Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

TAI LIEU THAO LUAN 2020 2021 (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.81 KB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
KHOA LUẬT DÂN SỰ

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN

LUẬT LAO ĐỘNG

Năm học 2019-2020

1


CHƯƠNG I VÀ II
KHÁI NIỆM LUẬT LAO ĐỘNG - QUAN HỆ PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
Phần 1. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn bản pháp luật
-

Bộ luật Lao động năm 2012;

-

Luật Viên chức 2010;

-

Nghị định 44/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Bộ luật lao động về hợp đồng lao động;

-


Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Bộ luật lao động
o Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH hướng dẫn Nghị định 05/2015/NĐ-CP
về hợp đồng lao động, kỷ luật lao động.

- Nghị định 148/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung nghị định 05/2015/NĐ-CP
2. Giáo trình, sách, bài viết:
-

Giáo trình Luật lao động trường đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, 2013.

-

Chu ĐứcLưu, “Tranh chấp lao động hay dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân số 2,
năm 2000.

-

Nguyễn Hữu Chí, “Đặc trưng của hợp đồng lao động”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 10, năm 2002.

-

Phạm Công Bảy, “Vấn đề đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật trong thực tiễn
xét xử các vụ án lao động”, Tạp chí Tịa án nhân dân số 4, năm 2002.
PHẦN 2. CÂU HỎI THẢO LUẬN

I.

LÝ THUYẾT

1. Luật lao động điều chỉnh các quan hệ xã hội nào? Lấy một ví dụ cụ thể cho mỗi

quan hệ xã hội đó.
2. Phân tích đặc điểm của quan hệ lao động cá nhân.
3. So sánh quan hệ lao động cá nhân và quan hệ lao động của viên chức.
4. Tại sao pháp luật lao động lại điều chỉnh mối quan hệ lao động tập thể?

2


5. Phân tích các đặc điểm của quan hệ pháp luật lao động cá nhân.
6. Phân tích cơ sở lý luận và nội dung của nguyên tắc bảo vệ người lao động trong

pháp luật lao động Việt Nam.
7. Phân tích cơ sở lý luận và nội dung của nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của người sử dụng lao động.
8. Phân tích các điều kiện để một cơng dân Việt Nam có thể tham gia vào quan hệ

lao động cá nhân với tư cách người lao động.
9. Phân tích các điều kiện để người nước ngồi được làm việc tại Việt Nam?

Anh/chị đánh giá như thế nào về những điều kiện này?
II.

BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
1. Tình huống 11
Nguyên đơn: Ông David Gaham Dillin, quốc tịch Hoa Kỳ.
Bị đơn: Trường Cao đẳng Quốc tế Cetana PSB Intellis,


Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/5/2017, thì ơng David Gaham Dillin có ký kết
ba thư đề nghị tuyển dụng (được gọi là hợp đồng) với trường Cao đẳng Quốc tế
Cetana.
- Hợp đồng thứ nhất: ông David Gaham Dillin thực hiện việc giảng dạy khóa
tiếng Anh tại trụ sở của trường Cetana với thời gian từ 21/8/2016 đến 9/11/2016. Trong
hợp đồng có xác định mức lương, nội dung công việc giảng dạy, thủ tục thanh toán thù
lao và xác định trách nhiệm duy trì tình trạng nhập cảnh có hiệu lực tại Việt Nam, bao
gồm cả thị thực và giấy phép lao động thuộc về ơng David Gaham Dillin. Đính kèm
hợp đồng, ông David Gaham Dillin có ký bản “Các điều kiện làm việc” vào ngày
20/8/2016 với nội dung quy định về thời hạn, phạm vi cơng việc, lịch chương trình,
nhiệm vụ - trách nhiệm, nghiệp vụ chuyên môn, công bố việc tuyển dụng, bảo mật,
chấm dứt hợp đồng và luật áp dụng.
- Hợp đồng thứ hai thực hiện từ ngày 10/11/2016 đến ngày 09/01/2017.
- Hợp đồng thứ ba thực hiện từ ngày 10/01/2017 đến ngày 01/3/2017.
Ngày 2/2/2017, ông David Gaham Dillin được trường Cao đẳng Cetana mời dự
họp và trường Cetana kết luận: Ơng David Gaham Dillin có hành vi “cư xử khơng
thích hợp khi đứng lớp với hai sinh viên nữ” là vi phạm hợp đồng đã ký kết. Ông
David Gaham Dillin không đồng ý với kết luận này nên không ký tên vào biên bản
cuộc họp. Ngày 7/2/2017, ông David Gaham Dillin nhận văn bản của trường Cetana
về việc chấm dứt hợp đồng với lý do nêu trên.
1

Trích Bản án số 1089/2008/LĐ-PT ngày 15/9/2008 của TAND Tp. Hồ Chí Minh.

3


Theo quan điểm của nguyên đơn thì bản chất của ba hợp đồng ký kết giữa
nguyên đơn và trường Cetana là một quan hệ lao động và được hai bên thực hiện một
cách liên tục, thực hiện xong hợp đồng trước rồi ký hợp đồng sau nên hợp đồng thứ ba

được xem là hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Việc chấm dứt hợp đồng của
trường Cetana là khơng có căn cứ, vì vậy ngun đơn u cầu:
Thứ nhất: Hủy bỏ quyết định chấm dứt hợp đồng lao động, tiếp nhận nguyên
đơn trở lại làm việc ở vị trí giáo viên tiếng Anh và ký hợp đồng lao động không xác
định thời hạn.
Thứ hai: Liên hệ cơ quan chức năng để xin cấp giấy phép lao động cho nguyên
đơn bằng chi phí của bị đơn.
Thứ ba: Bồi thường cho nguyên đơn tiền lương trong thời gian không được làm
việc cộng thêm hai tháng tiền lương (tiền lương được tính theo lương trung bình của 6
tháng trước khi chấm dứt hợp đồng).
Thứ tư: Cơng khai xin lỗi trước tồn bộ nhân viên của trường do đã quy kết vô
căn cứ về hành vi của nguyên đơn.
Phản bác lại yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn cho rằng:
Thứ nhất: Trường Cao đẳng Quốc tế Cetana được thành lập có vốn đầu tư 100%
nước ngoài. Chỉ những người cán bộ là quản lý, người lao động trực tiếp thực hiện các
nhiệm vụ của doanh nghiệp mới có quan hệ hợp đồng lao động theo quy định của Bộ
luật lao động. Riêng các giáo viên, nhà trường chỉ thực hiện ký hợp đồng thỉnh giảng
cho từng khóa học cụ thể, đặc biệt là đối với giáo viên là người nước ngồi vì khơng
lưu trú dài hạn tại Việt Nam. Ngồi ra việc ký kết hợp đồng thỉnh giảng đối với giáo
viên nước ngồi cịn phụ thuộc vào tình hình đăng ký khóa học của học viên nên tính
chất các hợp đồng này là hợp đồng dịch vụ (hợp đồng dân sự).
Thứ hai: Việc ký kết ba hợp đồng nêu trên đều được hai bên thực hiện một cách
độc lập, nên không thể xem hợp đồng thứ ba được ký kết là hợp đồng lao động khơng
xác định thời hạn, ngồi mức lương thực nhận đã quy định trong hợp đồng, bị đơn
không phải thanh toán bất cứ khoản phúc lợi nào khác cho nguyên đơn.
Thứ ba: Việc giải quyết tranh chấp phải áp dụng Bộ luật dân sự (BLDS) chứ
không thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật lao động (BLLĐ).
Thứ tư: Không chấp nhận yêu cầu xin lỗi của nguyên đơn vì ngun đơn đã có
hành vi cư xử khơng thích hợp khi đứng lớp.
Nếu căn cứ vào pháp luật lao động hiện hành, anh/chị hãy cho biết:

a) Quan hệ lao động giữa ông David Gaham Dillin và trường Cao đẳng Cetana
có thuộc đối tượng điều chỉnh của luật lao động hay khơng? Vì sao?
b) Nếu là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn (hoặc bị đơn)
4


