung bộ, với 364 loài
thú, chim, bò sát và lưỡng cư. Trong vùng còn tồn tại nhiều loài động vật, loài
chim quý hiếm được ghi trong sách đỏ thế giới như: Hổ, Gấu, Bò Tót, Sao la,
Ngan cánh trắng,... Đặc biệt là sự có mặt của 2 loài Gà lôi đặc hữu và nhiều loài

quý hiếm khác đang bị đe doạ mang tính toàn cầu.

1.2.6. Tình hình kinh tế - xã hội
a. Tình hình dân sinh - Kinh tế
* Dân số:


14

Dân số khu vực vùng đệm có gần 50.000 người. Số người trong tuổi lao
động trên 15.000 người.
- Huyện Cẩm Xuyên có 6 xã nằm trong vùng đệm gồm: 35.451 người.
- Huyện Kỳ Anh có 1 xã nằm trong vùng đệm gồm: 6.892 người.
- Huyện Hương Khê có 1 xã nằm trong vùng đệm gồm: 7.500 người.
Ngoài ra còn có khoảng 400 người Mường thuộc xã Hương Hoá, huyện
Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình.
Tỷ lệ gia tăng dân số của người dân sống trong vùng đệm KBTTN Kẻ Gỗ
hàng năm còn cao khoảng từ 2,2 - 2,6% vào năm 2006.
* Kinh tế:
Các xã nằm trong vùng đệm có diện tích đất sản xuất nông nghiệp ít,
trung bình chỉ có 0,7 - 1 sào cho một lao động. Dân trong vùng sống chủ yếu
dựa vào sản xuất nông nghiệp, thu nhập từ các nghề thủ công, dịch vụ không
đáng kể, nhìn chung đời sống nhân dân trong vùng còn thấp. Nên những tháng
nông nhàn họ thường lén lút vào rừng khai thác lâm sản và săn bắt chim, thú
rừng, đời sống nói chung vẫn còn phụ thuộc nhiều vào rừng.
* Dân trí:
Trình độ dân trí trong vùng đệm còn thấp, chưa đồng đều, sự hiểu biết
về lợi ích của rừng, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
còn hạn chế, nên trong những năm qua công tác quản lý bảo vệ rừng gặp
nhiều khó khăn.

Các xã vùng đệm của KBTTN Kẻ Gỗ thường cách xa trung tâm, giao
thông cách trở, đi lại khó khăn do đó việc thu hút các dự án đầu tư về địa bàn
nhằm thu hút lao động, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương
trong những năm qua hầu như rất hạn chế.
b. Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng hiện có thuộc KBTTN Kẻ Gỗ như điện, đường, thông tin
liên lạc và các công trình phục vụ sản xuất, đời sống còn thiếu, số có từ trước


15

đã bị xuống cấp cần được nâng cấp, cải tạo. Hệ thống giao thông phục vụ công
tác tuần tra bảo vệ rừng và chuẩn bị cho việc khai thác tiềm năng du lịch sinh
thái đang hết sức hạn chế, cần nâng cấp, làm mới 20 km đường nội vùng, xây
mới 300m2 nhà trạm bảo vệ rừng, nâng cấp 1,5 ha vườn ươm và một số công
trình khác.
c. Tiềm năng kinh tế
KBTTN Kẻ Gỗ với sự đa dạng về hệ động, thực vật. Đất đai ở đây có
những vùng khá thuận lợi cho phát triển cây ăn quả, trồng rừng nguyên liệu cho
năng suất cao, cần đầu tư khai thác tốt để đưa lại hiệu quả kinh tế. Ngoài ra, các
xã vùng đệm có tiềm năng đất đai để sản xuất nông lâm kết hợp, kinh tế trang
trại nhưng chưa được khai thác triệt để do bị hạn chế về trình độ dân trí, các cơ
chế chính sách. Đặc biệt, khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế chăn nuôi như
Trâu, Bò, Hươu, Dê,... Các cấp chính quyền và các ngành liên quan cần có giải
pháp thích hợp để khai thác tiềm năng tạo việc làm cho người lao động tăng
thêm thu nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo, giảm sức ép của con người đối
với tài nguyên rừng.


