Tải bản đầy đủ (.docx) (153 trang)

Các biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên trung học cơ sở của phòng giáo dục và đào tạo, huyện thanh miện, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.31 KB, 153 trang )

KHOA SƯ PHẠM
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Học viên : VŨ ĐỨC QUYẾT

NGHIÊN CỨU , HỆ THỐNG CƠ SỞ VỀ LÝ LUẬN

Người hướng dẫn : PGS, TS TRẦN KIỂM

Hà nội: 2006


KHOA SƯ PHẠM
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Học viên : VŨ ĐỨC QUYẾT

NGHIÊN CỨU , HỆ THỐNG CƠ SỞ VỀ LÝ LUẬN

Người hướng dẫn : PGS, TS TRẦN KIỂM

Hà nội: 2006


DANH MỤC CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BD

Bồi dưỡng

BP



Biện pháp

BTVH

Bổ túc văn hóa

NV

Cán bộ giáo viên

CBQL

Cán bộ quản lý

CQ

Chủ quan

CT

Chỉ thị

CSVC

Cơ sở vật chất

DH

Dạy học


ĐH,CN

Đại học, chuyên nghiệp

GD&ĐT

Giáo dục và Đào tạo

GDTX

Giáo dục thường xuyên

GV

Giáo viên

HĐND

Hội đồng nhân dân

KCCT

Kiên cố cao tầng

KTĐG

Kiểm tra đánh giá

KQ


Khách quan

NVSP

Nghiệp vụ sư phạm

PCGD

Phổ cập giáo dục

QG

Quốc gia

QH

Quốc hội

QL

Quản lý

QLGD

Quản lý giáo dục

TH

Tiểu học


THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TTg

Thủ tướng



Trung ương

UBND

Uỷ ban nhân dân
-3–


MỤC LỤC
Mở đầu
1.

Lý do chọn đề tài......................................................................................7

2.


Mục đích nghiên cứu................................................................................9

3.

Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................... 9

4.

Đối tượng và khách thể nghiên cứu..........................................................9

5.

Giả thuyết khoa học của đề tài............................................................... 10

6.

Giới hạn của đề tài..................................................................................10

7.

Phương pháp nghiên cứu........................................................................10

8.

Cấu trúc luận văn....................................................................................10

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của việc quản lý công tác bồi dƣỡng giáo viên
trung học cơ sở
1.1.


Tổng quan vấn đề nghiên cứu................................................................ 11

1.2.

Một số khái niệm....................................................................................13

1.2.1. Biện pháp............................................................................................... 13
1.2.2. Quản lý...................................................................................................14
1.2.3. Quản lý giáo dục.................................................................................... 18
1.2.4. Bồi dưỡng...............................................................................................19
1.2.5. Nghiệp vụ sư phạm................................................................................ 22
1.2.6. Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm...............................................................25
1.2.7. Quản lý công tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên.............27
1.3.

Giáo dục trung học cơ sở....................................................................... 27

1.3.1. Tầm quan trọng của giáo dục trung học cơ sở....................................... 28
1.3.2. Mục tiêu giáo dục trung học cơ sở.........................................................28
1.4.

Giáo viên trung học cơ sở và vai trò của đội ngũ giáo viên trung học cơ sở
.....................

1.4.1. Giáo viên trung học cơ sở...................................................................... 28
1.4.2. Vai trò của đội ngũ giáo viên trung học cơ sở........................................29
1.5.

Vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Phòng Giáo dục và Đào tạo


1.5.1. Vị trí, chức năng.....................................................................................30
1.5.2. Nhiệm vụ quyền hạn.............................................................................. 31
-4–

30


1.6.

Nội dung quản lý việc bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên trung
học cơ sở của Phòng Giáo dục và Đào tạo.............................................32

1.6.1. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cụ thể của từng năm học.......................32
1.6.2. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng...........................33
1.6.3. Kiểm tra đánh giá công tác bồi dưỡng của các trường và của giáo viên . 33

1.7.

Các nhân tố chi phối các công tác quản lý việc bồi dưỡng giáo viên của
Phòng Giáo dục và Đào tạo................................................................... 33

Chƣơng 2: Thực trạng quản lý công tác bồi dƣỡng giáo viên Trung học
cơ sở ở Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Miện
2.1.

Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội

2.1.1.


Điều kiện tự nhiên ...........................................

2.1.2.

Kinh tế- xã hội .................................................

2.2.

Khái quát về tình hình phát triển giáo dục - đạo

2.3.

Giáo dục trung học cơ sở .................................

2.3.1.

Về chất lượng và hiệu quả đào tạo học sinh tru

2.3.2.

Về số lượng, giới và độ tuổi đội ngũ giáo viên

2.3.3.

Về trình độ được đào tạo của giáo viên trung h

2.4.

Thực trạng quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên trun
Giáo dục - Đào tạo huyện Thanh Miện ...........