anh/chị sẽ đưa ra những luận cứ gì để chứng minh cho quan điểm của mình?
2. Tình huống 2.
Grab là công ty cung cấp ứng dụng vận tải kết nối giữa tài xế và khách hàng. Để
được ký hợp đồng tham gia sử dụng dịch vụ này, Grab yêu cầu tài xế phải đảm bảo
những điều kiện nhất định (như khơng có tiền án, tiền sự…). Trong q trình thực hiện
hợp đồng, các tài xế phải tuân theo những yêu cầu của Grab như: mặc đồng phục của
Grab, về việc nhận, hủy cuốc xe, về thái độ phục vụ đối với khách hàng… Trong quan
hệ này, các tài xế sử dụng xe riêng của mình. Grab chỉ cung cấp ứng dụng đặt xe từ
phía khách hàng cho tài xế, và trừ vào chiết khấu của mỗi tài xế theo chuyến đi. Grab
là phía quản lý về việc đặt xe của khách hàng, giá cước, chỉ định tài xế đón khách, thu
tiền. Trường hợp tài xế có những vi phạm nhất định hoặc bị khách hàng đánh giá thấp
về chất lượng dịch vụ ở một mức nhất định sẽ bị Grab cắt hợp đồng bằng cách khóa tài
khoản.
Hiện nay, quan hệ giữa tài xế và Grab chưa được coi là quan hệ lao động nên
các tài xế sẽ không được công ty chi trả các loại bảo hiểm theo quy định của pháp luật
như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cũng như trong các trường
hợp chấm dứt hợp đồng thì các tài xế sẽ khơng được hưởng những phúc lợi cơ bản.
Bạn có ý kiến gì về việc điều chỉnh của pháp luật lao động đối với quan hệ giữa
tài xế với Grab?
3. Tình huống số 32
* Nguyên đơn – Ông Eric Reyes Labung, Quốc tịch: Philippine, trình bày:
Ơng Eric được Cơng ty liên doanh Ánh Kim (công ty Ánh Kim) mời ký hợp
đồng lao động (hiện nay ông Eric không giữ hợp đồng lao động vì Cơng ty Ánh Kim
giữ để làm giấy phép lao động cho ông Eric nhưng Công ty không trả lại) và bổ nhiệm

ơng làm Trưởng phịng kỹ thuật cho Công ty từ ngày 01/8/2013 với mức lương
2.000USD/tháng, phụ cấp (gồm tiền ăn, tiền điện thoại di động, điện thoại cố định và
tiền sinh hoạt phí) bình qn là 4.700.000 đồng/tháng.
Đến ngày 23/05/2017, Tổng giám đốc Công ty Ánh Kim ra quyết định thôi việc
đối với ông Eric, theo quyết định ông được nghỉ việc kể từ ngày 23/5/1017. Từ đó cho
đến nay ơng Eric chưa nhận được bất cứ một khoản trợ cấp nào. Ông Eric đã nhiều lần
liên hệ với Công ty để được nhận số tiền trên nhưng Công ty không giải quyết. Nay
ông cho rằng Công ty Ánh Kim đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp
luật, nên phải bồi thường cho ông các quyền lợi theo quy định của pháp luật.
2

Tham khảo Bản án số: 441/2012/LĐ-ST, ngày 09/4/2012 của TAND Tp.Hồ Chí Minh.

5


* Bị đơn – Cơng ty Ánh Kim, trình bày:
Ngày 01/8/2015, Công ty Ánh Kim TNHH tiếp nhận ông Eric Reyes Labung
làm chuyên viên kỹ thuật cho Công ty theo biên bản thỏa thuận ngày 28/7/2015 giữa
Công ty TNHH sản xuất thương mại và dịch vụ Thành Đạt và Công ty TNHH Vinvest
(Hong Kong) là hai Công ty mẹ của Công ty liên doanh Ánh Kim. Theo bản thỏa
thuận, tại Điều 2, tiền lương của ông Eric sẽ do Công ty TNHH Vinvest (Hong Kong)
trả. Cịn Cơng ty Thành Đạt lo chi phí ăn ở và đi lại, xin tạm trú.
Ơng Eric làm việc tại Cơng ty Ánh Kim. Sau đó để đăng ký visa cho ơng Eric có
thời hạn lâu nên Hội đồng quản trị của Công ty Ánh Kim đã bổ nhiệm ơng Eric là Phó
tổng giám đốc kỹ thuật và đã đăng ký với Sở kế hoạch và đầu tư.
Từ tháng 9 năm 2015 đến khi nghỉ việc, ơng Eric thường xun nghỉ việc khơng
có lý do, khơng hồn thành cơng việc được giao dẫn đến sản phẩm sản xuất ra không
đạt chất lượng gây thiệt hại cho Công ty. Ngày 08/02/2017, Công ty liên doanh Ánh
Kim đã có cơng văn gửi Giám đốc Cơng ty TNHH Vinvest đề nghị rút ông Eric về và

thay thế chuyên viên khác. Ngày 22/05/2017, Cơng ty TNHH Vinvest có văn bản trả
lời kể từ ngày 23/5/2017, ông Eric sẽ ngưng việc tại Công ty Ánh Kim và đồng ý gửi
chuyên viên kỹ thuật mới.
Công ty không ký hợp đồng lao động với ông Eric và cũng không phải là đơn vị
quản lý trực tiếp của ơng Eric nên khơng có nghĩa vụ phải chi trả tiền trợ cấp cho ông
Eric và Công ty cũng không đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông Eric
nên không đồng ý với tồn bộ u cầu của ơng Eric Reyes Labung.
Nhằm tạo điều kiện cho các chuyên viên có tiền chi tiêu tại Việt Nam nên Công
ty Ánh Kim đã chi trả hộ tiền lương hàng tháng thay cho Công ty Vinvest, tiền lương
này Công ty Ánh Kim không đưa vào chi phí của Cơng ty và Cơng ty Ánh Kim cũng
khơng hạch tốn, Cơng ty Ánh Kim khơng khai thuế đối với người có thu nhập cao và
cũng khơng làm sổ đăng ký lao động nước ngồi. Sau đó Cơng ty Vinvest sẽ hồn lại
số tiền trả lương này cho Cơng ty Ánh Kim. Các giấy tờ liên quan đến việc hồn trả lại
tiền lương của ơng Eric giữa Cơng ty Ánh Kim và Công ty Vinvest Hong Kong hiện
Công ty Ánh Kim đã giao hết cho Công ty Vinvest Hong Kong, Công ty Ánh Kim
không giữ bất kỳ văn bản nào.
* Người có quyền và nghĩa vụ liên quan – Cơng ty TNHH Vinvest (Hong
Kong) có lời khai như sau:
Cơng ty TNHH Vinvest được thành lập theo luật Hong Kong. Ngày 07/7/2003,
UBND Tp.Hồ Chí Minh cấp giấy phép số 508 cho phép Công ty TNHH sản xuất
thương mại và dịch vụ Thành Đạt và bên nước ngoài là Vinvest company Limited
(Hong Kong) được thành lập liên doanh có tên là Cơng ty liên doanh Ánh Kim. Vì
cơng ty Ánh Kim không thể tuyển chuyên gia Việt Nam để vận hành và bảo trì máy
móc, cho nên Cơng ty TNHH Vinvest (Hong Kong) có bổ nhiệm chuyên gia nước
6


ngồi vào Việt Nam để vận hành máy móc và chi trả toàn bộ lương cho chuyên gia này
theo biên bản ghi nhớ ngày 28/7/2015. Qua sự giới thiệu của đối tác, Công ty đã tuyển
ông Eric Reyes Labung vào làm việc tại Công ty Ánh Kim tại Việt Nam với nhiệm vụ

là vận hành, bảo trì máy móc và đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Vì tính chất cơng việc, ông Eric thường xuyên thay đổi nơi làm việc, nên đơi
bên có thỏa thuận miệng, chứ khơng ký hợp đồng với ơng Eric. Cơng ty TNHH
Vinvest có nhiệm vụ chi trả lương cho ông Eric. Nhằm tạo điều kiện cho các chun
gia có sinh hoạt phí và giảm các chi phí cá nhân (khơng phải về Hong Kong để nhận
lương) nên Công ty nhờ Công ty liên doanh Ánh Kim trả thay.
Trong q trình làm việc, ơng Eric khơng hồn thành nhiệm vụ nên Công ty
Anh Kim đã gởi thư chính thức vào ngày 08/02/2017 đề nghị Cơng ty TNHH Vinvest
(Hong Kong) và đã được Công ty Vinvest chấp nhận, như vậy kể từ ngày 23/5/2017,
ông Eric sẽ chấm dứt nhiệm vụ tại Công ty liên doanh Ánh Kim.
Công ty rất ngạc nhiên khi biết ông Eric khởi kiện Công ty liên doanh Ánh Kim
vì các thiệt hại do bị buộc thôi việc tại Việt Nam.
Công ty không đồng ý với bất cứ yêu cầu nào của ông Eric và xin được vắng
mặt trong các buổi hòa giải và xét xử.
* Người có quyền và nghĩa vụ liên quan - Công ty TNHH sản xuất thương mại
và dịch vụ Thành Đạt có ơng Nguyễn Ngọc Diệp làm đại diện trình bày:
Công ty TNHH Thành Đạt và Công ty TNHH Vinvest (Hong Kong) liên doanh
thành lập ra Công ty Liên doanh Ánh Kim, tiền lương của các chuyên gia làm việc cho
Công ty liên doanh Ánh Kim đều do Công ty TNHH Vinvest (Hong Kong) chi trả. Cho
nên qua yêu cầu của ông Eric, Công ty TNHH Thành Đạt không đồng ý.
Hỏi:
a) Anh (chị) hãy cho biết quan hệ xã hội giữa ba bên: ông Eric Reyes Labung,
Công ty Invest (Hong Kong) và Cơng ty Ánh Kim có phải là quan hệ xã hội do
pháp luật lao động điều chỉnh hay khơng? Vì sao?
b) Theo quy định của pháp luật Lao động hiện hành anh chị hãy cho biết việc công
ty Ánh Kim sử dụng lao động là ông Eric Reyes Labung như vậy đúng hay sai?
vì sao?
4. Tình huống số 43
Công ty TNHH DL & S Việt Nam (sau đây gọi là Cơng ty), (trụ sở: Quận 1, TP.
Hồ Chí Minh, người đại diện theo pháp luật của Công ty: ông Mart Olive, chức vụ:

3

Tham khảo Bản án số: 1423/2012/LĐ-ST, ngày 19/9/2012 của TAND Tp.Hồ Chí Minh.