16

CHƢƠNG 2. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm, thời gian
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 07/2010 đến tháng 09/2011 ở KBTTN
Kẻ Gỗ, gồm 5 đợt nghiên cứu:
- Đợt 1: tháng 07 năm 2010
- Đợt 2: tháng 10 năm 2010
- Đợt 3: tháng 11 năm 2010
- Đợt 4: tháng 5 năm 2011
- Đợt 5: tháng 09 năm 2011
2.2. Các điểm thu mẫu nòng nọc ở KBTTN Kẻ Gỗ
Sinh cảnh thu mẫu
1

2

3

Trạm
Rào
Trường Khe Rào
trường
Khe Rào
Trường Đỉnh
dông

Sinh cảnh rừng thứ sinh: Phân bố rộng, rải
rác khắp hai sườn núi. Đây là kiểu rừng
xuất hiện sau khai thác và chiếm một diện
tích khá lớn trên tuyến thu mẫu. Xen lẫn với

rừng tre nứa vẫn có các loại thân gỗ nhỏ.
Sinh cảnh rừng thứ sinh: Sinh cảnh này
chiếm ưu thế sau khai thác 5-10 năm, một
số nơi được phủ bởi rừng trồng
Sinh cảnh sông suối: Tuyến thu mẫu này
đặc trưng cho sinh cảnh sông suối có độ cao
từ 400m đến 500m. Lòng suối từ 4-6m với
độ dốc cao, dòng chảy mạnh.
Ven bờ Sinh cảnh rừng thứ sinh (do khai thác gỗ
hồ - trái phép): Phân bố nhiều ở vành đai tiếp
Đỉnh giáp với khe Rào Trường có độ cao 120m,
dông chủ yếu là loài Chò chỉ (Parashorea
chinensis) chiếm ưu thế trên đất ven suối.
Kiểu rừng này có các loài ưu thế tầng cao
như Trường (Amesiodendron chinensis),
Táu mật (Madhuca pasquirea )

Vị trí

Độ cao

18o 08.162’ 18o 09.306’ N
105o 57.35.2’ 105o 57.44.4’E

15 - 80

18o 08.23.1’ 18o 08.306’ N
105o 57.029’ 105o 57.116’ E

8-120


18o 08.246’ - 19o
10.252’ N
105o 57.420’ 105o 57.180’ E

10 150


17
4

Khe
Bưởi

5

Khe
Bưởi Đỉnh khe
bưởi 1

6

Khe
Bưởi Đỉnh khe
bưởi 2

7

Khe
Môn


8

Khe
Môn Đỉnh khe
môn
Trạm
mũi trukhe mũi
tru

9

Sinh cảnh sông suối: sông suối có độ cao
từ 50m đến 100m. Lòng suối từ 4-8m với
độ dốc thấp, dòng chảy chậm.
Thường gặp có 2 sinh cảnh: sinh cảnh rừng
thứ sinh và sinh cảnh savan núi đất. Kiểu
rừng này ít bị tác động, vẫn còn giữ nhiều
nét nguyên vẹn và hiểm trở có các loài thực
vật phổ biến như Nghiến Trâm núi, Gội
núi… Đây là điểm phân bố và cư trú chủ
yếu của các loài Sơn dương.
Rừng thứ sinh ít bị tác động: Thành phần
thực vật chủ yếu gặp Sến, Táu, Chò chỉ,
Dẻ… ở tầng cao, tầng thấp gặp nhiều loài
như Cọ phèn (Protium Serratum), Giang,
Song, Mây…
Rừng thứ sinh ít bị tác động: Thành phần
thực vật chủ yếu gặp Sến, Táu, Chò chỉ,
Dẻ… ở tầng cao, tầng thấp gặp nhiều loài

như Cọ phèn (Protium Serratum), Giang,
Song, Mây…
Sinh cảnh sông suối: Sinh cảnh này đại
diện là sống suối nhỏ 2-4m, dòng chảy
mạnh về phía thượng nguồn, gặp nhiều các
loài cây ven suối và giang, nứa
Rừng thứ sinh ít bị tác động. Thành phần
thực vật chủ yếu gặp Táu, Chò chỉ, De… ở
tầng cao, tầng thấp gặp nhiều loài như
dương xỉ, Giang, Song, Mây…
Rừng thứ sinh (Do khai thác gỗ trước đây
phục hồi )
Phân bố ở vành đai tiêp giáp với khe cái có
độ cao 8om

18o 06.350’ - 18o 15-50
06.366’ N
105o 57.045’ 105o 57.076’ E

18o 06.393’ - 18o 30-150
06.565’ N
105o 57.114’ 105o 57.478’ E
18o 06.393’ - 18o 10-80
06.487’ N
105o 57.114’ 105o 57.189’ E
18o 06.409’ - 18o 10-120
06.118’ N
105o 58.556’ 105o 59.020’ E
18o 06.118’ - 18o 10-100
06.487’ N

105o 59.020’ 105o 59.189’ E
18o 06.297’ 15-150
o
105 59.189’ 105o 57.024’ E


18
2.3. Tƣ liệu
Phân tích 261 mẫu vật trên thực địa năm 2010, 2011. Mẫu được lưu giữ
tại phòng thí nghiệm động vật. Khoa sinh học, Trường Đại Học Vinh.
2.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.4.1. Nghiên cứu thực địa
- Phương pháp thu mẫu: mẫu được thu bằng vợt hoặc bắt bằng tay, vào
các thời gian khác nhau trong năm.
- Thu thập các dẫn liệu liên quan đến môi trường, sinh cảnh sống:
+ Loại hình thuỷ vực nơi thu mẫu: khe suối, các vũng nước đọng...
+ Đặc điểm thuỷ vực: khe suối có nước chảy yếu hay mạnh, vùng nước
quẩn; diện tích vực nước; độ sâu vực nước, độ sâu nơi thu mẫu nòng nọc.
+ Đặc điểm nền đáy thuỷ vực: nền cát, đá cuội, lá mục...
+ Thành phần thực vật, động vật thuỷ sinh khác
+ Vị trí nơi thu mẫu: ven khe suối, giữa suối...