2.4.1. Thực trạng nghiệp vụ sư phạm của giáo viên trung học cơ sở ...................
2.4.2.

Thực trạng nhận thức của đội ngũ giáo viên
tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm ....................

2.4.3.

Thực trạng quản lý công tác bồi dưỡng nghiệp

2.5.

Đánh giá chung ................................................

Chƣơng 3: Đề xuất biện pháp quản lý công tác bồi dƣỡng đội ngũ giáo
viên trung học cơ sở của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
Thanh Miện
3.1.

Những căn cứ của việc đề xuất biện pháp..............................................71

3.2.

Các nhóm biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng bồi dưỡng nghiệp vụ
sư phạm cho đội ngũ giáo viên trung học cơ sở của Phòng Giáo dục và
Đào tạo...................................................................................................74
-5–



3.2.1. Nhóm biện pháp 1: Nâng cao nhận thức để hình thành động cơ bồi dưỡng
nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên trung học cơ sở....................74
3.2.2. Nhóm biện pháp 2: Kế hoạch hóa công tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
cho giáo viên..........................................................................................78
3.2.3. Nhóm biện pháp 3: Tổ chức thực hiện hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư
phạm cho giáo viên................................................................................ 80
3.2.4. Nhóm biện pháp 4: Nâng cao năng lực chỉ đạo công tác bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm cho giáo viên...................................................................... 84
3.2.5. Nhóm biện pháp 5: Kiểm tra, giám sát, đánh giá công tác bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm.............................................................................................87
3.2.6. Nhóm biện pháp 6: Tăng cường cơ sở vật chất, các nguồn lực trong công
tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trung học cơ sở...................................89
3.2.7. Nhóm biện pháp 7: Đổi mới công tác quản lý của Phòng Giáo dục - Đào
tạo huyện Thanh Miện, Hải Dương....................................................... 91
3.3.

Mối quan hệ giữa các nhóm biện pháp.................................................. 95

3.4.

Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các nhóm biện pháp.....96

3.4.1. Về tính cần thiết của các nhóm biện pháp..............................................96
3.4.2. Về tính khả thi của các nhóm biện pháp................................................ 97
Kết luận và khuyến nghị.................................................................................98
Tài liệu tham khảo........................................................................................ 100
Phụ lục

-6–



MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quản lý một tổ chức trước hết và chủ yếu là quản lý con người. Trong hệ
thống giáo dục, những con người đó là giáo viên, học sinh, cán bộ, nhân viên
phục vụ. Đội ngũ giáo viên là nguồn lực chủ yếu giữ vai trò quan trọng nhất
trong việc thực hiện mục tiêu, kế hoạch đào tạo, là người góp phần lớn nhất vào
sự thành công của quá trình đào tạo. Bác Hồ đã từng nhấn mạnh vai trò trọng
yếu của giáo viên trong hệ thống giáo dục nước nhà: “Nếu không có thầy giáo
thì không có giáo dục”. Roy Singh lại cho thấy quan hệ hữu cơ và đặc biệt tỉ lệ
thuận tuyệt đối giữa chất lượng của hệ thống giáo dục với chất lượng của đội
ngũ giáo viên đang làm việc cho hệ thống ấy. Theo ông, không có hệ thống giáo
dục nào vượt quá tầm những giáo viên làm việc cho nó. Trải qua những tháng
năm lịch sử phát triển đất nước, nghề dạy học ngày càng được tôn vinh, nếu như
trước kia người ta chỉ khuyến cáo “không thầy đố mày làm nên” thì nay xã hội
đã khẳng định “những thầy cô giáo tốt là những anh hùng vô danh” (Hồ Chí
Minh), hay “nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”
(Phạm Văn Đồng). Người thầy giáo ngoài việc truyền thụ cho học sinh những
kiến thức, kỹ năng cần thiết cũng chính là người mang hệ thống các giá trị xã
hội, nhất là các giá trị truyền thống, giá trị nhân văn đến với người học, truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác, đảm bảo dòng đời liên tục mang đậm bản sắc dân
tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Chính vì vậy, việc đào tạo giáo viên ngày càng
được chú trọng. Tuy được đánh giá cao, được đầu tư đúng mức hơn song những
yêu cầu, đòi hỏi của xã hội cũng ngày càng cao. Trong điều kiện trên, việc xây
dựng mô hình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên chất lượng cao là rất cần thiết, đáp
ứng những đòi hỏi của thực tiễn.
Trong chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, với tư tưởng cơ bản là
tiếp tục quán triệt quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển
biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục đào tạo, trong đó đổi mới

chương trình sách giáo khoa và phát triển đội ngũ nhà giáo là các giải pháp trọng
tâm. Đội ngũ nhà giáo đã được khẳng định một cách chắc chắn có vai trò quan
trọng, quyết định trong việc thực hiện chất lượng giáo dục. Cùng với sự tôn vinh
là trách nhiệm nặng nề trước những yêu cầu cấp thiết của thời đại đòi hỏi đội
ngũ nhà giáo phải đáp ứng kịp thời, sao cho đủ số lượng, cân đối về cơ cấu, cao
về phẩm chất, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc giảng dạy, giáo dục,
đào tạo bồi dưỡng.
Chất lượng giáo dục là vấn đề quan tâm đặc biệt của mỗi quốc gia bởi vì
nó đóng vai trò then chốt và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển
-7–