7


Tổng giám đốc) thiết lập “Thư mời làm việc” gửi đến ông Fung Hon Sun – Quốc tịch
Trung Quốc (Hồng Kông). Theo nội dung “Thư mời làm việc” do Công ty đề nghị,
ông Fung Hon Sun vào làm việc tại Công ty và ký hợp đồng lao động xác định thời
hạn 01 năm từ ngày 10/9/2016 đến 09/10/2017 với chức danh là kỹ sư tiên lượng dự
toán, mức lương thực nhận khởi điểm là 800 USD không bao gồm các khoản thuế thu
nhập cá nhân và phí bảo hiểm bắt buộc.
(1) Hãy tư vấn cho Công ty biết những điều kiện cần thiết để ơng Fung Hon Sun có
thể làm việc tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Lao động hiện hành?
(2) Nếu ông Fung Hon Sun được được phép giao kết hợp đồng lao động làm việc
tại Việt Nam thì Cơng ty cần phải thực hiện thủ tục tuyển dụng ông Fung Hon
Sun như thế nào?
(3) Nếu quan hệ lao động giữa Công ty và ông Fung Hon Sun được xác lập từ ngày
10/9/2016 nhưng đến ngày 20/10/2017, ơng Fung Hon Sun vẫn chưa có giấy
phép lao động thì Cơng ty và ơng Fung Hon Sun có thể bị áp dụng những chế
tài gì từ phía nhà nước?

8


CHƯƠNG III
VIỆC LÀM VÀ HỌC NGHỀ, ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG NÂNG CAO
TRÌNH ĐỘ KỸ NĂNG NGHỀ
Tài liệu tham khảo:

-

Bộ luật Lao động năm 2012;

-

Luật Việc làm 2013;

-

Nghị định 44/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Bộ luật lao động về hợp đồng lao động;

-

Nghị định 28/201/2015/NĐ-CP

-

Giáo trình Luật lao động trường đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, 2013.

-

Bùi Văn Trạch, “Dịch vụ việc làm – những vấn đề đặt ra cần giải quyết”, Tạp
chí Lao động & Xã hội số 199, năm 2002, trang 28.

-

Phạm Công Trứ, “Một số vấn đề pháp lý về việc làm và giải quyết việc làm ở
Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước & Pháp luật số 6, năm 2003, trang 47.


I.

LÝ THUYẾT
1. Phân tích định nghĩa việc làm và thất nghiệp theo quy định pháp luật Việt Nam.
Hãy cho biết ý nghĩa pháp lý của những định nghĩa này.
2. So sánh trung tâm dịch vụ việc làm với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc
làm.
3. Phân tích trách nhiệm giải quyết việc làm của Nhà nước.
4. Hãy cho biết ý nghĩa của Quỹ giải quyết việc làm, Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
đối với vấn đề giải quyết việc làm.
5. Theo bạn, nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong vấn đề học nghề, đào tạo,
bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề đối với người lao động được pháp luật lao
động Việt Nam quy định như thế nào?

II.

BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
1.

Tình huống số 14

4

Bản án số 04/2017/TLST-LĐ ngày 12-7-2017 về tranh chấp “Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2017/QĐXXST-LĐ ngày 23-8-2017.

9



Đọc nội dung tóm tắt bản án và trả lời các câu hỏi bên dưới:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Huy - Sinh năm 1988.
2. Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất - thương mại - dịch vụ B
(Sau đây viết tắt là Công ty B).
Người đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông Đinh Tiến (Giám đốc Công ty
trách nhiệm hữu hạn sản xuất - thương mại - dịch vụ B).
3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội thành phố N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 05/4/2018 và q trình tố tụng tại Tịa án, ngun đơn
là anh Nguyễn Huy trình bày: Từ ngày 01/3/2013, anh làm cơng nhân kho của
Công ty B đến ngày 08/02/2018 anh làm đơn xin nghỉ việc và ngày 08/3/2018
Công ty B ký Quyết định nghỉ việc. Khi anh làm việc tại Công ty B hai bên không
ký hợp đồng lao động (sau đây viết tắt là HĐLĐ) nhưng có thoả thuận về công
việc; thời gian làm việc 8 tiếng một ngày, một tuần làm việc 6 ngày từ thứ 2 đến
thứ 7 và nghỉ ngày chủ nhật; có thoả thuận đóng bảo hiểm xã hội (Sau đây viết tắt
là BHXH), bảo hiểm thất nghiệp (Sau đây viết tắt là BHTN), bảo hiểm y tế (Sau
đây viết tắt là BHYT) từ tháng 8/2013 đóng nối theo số sổ là 7909345249; mức
lương từ tháng 3-2013 đến tháng 7-2016 là 3.400.000 VNĐ/tháng cộng với
200.000 VNĐ/tháng tiền phụ cấp tổng là 3.600.000 VNĐ, từ tháng 8/2016 đến khi
nghỉ việc ngày 08/3/2018, mức lương vẫn là 3.400.000 VNĐ/tháng cộng 700.000
VNĐ/tháng tiền phụ cấp tổng là 4.100.000 VNĐ. Lương bình quân anh thực lĩnh là
3.400.000 VNĐ/tháng. Từ tháng 8/2013 đến khi nghỉ việc, hàng tháng Công ty B
đều khấu trừ tiền đóng BHXH vào tiền lương, sau đó mới chuyển tiền lương vào
tài khoản của anh do Công ty B mở tài khoản và cung cấp cho anh phiếu lương
hàng tháng. Sau khi nhận Quyết định nghỉ việc Cơng ty B đã thanh tốn đầy đủ
lương và phụ cấp, anh khơng có khiếu nại gì. Theo thỏa thuận thì Cơng ty B bắt
đầu đóng BHXH, BHTN cho anh từ tháng 8/2013 nhưng Cơng ty B mới đóng đến
tháng 10/2013. Từ tháng 11/2013 đến khi anh nghỉ việc, Công ty B khơng đóng
bảo hiểm. Nay anh u cầu Cơng ty B phải đóng tiếp BHXH, BHTN từ tháng 112013 đến khi anh nghỉ việc, chốt sổ bảo hiểm từ tháng 8/2013 đến khi anh nghỉ
việc và trả sổ bảo hiểm cho anh.

Đại diện theo pháp luật của bị đơn là ơng Đinh Tiến đã được Tịa án tống đạt
hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông không đến Tòa án để tự khai; nộp tài liệu,
chứng cứ; kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa giải; tiếp
tục vắng mặt tại phiên tịa hơm nay.
Đại diện theo pháp luật của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Bảo
hiểm xã hội thành phố trình bày: Từ tháng 8/2013 đến tháng 3/2018, anh Nguyễn
Huy làm công nhân kho Công ty B. Công ty B bắt đầu đóng BHXH, BHTN cho
10


anh Nguyễn Huy theo số sổ bảo hiểm xã hội là 7909345249 từ tháng 8/2013 và
mới đóng đến tháng 10/2013. Tính tiếp đến thời gian anh Nguyễn Huy nghỉ việc là
ngày 08/3/2017 thì Cơng ty B chưa đóng BHXH, BHTN cho anh Nguyễn Huy từ
tháng 11/2013 đến tháng 02/2017 là ba năm bốn tháng.
Tại thời điểm tháng 3/2018, Công ty B đang nợ tiền đóng BHXH, BHTN,
BHYT cho người lao động tại đơn vị là X.XXX.742.664 VNĐ. Quan điểm của
Bảo hiểm xã hội thành phố yêu cầu Công ty B phải thanh tốn nợ tiền đóng
BHXH, BHYT, BHTN đối với người lao động trong đó có anh Nguyễn Huy tại
đơn vị là X.XXX.742.664 VNĐ VNĐ (Đã tính cả lãi suất chậm thanh tốn).
Tại phiên tịa hơm nay:
Ơng Đinh Tiến, ơng Bùi Ngọc đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tịa
lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt khơng có lý do.
Anh Nguyễn Huy bổ sung: Lương anh thực lĩnh bình qn là 3.400.000
VNĐ/tháng. Thời điểm anh và Cơng ty B thỏa thuận đóng BHXH cho anh bắt đầu
từ tháng 8/2013 nhưng Cơng ty B mới chỉ đóng đến tháng 10/2013. Hàng tháng
anh đều nhận phiếu lương của Công ty B cung cấp, sau khi đối chiếu tổng các
khoản khấu trừ anh xác nhận Cơng ty B đóng BHXH cho anh ở mức 3.100.000
VNĐ/tháng. Nay anh yêu cầu Công ty B phải đóng tiếp BHXH từ tháng 11/2013
đến khi anh nghỉ việc theo mức 3.100.000 VNĐ/tháng, chốt sổ bảo hiểm từ tháng
8/2013 đến khi anh nghỉ việc và trả sổ bảo hiểm cho anh.