Hình 2.1. Suối ở rừng thứ sinh khe Môn


19

Hình 2.2. Suối ở rừng thứ sinh khe Bưởi



20


21


22

Hình 2.3. Bản đồ KBTTN Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh)


23
2.4.2. Phương pháp xử lí và bảo quản mẫu vật
Mẫu thu được cố định trong cồn 900 trong 1 giờ, sau đó chuyển sang bảo
quản trong dung dịch hỗn hợp gồm cồn 700 + formalin 10% với tỉ lệ 50 : 50.
Mẫu thu ở mỗi vị trí được đánh số và bảo quản trong hộp nhựa riêng.
2.4.3. Dụng cụ hoá chất
- Vợt: được lằm bằng vải màn mềm để tránh mẫu bị cọ xát dẫn đến
hư hỏng.
- Dụng cụ đo nhiệt độ, độ ẩm môi trường, nhiệt độ nước, pH nước.
- Hộp nhựa đựng mẫu.
- Formalin 35 - 40%, 10%; cồn 900, 700.
2.4.4. Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
2.4.4.1. Phân tích đặc điểm hình thái nòng nọc
- Hình dạng cơ thể: thân hình tròn, oval hoặc elíp tuỳ từng loài và nhóm
loài. Thân cao nếu chiều cao thân lớn hơn chiều rộng thân (H > W), thân trung
bình (H = W), thân dẹp (H < W).
- Mắt: lớn, nhỏ hay trung bình so với kích thước cơ thể; vị trí mắt ở mặt
bên hay mặt trên (hình 2.4).


a

b

Hình 2.4. Vị trí mắt của nòng nọc nọc (theo McDiarmid R. W., Altig R., 1999) [27]
a. Phía bên; b. Phía trên
- Mũi: vị trí ở phía bên, phía trên hoặc trước.
- Đĩa miệng: hình dạng đĩa miệng: tròn hay elíp, bầu dục...; đĩa miệng có
dạng thuỳ bám, dạng phễu hút, dạng ăn mặt nước, dạng bám đáy (hình 2.5).


24

a

b

c

d

Hình 2.5. Các dạng đĩa miệng ở nòng nọc (theo Lê Thị Quý 2010 [9]
(a. Dạng thuỳ bám - Quasipaa; b. Dạng phễu - Leptolalax; c. Dạng ăn mặt nước
- Megophrys; d. Dạng bám đáy - Amolops)
- Vị trí đĩa miệng: ở trên (1800), dưới (0 0), trước (900) hoặc trước dưới
(hình 2.6).

a

c


b

d

Hình 2.6. Vị trí của đĩa miệng ở nòng nọc lưỡng cư [9]
a. Miệng trên (Megophrys longipes); b. Miệng dưới (Amolops rickettii); c.
Miệng trước (Microhyla fissipes - Hendrix et al.); d. Miệng trước dưới
(Leptobrachium sp.)
- Răng sừng: công thức răng (LTRF): số lượng răng sừng nguyên, chia ở
môi trên, môi dưới; hướng của răng sừng, hình dạng... (hình 2.7).


25

Hình 2.7. Cấu tạo đĩa miệng của nòng nọc [27]
AL: môi trên; A-1 và A-2: hàng răng sừng đầu tiên và thứ hai; A-2 GAP:
khoảng trống giữa hàng răng thứ hai của môi trên; LJ: bao hàm dưới; LP: khía
bên của bao hàm trên; M: miệng; MP: gai thịt ở phía bên; OD: đĩa miệng; PL:
môi dưới; P-1, P-2, và P-3: hàng răng đầu tiên, thứ hai và thứ ba của môi dưới;
SM: gai thịt gần mép; UJ: bao hàm trên.
- Gai thịt:
+ Hoàn toàn (bao quanh đĩa miệng); đứt đoạn (có ở phía bên, có ở trên, có
ở phía dưới, có ở phía bên và phía dưới...); hoặc không có (hình 2.6).

A

B

C


D

Hình 2.8. Các dạng gai thịt ở nòng nọc [9]
Gai thịt hoàn toàn (a); gai thịt viền hai bên và phía dưới (b), viền hai bên
(c), không có gai thịt (d)
+ Hình dạng gai thịt, mật độ, khoảng cách giữa các gai thịt; hướng của các
gai thịt, số hàng gai thịt...


×