Hỏi:
1. Xác định các quan hệ pháp luật lao động trong vụ án trên?
2. Theo quy định pháp luật hiện hành, hành vi vi phạm trách nhiệm đóng bảo
hiểm thất nghiệp của Cơng ty B sẽ xử lý như thế nào?
3. Theo quy định pháp luật bảo hiểm thất nghiệp, trong thời gian từ tháng 112013 đến khi anh Nguyễn Huy nghỉ việc, Công ty B và anh Nguyễn Huy phải
đóng bảo hiểm thất nghiệp bao nhiêu đồng mỗi tháng?
4. Tại thời điểm xem xét (4/2018), anh Nguyễn Huy có đủ điều kiện để được
hưởng trợ cấp thất nghiệp hay khơng? Vì sao?
5. Nếu đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, thì mức hưởng của anh
Nguyễn Huy là bao nhiêu tháng? Mỗi tháng bao nhiêu đồng?
2.

Tình huống số 25

Ngày 28 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tồ án nhân dân thành phố Hải Phịng xét
5

Bản án số 01/2017/TLST-LĐ ngày 21 tháng 6 năm 2017 về tranh chấp học nghề theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 698/2017/QĐXXST-LĐ ngày 22 tháng 8 năm 2017.

11


xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2017/TLST-LĐ ngày 21 tháng 6 năm 2017
về tranh chấp học nghề theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 698/2017/QĐXXSTLĐ ngày 22 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH L (sau đây viết tắt là Công ty L), trụ sở: Lô E,
Khu C, T, thuộc Khu K, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng;
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành L, sinh năm
1991 – Trợ lý pháp chế của Công ty L (đại diện theo văn bản ủy quyền số 06/UQ –
LD ngày 25 tháng 7 năm 2017); có mặt tại phiên tịa.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngun đơn: Ơng Tạ Ngọc B
– Luật sư Công ty Luật TNHH B – Đồn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt tại
phiên tịa.
- Bị đơn: Anh Hồng Văn K, sinh năm 1991, Đăng ký hộ khẩu thường trú
tại: Thôn 8, xã V, huyện V, thành phố Hải Phòng (học nghề tại: Thành phố Gumi Hàn
Quốc); vắng mặt tại phiên tịa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ơng Hồng Văn A, sinh năm 1969 và
bà Phạm Thị H, sinh năm 1970; đều trú tại: Thôn 8, xã V, huyện V, thành phố Hải
Phòng; đều vắng mặt tại phiên tòa.
Theo Đơn khởi kiện, Đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện và lời trình bày của người
đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Cơng ty L thì: Ngày 08 tháng 02
năm 2017, Công ty L đã ký với anh Hoàng Văn K Hợp đồng Lao động số:
VH000315/2017 xác định thời hạn 01 năm (kể từ ngày 08 tháng 02 năm 2017 đến
ngày 07 tháng 02 năm 2018), với vị trí anh K làm kỹ thuật viên sản xuất Cell tại L
Display.
Để anh K nắm bắt được chuyên môn và gắn bó với lâu dài với L Display; ngày
25 tháng 2 năm 2017, Công ty L đã ký với anh Hoàng Văn K Hợp đồng Đào tạo số
VH000315/2017-ĐT, với nội dung: Cơng ty L tổ chức để anh Hồng Văn K sang thành
phố Gumi Hàn Quốc học khóa đào tạo kỹ thuật trong thời hạn 47 ngày. Công ty L lo
thủ tục và chịu trách nhiệm chi trả mọi chi phí cho anh K tham gia khóa học (bao gồm:
Chi phí tổ chức khóa học; vé máy bay; phụ cấp lưu trú, cơng tác phí; chi phí đi lại; lệ
phí vi sa, hộ chiếu..; tiền thuê khách sạn, nhà nghỉ; tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế trong thời gian đào tạo). Anh K có nghĩa vụ phải tham gia đầy đủ và
thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của khóa đào tạo; tự thanh tốn mọi chi tiêu cá
nhân ngồi các khoản mà Cơng ty L đã hỗ trợ như trên. Anh Hoàng Văn K có trách
nhiệm hồn trả cho Cơng ty L chi phí đào tạo khi khơng hồn thành khóa đào tạo vì
bất kỳ lý do nào hoặc đơn phương chấm dứt Hợp đồng Lao động trong thời gian đào
tạo, không đảm bảo thời gian làm việc cho Công ty L như cam kết…
Để đảm bảo cho các Hợp đồng Lao động và Hợp đồng Đào tạo nêu trên; ngày 01
12



tháng 3 năm 2017, ơng Hồng Văn A, sinh năm 1969; trú tại thôn 8, xã Việt Tiến,
huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phịng là bố đẻ của anh Hồng Văn K, đại diện đã ký
với Công ty L cam kết bảo lãnh của gia đình cho anh Hồng Văn K.
Trong đó, ơng A cam kết:
Anh K sẽ thực hiện đầy đủ nội dung của Hợp đồng Đào tạo và chính sách của
Cơng ty L liên quan đến đào tạo; cam kết hồn trả chi phí đào tạo và chi phí bồi
thường cho Cơng ty L thay cho anh Hồng Văn K trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận
được thơng báo của Cơng ty L về việc anh Hồng Văn K khơng thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ hồn trả chi phí đào tạo và chi phí bồi thường liên quan theo hợp đồng đào tạo
Trả một khoản tiền phạt tương đương 195.144.999đ cho Công ty L, trong trường
hợp anh Hoàng Văn K trốn ở lại nước ngoài trong và sau thời gian đào tạo; số tiền phạt
nêu trên sẽ trả cho Công ty L trong thời hạn 10 ngày, kể từ khi nhận được thơng báo về
việc anh Hồng Văn K trốn ở lại nước ngoài.
Thực hiện Hợp đồng Đào tạo số VH000315/2017-ĐT ngày 25 tháng 02 năm
2017, Công ty L đã lo mọi thủ tục để anh Hoàng Văn K được cấp thị thực nhập cảnh
vào Hàn Quốc trong thời hạn 02 tháng. Ngày 13 tháng 3 năm 2017 Cơng ty L đã tổ
chức đưa đồn người lao động Việt nam sang Hàn Quốc để theo học khóa đào tạo. Anh
hoàng Văn K đã nhập cảnh vào Hàn Quốc qua cửa khẩu sân bay quốc tế Incheon. Vào
hồi 19h30, ngày 13 tháng 3 năm 2017; khi tới sân bay Incheon, anh Hoàng văn K đã
tách khỏi đoàn và khơng trở lại. Hiện tại anh Hồng Văn K đang cư trú bất hợp pháp
tại Hàn Quốc. Mặc dù đã được nhiều đồng nghiệp công tác tại Công ty L khuyên nhủ
nhưng anh K đã trao đổi và nhắn tin cho họ cũng như gia đình là khơng trở lại theo học
khóa đào tạo do Cơng ty L tổ chức.
Dự trù chi phí cho anh Hồng Văn K theo khóa học bao gồm: Chi phí làm hộ
chiếu 200.000đ, chi phí cấp thị thực là 450.000đ, vé máy bay là 12.375.000đ, tiền ký
túc xá là 16.638.783đ, chi phí đi lại bằng xe bus là 1.691.924đ, chi phí ăn uống là
11.253.868đ, chi phí giảng viên là 105.486.852đ, phịng đà tạo là 489.694đ, tiền tài
liệu là 772.400đ, tiền cơng tác phí là 35.392.500đ, tiền lương là 8.519.645đ, tiền đóng

bảo hiểm là 1.874. 324đ; tổng cộng là 195.144.999đ.
Thực tế Công ty L đã chi để anh K theo học khóa học nghiệp vụ tại Hàn Quốc
gồm các khoản: Chi phí tại Việt Nam gồm: Chi phí cấp visa là 450.000đ, tiền vé máy
bay là 14.440.932đ, tiền tạm ứng cơng tác phí mà anh K đã nhận là 17.707.500đ; tổng
cộng là 32.598.432đ.
Chi tại Hàn Quốc cho 21 người theo khóa học là 2.787.829.113đ; bình qn chi
phí cho mỗi người là 132.753.767đ (trong đó chi phí cho 21 người tiền ký túc xá là
349.414.450đ, tiền thuê xe bus để đi lại là 35.530.400đ, chi phí giảng viên là
2.378.026.500đ, tiền phòng đào tạo là 8.637.363đ, tiền tài liệu là 16.220.400đ).
Tổng cộng các khoản mà Công ty L đã chi để anh Hồng Văn K theo học khốc
13


học chuyên môn tại Hàn Quốc là 165.352.199đ.
Công ty L yêu cầu anh Hoàng Văn K phải trả 100% chi phí đào tạo là
165.352.199đ; trong trường hợp anh K khơng trả được thì ơng Hồng Văn A và bà
Phạm Thị H phải trả thay số tiền trên. Ơng Hồng Văn A và bà Phạm Thị H phải trả
khoản tiền phạt là 195.144.999đ. Kể từ ngày 28/4/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm, anh
Hoàng Văn K phải trả lãi của số tiền chi phí đào tạo theo mức lãi suất 20%/năm.
Ơng Hoàng Văn A và bà Phạm Thị H đã được Tịa án tống đạt hợp lệ thơng báo
thụ lý vụ án, nhiều lần tống đạt giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc
giao nộp chứng cứ, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải; nhưng ơng A và bà H đều
không giao nộp chứng cứ và đều khơng có mặt theo triệu tập của Tịa án.
Hỏi:
1. Thỏa thuận bảo lãnh và phạt vi phạm trong vụ việc trên đây là đúng hay trái
pháp luật? Vì sao?
2. Xác định các trường hợp người học nghề, người lao động phải chị trách
nhiệm hồn trả chi phí đào tạo?
Giả sử anh K hồn thành khóa đào tạo và sau khi đã làm việc được 35% tổng thời gian
cam kết làm việc theo hợp đồng đào tạo thì anh K chấm dứt hợp đồng lao động đúng

pháp luật. Vậy, anh K phải chịu trách nhiệm hồn trả chi phí đào tạo như thế nào?

14


CHƯƠNG IV
HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Tài liệu tham khảo:
-

Bộ luật Lao động 2012;

-

Nghị định 44/2013/NĐ-CP;

-

Thông tư 30/2013/TT-BLĐTBXH;

-

Nghị định 05/2015/ND-CP;

-

Thông tư 47/2015/TT-BLĐTBXH;

-


Nghị định 148/2018/NĐ-CP

-

Nghị định 55/2013/NĐ-CP

-

Nghị định 73/2014/NĐ-CP

-

Trần Hoàng Hải (chủ biên), Giáo trình Luật Lao động, Đại học Luật Tp. HCM,
2011.

-

Phạm Cơng Trứ, “Hợp đồng lao động” trong Giáo Trình Luật Lao động Việt
Nam, Phạm Công Trứ (chủ biên).Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1999;

-

Lê Thị Hoài Thu, “Hợp đồng lao động” trong Một số vấn đề lí luận và thực tiễn
về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay, Nguyễn Như Phát (chủ biên). Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2003;

-

Nguyễn Hữu Chí, “Hợp đồng lao động” trong Giáo trình luật lao động Việt
Nam, Lưu Bình Nhưỡng (chủ biên), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009;


-

Nguyễn Hữu Chí, Pháp luật hợp đồng lao động Việt Nam – Thực trạng và phát
triển. Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội, 2003;

-

Đặng Kim Chung, “Hợp đồng lao động và tình hình thực hiện tại các doanh
nghiệp”/Tạp chí Lao động và Xã hội số 161/2000;

-

Đào Thị Hằng, “Mấy ý kiến về hợp đồng lao động vơ hiệu”/Tạp chí Luật học
số 5/1999;

-

Lưu Bình Nhưỡng, “Mấy ý kiến xung quanh việc thụ lý, giải quyết tranh chấp
lao động có liên quan tới hợp đồng lao động”/Tạp chí Tịa án nhân dân số
6/2004;

-

Đinh Thị Chiến, “Bàn về trợ cấp thôi việc theo luật lao động Việt Nam”/Tạp
chí khoa học pháp lý số 3/2005.
15


I.


LÝ THUYẾT
1. Tại sao nói hợp đồng lao động là căn cứ pháp lý để xác lập nên quan hệ lao
động làm công ăn lương.
2. Anh (chị) hãy lý giải tại sao việc thực hiện hợp đồng lao động phải do chính
người lao động giao kết hợp đồng thực hiện.
3. So sánh hợp đồng lao động với hợp đồng dịch vụ.
4. Bình luận các quy định pháp luật hiện hành về loại hợp đồng lao động.
5. So sánh trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm và trợ cấp thất nghiệp.

II.

BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
1. Tình huống số 1

Ngun đơn: ông Lê Minh, sinh năm 1976.
Địa chỉ:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn
Văn-Luật sư văn phịng luật sư V – Đồn luật sư TPHCM.
Bị đơn: Công ty TNHH W Việt Nam
Người đại diện hợp pháp: Bà Lê Thị, đại diện theo văn bản ủy quyền ngày 6/1/2015
của Tổng giám đốc.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Tấn - Luật sư
văn phòng luật sư Lê Thị - Đồn luật sư TP. Hồ Chí Minh.
Ngun đơn trình bày như sau:
Ơng làm việc tại cơng ty TNHH W Việt Nam từ ngày 21/7/1999 và đã ký kết HĐLĐ
không xác định thời hạn 2009/03-HĐLĐ ngày 3/2/2009 với chức danh là giám đốc
dịch vụ. Tiếp theo, ngày 1/7/2015 hai bên ký kết phụ lục hợp đồng lao động số 01-072015/13-ANEX xác định mức thu nhập của ông Quân là 2.650 USD/tháng bao gồm
lương và trợ cấp với chức danh Giám đốc dịch vụ. Ngày 7/3/2017, công ty thông báo
đề nghị thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ vì lý do hoạt động kinh doanh khó khăn nhưng

ơng khơng đồng ý. Ngày 2/5/2017, công ty ban hành QĐ số 001/2014 chấm dứt
HĐLĐ với lý do khó khăn kinh tế buộc ơng phải bàn giao công việc và rời khỏi
nhiệm sở. để không ảnh hưởng đến công ty ông đã bàn giao công việc nhưng ghi rõ ý
kiến là không đồng ý với việc giải quyết cho nghỉ việc của công ty trong biên bản bàn
giao.
Ơng khẳng định việc cơng ty cho ơng nghỉ việc là đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái
16


pháp luật bởi vì cơng ty khơng gặp khó khăn nào về kinh tế, thực tế tình hình hoạt
động của cơng ty vẫn bình thường. Theo sơ đồ tổ chức cơng ty áp dụng từ ngày
3/5/2017, cơng ty vẫn có chức danh Giám đốc dịch vụ.
Ông yêu cầu khởi kiện buộc công ty TNHH W Việt Nam:
Tuyên bố việc Công ty quyết định chấm dứt HĐLĐ với ông là trái pháp luật và
phải nhận ông trở lại làm việc theo HĐLĐ đã ký.
Cơng ty có trách nhiệm thanh tốn tiền lương và các chế độ theo quy định cho
ông đầy đủ tính đến ngày ơng trở lại làm việc và phục hồi mọi quyền lợi và chế độ
cho ông như HĐLĐ đã ký từ ngày 2/5/2017 đến ngày xét xử.
-

Bồi thường cho ơng ít nhất 2 tháng tiền lương theo HĐLĐ.

Trong trường hợp công ty không nhận ông trở lại làm việc thì ơng chỉ đồng ý
thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ nếu ngồi chế độ theo quy định thì cơng ty phải hỗ trợ
thêm cho ông 18 tháng tiền lương theo mức lương của HĐLĐ.
Bồi thường cho ông 1 khoản tiền vì lý do cơng ty chấm dứt HĐ khơng thong
báo trước 45 ngày cho ông.
Bà Lê Thị - đại diện của bị đơn trình bày như sau.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ngun đơn, cơng ty có ý kiến như sau:
Do ảnh hưởng của tình hình suy thối kinh tế tồn cầu và việc cơng ty W Việt

Nam đã kinh doanh thua lỗ trong nhiều năm liền, ngày 29/1/2017, Tập đồn W trụ sở
chính tại Phần Lan đã ban hành thông báo về kế hoạch sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của
tập đoàn trên toàn cầu trong đó có cơng ty W Việt Nam. Theo thơng báo này, Tập
đoàn W sẽ ngay lập tức thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh đến mức thấp nhất và
tiến tới đánh giá việc chấm dứt hoạt động của công ty W Việt Nam vào cuối năm
2017. Thông báo về kế hoạch sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của tập đồn trên tồn cầu
trong đó cơng ty W Việt Nam đã được phổ biến cho toàn thể nhân viên công ty W
Việt Nam vào ngày 7/02/2017. Theo kế hoạch này, nhân sự của công ty W Việt Nam
trong giai đoạn sau thu hẹp hoạt động chỉ cịn có 4 chức danh: Tổng giám đốc, Kế
toán trưởng, Đại diện bán hàng và Kỹ sư dịch vụ. Theo kế hoạch, Tổng giám đốc
đương nhiệm cũng sẽ bị giảm biên sau ngày 1/9/2017. Căn cứ vào kế hoạch của tập
đồn W, Cơng ty W Việt Nam đã làm thủ tục cho NLĐ nghỉ việc căn cứ vào khoản 10
điều 36 BLLĐ 2012 “NSDLĐ cho NLĐ thơi việc vì lý do kinh tế”. Công ty cũng đã
làm đầy đủ các thủ tục theo quy định của pháp luật VN về giải quyết chế độ nghỉ việc
cho NLĐ. Cụ thể:
Ngày 7/3/2017, Công ty W Việt Nam đã có cuộc họp tồn thể với NLĐ (vì cơng ty
khơng có tổ chức cơng đồn) để thơng báo danh sách giảm biên chế, chế độ của nhân
viên bị giảm biên được hưởng cũng như chế độ hỗ trợ của công ty và các cuộc họp
riêng với các nhân viên bị giảm biên chế để giải thích thêm.
17


Trên cơ sở các thỏa thuận với NLĐ, Công ty lập bản liệt kê kết thúc quá trình làm
việc trong đó có ghi rõ q trình làm việc, các chế độ được hưởng của NLĐ khi chấm
dứt HĐLĐ vào ngày 2/5/2017. Các chế độ nghỉ việc của NLĐ được công ty thanh
toán bằng chuyển khoản vào tài khoản của NLĐ trong tháng 5/2014, trong đó có cả
chế độ của ơng Lê Minh với số tiền là 727.412.352 đồng sau khi đã trừ thuế thu nhập
cá nhân.
Công ty không vi phạm quy định báo trước 45 ngày cho NLĐ vì trên thực tế ngày
7/3/2017, ơng Lê Minh có nhận được thơng báo chấm dứt HĐLĐ với nội dung “Thỏa

thuận chấm dứt HĐLĐ với công ty W VN trong kế hoạch giảm biên”. Đến ngày
3/5/2017, công ty W Việt Nam ra Quyết định chấm HĐLĐ là hơn 45 ngày.
Mọi chế độ nghỉ việc cũng như quá trình giải quyết cho NLĐ nghỉ việc Công ty
đã tuân thủ đầy đủ các quy định của Pháp luật Việt Nam. Nên việc ông Lê Minh yêu
cầu Công ty nhận ông Lê Minh trở lại làm việc là khơng có cơ sở và khơng thể thực
hiện được. Công ty đã vận dụng các quy định của pháp luật VN và khả năng của công
ty W Việt Nam để giải quyết chế độ nghỉ việc một cách có lợi nhất cho NLĐ như giải
quyết chế độ nghỉ phép năm 2017, tiền thưởng lương tháng thứ 13 theo tỷ lệ số tháng
đã làm việc, hỗ trợ thêm 3 tháng lương…..Cơng ty đã thanh tốn đầy đủ các chế độ
trợ cấp thơi việc và có thêm một số hỗ trợ khác ngồi quy định của pháp luật VN cho
ơng Lê Minh.
Yêu cầu: Với vai trò là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
và bị đơn, bạn hãy chuẩn bị bài luận cứ để bảo vệ cho thân chủ của mình.
2. Tình huống số 26: Tranh chấp giữa ông Ngô Thắng (nguyên đơn) và Công
ty TNHH Liên doanh T (“Cơng ty T”) (bị đơn)
• Trình bày của nguyên đơn
Sau thời gian thử việc 02 tháng, ông Thắng đã ký HĐLĐ số 12/HĐLĐ-T./2015
với Công ty T, thời hạn của HĐLĐ là 02 năm, kể từ ngày 27/12/2015, chức danh Giám
đốc bán hàng khu vực Miền Bắc, mức lương chính là 15.000.000 đồng/tháng. Cùng
ngày, 27/11/2015, Cơng ty T đã bổ sung phụ lục HĐLĐ số 12/HĐLĐ-T./2015 quy định
khoản trợ cấp là 14.640.000 đồng/tháng. Theo giải thích của Công ty T, mức lương ghi
như vậy là để giảm các khoản chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp… Ngồi việc trả trả lương khơng đầy đủ, Cơng ty T cũng chưa đóng bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế cho ông Thắng.
Ngày 20/2/2017, Tổng Giám đốc có quyết định bổ nhiệm ơng Thắng giữ chức
vụ Giám đốc huấn luyện và kiểm sốt tồn quốc, quyền lợi khác vẫn không thay đổi.
Ngày 3/5/2017, Công ty T ra quyết định tái cấu trúc Công ty nhằm giải thể bộ phận
6

Tham khảo: Bản án số 08//LĐ-ST của Tòa án nhân dân Quận 7, Tp.HCM V/v Tranh chấp hợp đồng lao động.


18


hành chính bán hàng và bộ phận đào tạo huấn luyện kinh doanh, đồng thời phân cho
ơng Thắng vị trí quản lý vùng – khối bán hàng GT khu vực Mê – Kông và đưa ông
Thắng đi đào tạo những kỹ năng làm việc trong phòng kinh doanh từ ngày 09/5/2017
đến ngày 08/6/2017 tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
Ông Thắng rất bức xúc đã gửi email đề nghị người có thẩm quyền cho biết chi
tiết về nội dung và chế độ đào tạo nhưng đến nay vẫn không nhận được phản hồi. Kể
từ ngày nhận được quyết định điều động đi học đến nay, ông Thắng đến làm việc tại
Công ty và không được giao bất kỳ công việc gì thuộc về chun mơn và trách nhiệm
của ơng Thắng nữa.
Nay ông Thắng yêu cầu Công ty T phải sắp xếp cho ông đúng với chức danh
Giám đốc bán hàng khu vực miền Bắc.
• Trình bày của bị đơn
Cơng ty T thừa nhận đã có ký HĐLĐ và phụ lục HĐLĐ như trình bày của ơng
Thắng.
Đến ngày 20/2/2017, Cơng ty ra quyết định số 03/QĐ-TDCT-T...17 về việc thay
đổi chức danh nhân sự là Giám đốc huấn luyện và kiểm sốt đối với ơng Thắng. Do
tình hình kinh tế khó khăn và căn cứ vào Điều …..của BLLĐ, ngày 3/5/2017, Công ty
T ra quyết định số 24/QĐ-T..17 về việc tái cấu trúc Công ty là sáp nhập và giải thể bộ
phận hành chính bán hàng và bộ phận đào tạo huấn luyện kinh doanh có nội dung như
sau:
Điều 1: Cơng ty sẽ sáp nhập, giải thể và sắp xếp lại nhân sự cho phù
hợp với tính hình kinh doanh hiện tại ở những bộ phận sau:
1. Bộ phận hành chính bán hàng
2. Bộ phận đào tạo huấn luyện kinh doanh.
Điều 2: Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định, phịng hành
chính nhân sự và các bộ phận có liên quan có trách nhiệm đào tạo

những nhân viên thuộc Bộ phận hành chính bán hàng, Bộ phận đào tạo
huấn luyện kinh doanh để điều chuyển nhân sự của hai bộ phận trên
sang những bộ phận khác trong Công ty theo tình hình sử dụng nhân lực
hiện tại.
Ngày 4/5/2017, Công ty ra quyết định số 25/QĐ-T..17 và quyết định số 27/QĐT...17 cử 05 cán bộ nhân viên đi đào tạo để tiếp tục sử dụng những cán bộ nhân viên
này vào vị trí cơng tác mới trong đó có ông Thắng, trong thời gian đào tạo mức lương
và các khoản trợ cấp không thay đổi. Tất cả cán bộ nhân viên khác đều chấp hành
quyết định, riêng ông Thắng không thực hiện.
Ngày 4/6/2017, sau khi hết thời gian đào tạo, Tổng Giám đốc Công ty ra quyết
định số 001/2017/QĐ-DCCT bổ nhiệm ông Thắng đảm nhiệm chức vụ Quản lý kinh
19


doanh vùng mức lương không thay đổi theo HĐLĐ nhưng ông Thắng không chấp
nhận. Đến ngày 23/6/2017, Công ty T ra quyết định số 34/QĐ-T...17 yêu cầu ông
Thắng nhận nhiệm vụ nhưng ông Thắng không đồng ý mà buộc Công ty vẫn để chức
vụ Giám đốc huấn luyện đào tạo.
Yêu cầu:
-

Một nhóm đưa ra lập luận bảo vệ ơng Thắng

-

Một nhóm đưa ra lập luận bảo vệ cơng ty

-

Một nhóm đưa ra quan điểm về việc giải quyết tranh chấp.


3. Tình huống số 3:
1. Ngun đơn: Ơng Lê Thắng
Địa chỉ: Quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh;
2. Bị đơn: Cơng ty TNHH Truyền thơng và giải trí Sáng
Địa chỉ: quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: ơng Đặng Hồng, trú tại: Quận 7, thành phố
Hồ Chí Minh và ơng Trần Trung, trú tại: Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh là người đại
diện theo uỷ quyền của bị đơn (Giấy uỷ quyền số 102017/UQ-ĐQ ngày 01/6/2017).
3. Những người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng:
Ơng Đỗ Văn Bửu
Địa chỉ: quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Ơng Nguyễn Quốc
Địa chỉ: quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
Theo đơn khởi kiện ngày 09/5/2017, Đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
ngày 12/7/2017, Đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 11/8/2017, các bản tự
khai và các biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ,
ngun đơn- ơng Lê Thắng trình bày:
Ơng được tuyển dụng vào làm việc cho công ty TNHH truyền thơng và giải trí
Sáng (dưới đây gọi tắt là Cơng ty Sáng) và bắt đầu thử việc từ ngày 13/02/2017 theo
thư mời nhận việc đề ngày 20/12/2016.
Trong quá trình làm việc, ơng thấy có nhiều bất cập trong việc xác định tiền
lương thử việc, chi trả lương ngoài giờ và đóng bảo hiểm bắt buộc tại cơng ty Sáng,
ơng có yêu cầu công ty cung cấp cho ông các nội quy, quy định, các chính sách của
20


công ty về lao động, tiền lương, các quy định về trả lương làm việc ngồi giờ, chi tiết
chấm cơng hàng tháng để tham khảo nhưng công ty không chấp nhận.
Theo quy định của pháp luật lao động thì: “Tiền lương trong thời gian thử việc do

hai bên thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của cơng việc đó”, tuy
nhiên cơng ty TNHH truyền thơng và giải trí Sáng lại xác định tiền lương trong thời
gian thử việc của ơng bằng 85% của thu nhập chính thức sau thuế (thu nhập sau thuế
sau thời gian thử việc) 30.000.000 đồng, như vậy không phù hợp với quy định của
pháp luật.
Ngồi ra, pháp luật có quy định: “Đối với người lao động không thuộc đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm thất
nghiệp thì ngồi việc trả lương theo cơng việc, người sử dụng lao động có trách
nhiệm chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương một khoản tiền cho người lao động
tương đương mức đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm thất
nghiệp và tiền nghỉ phép hằng năm theo quy định”, nhưng Công ty Sáng không chi trả
cho ông khoản tiền này.
Theo quy định của pháp luật, làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngồi
giờ làm việc bình thường theo quy định trong pháp luật, thoả ước lao động tập thể
hoặc theo nội quy lao động. Người lao động làm thêm giờ được trả lương làm thêm
giờ theo quy định. Theo thoả thuận trong thư mời nhận việc, thời giờ làm việc từ thứ
hai đến thứ sáu hàng tuần, bắt đầu từ 8g30 đến 12g00, chiều từ 13g đến 17g30. Ngồi
ra, do tính chất cơng việc, ơng phải đáp ứng một số yêu cầu công tác đặc biệt theo
tiến độ dự án hoặc khi nhận được yêu cầu từ phía người quản lý trực tiếp. Vì vậy, ơng
u cầu cơng ty Sáng cung cấp bảng chấm công để xác định thời gian làm việc ngoài
giờ và trả lương ngoài giờ cho ông nếu công ty trả lương cho ông theo hình thức trả
lương theo thời gian là hồn tồn phù hợp nhưng khơng được đáp ứng.
Vì quyền và lợi ích hợp pháp về tiền lương của ông bị xâm phạm, do đó ơng đã
quyết định hủy bỏ thỏa thuận thử việc với Công ty Sáng kể từ ngày 01/04/2017.
Nay ông khởi kiện u cầu Cơng ty Sáng phải có nghĩa vụ:
- Thứ nhất: Yêu cầu Công ty Sáng trả cho ông tiền lương còn thiếu là 18.489.000
đồng. Theo ông Thắng:
+ Bị đơn trả lương cho ông số tiền 25.500.000 đồng/ tháng bằng 85% của số
tiền lương chính thức sau thời gian thử việc 30.000.000 đồng theo quy định trong Thư
mời nhận việc là không đúng mà tiền lương thử việc của ông phải được xác định là

30.000.000 đồng/tháng sau khi đã trừ thuế thu nhập cá nhân. Vì theo quy định của Bộ
luật lao động lương thử việc ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc ông
đang làm, mức lương phải dựa vào thang lương, bảng lương nhưng tại thời điểm ơng
đang làm thì Cơng ty Sáng khơng có thang lương, bảng lương nên phải xác định tiền
lương thử việc của ông trước thuế là 30.000.000 đồng/ tháng. Theo đó, tiền lương
21


trước thuế là 33.333.333 đồng vì thuế thu nhập người lao động phải nộp là 10%.
+ Bên cạnh đó, Cơng ty Sáng xác định hình thức trả lương cho ơng theo thời
gian là không đúng mà phải trả lương theo hình thức khốn. Vì theo thoả thuận tại
Thư mời nhận việc, thời giờ làm việc từ thứ hai đến thứ sáu, sáng bắt đầu từ 8g30 đến
12 giờ, chiều từ 13g đến 17g30, ơng thường xun làm việc ngồi giờ nhưng theo
bảng chấm công và lương ông thực nhận từ cơng ty thì ơng khơng được trả lương
ngồi giờ. Tại buổi phỏng vấn ông, ông và Công ty Sáng đã thống nhất với nhau về
việc trả lương theo hình thức khoán, điều này phù hợp với quy định tại mục 15 của
Thư mời nhận việc “trong tháng đầu tiên công ty sẽ đơn phương chấm dứt nếu anh
không đạt được hiệu quả cơng việc hoặc mức độ khơng hồn thành công việc từ 20%
trở lên…” nhưng trong Thư mời nhận việc lại khơng ghi hình thức trả lương. Do
khơng được trả lương ngồi giờ và Thư mời nhận việc khơng ghi hình thức trả lương
nên ơng đề nghị Hội đồng xét xử cơng nhận hình thức trả lương mà Cơng ty Điền áp
dụng trả lương cho ơng là hình thức khốn.
Từ những cơ sở trên, ơng Thắng u cầu xác định lại thu nhập trước thuế của
ông là:
Tháng 2 : (33.333.333 đồng + 120.000 đồng) = 33.453.333 đồng
Tháng 3: (33.333.333 đồng + 230.000 đồng) = 33.563.333 đồng
Thuế thu nhập cá nhân phải nộp theo mức tiền lương đã được xác định lại:
Tháng 2: 33.453.333 đồng x 10% = 3.345.333 đồng
Tháng 3: 33.563.333 đồng x 10% = 3.356.333 đồng
Thu nhập sau thuế của ông theo mức tiền lương đã được xác định lại:

Tháng 2: 33.453.333 đồng – 3.345.333 đồng = 30.108.000 đồng
Tháng 3: 33.563.333 đồng – 3.356.333 đồng = 30.207.000 đồng
Theo phiếu lương tháng 2 và tháng 3, bị đơn đã chi trả cho ông (sau thuế):
Tháng 2: 16.142.000 đồng
Tháng 3: 25.684.000 đồng
Thuế thu nhập cá nhân bị đơn đã khấu trừ từ tiền lương của ông:
Tháng 2:

515.800 đồng

Tháng 3: 2.108.600 đồng
Tiền lương (sau thuế) bị đơn phải chi trả bổ sung cho ơng 18.489.000 đồng, trong
đó:
Tháng 2: 30.108.000 đồng – 16.142.000 đồng = 13.966.000 đồng
Tháng 3: 30.207.000 đồng – 25.684.000 đồng = 4.523.000 đồng
22


- Thứ hai, yêu cầu Công ty Sáng trả cho ông Thắng số tiền bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cùng kỳ với kỳ trả lương tháng 02 và 3/2017 (sau
thuế) theo quy định tại khoản 3 Điều 186 Bộ luật Lao động, tương đương 5.324.000
đồng/tháng, sau khi đã trừ thuế thu nhập số tiền này là 9.583.000 đồng, cụ thể:
Thuế thu nhập: 5.324.000 x 10% = 532.400 đồng /tháng
Tháng 2: 5.324.000 đồng – 532.400 đồng (thuế thu nhập) = 4.791.600 đồng
Tháng 3: 5.324.000 đồng – 532.400 đồng (thuế thu nhập) = 4.791.600 đồng
- Thứ ba, Đề nghị Công ty Sáng phải trả thêm tiền lãi chậm trả trên tổng số tiền
28.072.200 đồng, từ ngày 01/04/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm (27/09/2017), theo
mức lãi suất do pháp luật quy định (10%/năm – tạm tính) là 1.384.521 đồng, chi tiết
như sau:
Từ 01/04/2017 – 27/09/2017: 180 ngày (30 + 31 + 30 + 31 + 31 + 27);

Lãi suất chậm trả 10%/năm, lãi suất 1 ngày: 0.0274% (10% ÷ 365 ngày)
Tổng số tiền lãi chậm trả : 0.0274% x 180 x 28.072.200 đồng = 1.384.521 đồng.
Tại bản tự khai, bản trình bày ý kiến và các biên bản phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận cơng khai chứng cứ, ơng Đặng Hồng và ơng Trần Trung là đại diện của
bị đơn trình bày:
Trong suốt thời gian thử việc của ông Thắng từ ngày 13/02//2017 đến ngày
31/3/2017, cơng ty Sáng đã hồn thành đầy đủ nghĩa vụ trả lương cho ông Thắng với
tổng số tiền là 41.826.600 đồng (sau khi đã trừ thuế thu nhập cá nhân). Chứng từ khấu
trừ thuế cũng đã được công ty gửi tới địa chỉ nhà ông Thắng ngày 10/4/2017.
Công ty Sáng không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của ơng Lê Thắng vì Cơng
ty đã thanh tốn đủ tiền lương cho ông Thắng theo quy định của pháp luật và đã gửi
Chứng từ khấu trừ thuế và thư xác nhận thu nhập đầy đủ cho ông Thắng.
Tại bản tự khai ngày 08/9/2017, người làm chứng- Ông Đỗ Văn Bửu trình bày:
Theo u cầu làm chứng của ơng Thắng, ông có ý kiến như sau:
Thời gian ông phỏng vấn trực tiếp ơng Thắng là ngày 15/12/2016, ơng có ghi lại
đánh giá và kết quả phỏng vấn như trong danh sách phỏng vấn (danh sách phỏng vấn
đính kèm nộp Tồ án). Tất cả thông tin trao đổi khi phỏng vấn ông đều chuyển cho bộ
phận nhân sự công ty và đều được thể hiện như trong thư mời nhận việc. u cầu Tồ
án và các bên có liên quan căn cứ vào Thư mời nhận việc để xử lý vụ án. Do bận công
việc nên ông xin vắng mặt tham gia tố tụng, ông cam kết bản tự khai của ông là hoàn
toàn đúng sự thực, nếu gian dối và sai trái ơng xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ơng cam kết giữ ngun lời khai trên và khơng có ý kiến bất kỳ nào khác.
Tại bản tự khai ngày 08/9/2017, người làm chứng- Ơng Nguyễn Quốc trình bày:
Theo u cầu làm chứng của ơng Thắng, ơng có ý kiến như sau:
23


Ông không tham gia trực tiếp phỏng vấn ông Thắng, việc ký vào thư mời nhận
việc là theo thủ tục của cơng ty và dựa trên báo cáo của Phịng hành chính nhân sự.
Ơng u cầu Tồ án và các bên có liên quan căn cứ vào Thư mời nhận việc để xử lý

vụ án. Do bận công việc nên ông xin vắng mặt tham gia tố tụng, ông cam kết bản tự
khai của ơng là hồn tồn đúng sự thực, nếu gian dối và sai trái ông xin chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Ông cam kết giữ nguyên lời khai trên và khơng có ý kiến bất
kỳ nào khác.
Hỏi:
(1) Thư mời nhận việc có được xem là hợp đồng thử việc khơng? Gỉai thích?
(2) Với tư cách là luật sư của nguyên đơn, bị đơn, hãy bảo vệ quyền lợi cho thân
chủ.
4. Tình huống số 4:
Ngun đơn: Ơng Trần Văn Thanh
Địa chỉ: Quận Tân Phú, TP. HCM
Bị đơn: Trung tâm dạy nghề Quận X.
Trụ sở: quận X, TP.HCM.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: ông Nguyễn Văn, địa chỉ: quận Tân Bình,
TP.HCM; là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền số 64/QĐ-TTDN ngày
30/3/2016).
Nguyên đơn trình bày: Tháng 11/2013, ông Thanh được nhận vào làm việc tại
Trung tâm dạy nghề quận X (sau đây viết tắt là TTDN), ông Thanh và TTDN đã ký
lien tiếp 04 HĐLĐ xác định thời hạn 12 tháng từ ngày 1/11/2013 đến ngày
31/12/2017, công việc của ông Thanh là nhân viên bảo vệ. HĐLĐ đầu tiên mức lương
của ông Thanh là 1.400.000 đồng/tháng, HĐLĐ thứ 2 mức lương là 1.600.000
đồng/tháng, hai HĐLĐ tiếp theo mức lương là 1.800.000 đồng/tháng.
Sau ngày 31/12/2017 (ngày kết thúc HĐLĐ thứ 4), ông Thanh vẫn đi làm bình
thường. Đến ngày 28/1/2018, TTDN mới thơng báo cho ông Thanh biết là HĐLĐ đã
hết hạn từ ngày 31/12/2017 và TTDN không tiếp tục ký HĐLĐ với ông Thanh nữa,
đồng thời giao QĐ số 41/QĐ-TTDN ngày 28/1/2018 về việc chấm dứt HĐLĐ với ơng
Thanh.
TTDN đã có những vi phạm trong quá trình ký kết và thực hiện HĐLĐ. Mức
lương theo HĐLĐ thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định.
Trong q trình làm việc tại TTDN, ơng Thanh khơng có vi phạm kỷ luật và

khơng bị xử lý KLLĐ nên việc TTDN chấm dứt HĐLĐ đối với ông Thanh là trái
pháp luật. Do đó, ông Thanh có các yêu cầu đối với TTDN như sau:
24


-

Hủy bỏ QĐ số 41/QĐ-TTDN ngày 28/1/2018 của Trung tâm dạy nghề về việc
chấm dứt HĐLĐ đối với ông Thanh.

-

Buộc TTDN phải thanh toán tiền chênh lệch lương so với lương tối thiểu do
Chính phủ quy định.

-

Buộc Trung tâm dạy nghề phải trả các khoản tiền do đơn phương chấm dứt
HĐLĐ trái pháp luật, cụ thể:
• Tiền lương trong những ngày ông Thanh không được làm việc là 05 tháng
cộng với 02 tháng tiền lương là 07 tháng;
• Trả tiền do vi phạm thời hạn báo trước đối với HĐLĐ không xác định thời
hạn là 45 ngày.
Đại diện bị đơn ơng Nguyễn Văn trình bày:

Ơng Thanh tái ký HĐLĐ với TTDN, công việc làm bảo vệ thời hạn đến hết ngày
31/12/2017 nhưng trong q trình làm nhiệm vụ, ơng Thanh thường xuyên bỏ vị trí
gác. Tổ bảo vệ đã họp và nhắc nhở ông Thanh nhiều lần nhưng ông Thanh khơng
những chậm khắc phục mà cịn vi phạm nhiều hơn, do đó các nhân viên bảo vệ khác
đã có ý kiến và yêu cầu ban giám đốc giải quyết.

Sau đó lãnh đạo trung tâm dạy nghề đã họp và đi dến thống nhất không ký tiếp
HĐ với ông Thanh trong năm 2018 và giao cho phịng Hành chính - Tổ chức thực
hiện thủ tục chấm dứt HĐLĐ đối với ông Thanh theo đúng quy định pháp luật. Theo
đó ngày 28/11/2017, giám đốc đã ký thong báo số 319/TB-TTDN về việc không ký
lại HĐLĐ đối với nhân viên bảo vệ ông Thanh. Sau khi nhận được thong báo, ơng
Thanh biết mình sẽ bị chấm dứt HĐLĐ nên đã viết cam kết ngày 5/1/2018 hứa khắc
phục những thiếu sót với mong muốn được tiếp tục làm việc trong năm 2015. Tuy
nhiên, lãnh đạo trung tâm đã quyết định và ban hành QĐ số 41/QĐ-TTDN ngày
28/01/2018 về việc chấm dứt HĐLĐ đối với ông Thanh.
Như vậy, căn cứ điểm a,b khoản 1 điều 38 BLLĐ 2012, Trung tâm dạy nghề đã
thực hiện đúng quy định của pháp luật về chấm dứt HĐLĐ. Vì vậy các yêu cầu của
ông Thanh sẽ không được chấp thuận.
Yêu cầu:
(1) Hãy chuẩn bị bài luận cứ của mình để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
nguyên đơn và bị đơn.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×