kinh tế-xã hội. Nghị quyết đại hội Đảng lần IX đã khẳng định rằng phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá-hiện đại hoá là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, tiếp
tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy
và học theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá.” Như vậy nhiệm vụ của
ngành giáo dục là rất nặng nề nhưng rất vẻ vang. Để đáp ứng yêu cầu của giáo
dục, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có chỉ thị 40/CT-TƯ ngày 15/6/20004 về
“Xây dựng nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”.
Chất lượng giáo viên là một yếu tố của chất lượng giáo dục và cũng là
một nhân tố quyết định đến chất lượng giáo dục, đào tạo. Sản phẩm đào tạo của
các trường sư phạm đã được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo đã
được xác định. Mục tiêu đào tạo ở các trường sư phạm hiện nay chỉ phản ánh nội
dung tổng quát các năng lực của giáo viên cần được đào tạo để đạt một trình độ
chuẩn về văn bằng.
Giáo dục phổ thông là nền tảng cơ bản của giáo dục một nước, có vị trí
đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục và hình thành nhân cách công dân của
thế hệ trẻ và nâng cao mặt bằng dân trí, chuẩn bị đào tạo nguồn nhân lực cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. “Giúp học sinh củng cố và phát triển những kết

quả của giáo dục tiểu học, có trình độ học vấn phổ thông cơ sở và những hiểu
biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học THPT, TH chuyên
nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động” [10, tr.14]. Chất lượng giáo
dục phổ thông được nhìn nhận từ vị trí, mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy
và học của cấp học theo ba tiêu chí: phổ thông, cơ bản và thiết thực. Từ năm
1997, những thay đổi đồng bộ về giáo dục THCS và việc xây dựng lại chương
trình, biên soạn lại sách giáo khoa theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập
của học sinh đã đặt ra những yêu cầu cấp thiết về chất lượng giáo viên. Yêu cầu
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã đặt ra những thách thức mới đối với
công tác bồi dưỡng giáo viên.
Trong yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông hiện nay, nội dung và phương
pháp bồi dưỡng giáo viên ở Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Miện, tỉnh
Hải Dương những năm gần đây đã có một số tiến bộ, góp phần nâng cao chất
lượng của đội ngũ giáo viên trong huyện. Công tác bồi dưỡng giáo viên theo chu
kỳ bốn năm được thực hiện thường xuyên hơn kết hợp với công tác bồi dưỡng hè
cho giáo viên đã có những tác dụng nhất định, nâng cao nhận thức của giáo viên.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức về chất lượng đội ngũ
giáo viên như: Chất lượng đào tạo của giáo viên không đồng đều do giáo viên
được tuyển chọn từ nhiều nguồn đào tạo, nhiều loại hình đào tạo khác nhau;
quan niệm dạy học còn chưa đổi mới, thiên về việc truyền thụ kiến thức một
-8–


chiều, coi nhẹ việc phát huy tính sáng tạo, chủ động của học sinh, do đó học sinh
quen với lối học vẹt, thụ động. Hiện nay việc đổi mới cách dạy, cách học theo
hướng học “cách học” thông minh sáng tạo, học đi đôi với hành, nhà trường gắn
với đời sống, tiến triển rất khó khăn. Vấn đề bồi dưỡng giáo viên cần phải được
nhìn nhận ở mức độ cao hơn. Trước tình hình đó, công tác bồi dưỡng giáo viên,
hướng đến yêu cầu nâng cao chất lượng giáo viên của Phòng Giáo dục và Đào
tạo huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương đã đặt ra những đòi hỏi cấp thiết về nội

dung cũng như phương pháp bồi dưỡng. Việc bồi dưỡng giáo viên không chỉ
nhằm nâng cao nhận thức mà còn phát triển các kỹ năng sư phạm của giáo viên,
đáp ứng các yêu cầu về đổi mới.
Từ những lý do trên tác giả đi đến lựa chọn “Các biện pháp quản lý công
tác bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên trung học cơ sở của
Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương” làm đề tài luận
văn tốt nghiệp cao học, chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2.

Mục đích nghiên cứu

Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao nghiệp vụ sư phạm cho đội
ngũ giáo viên THCS huyện Thanh Miện.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn xác định những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý công tác bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên THCS.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý của Phòng Giáo dục và Đào tạo
trong công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên THCS ở huyện Thanh Miện,
tỉnh Hải Dương.
- Nghiên cứu, đề xuất những biện pháp nhằm quản lý tốt công tác bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên THCS của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
- Khảo nghiệm các biện pháp đề xuất.
4.

Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Các hoạt động quản lý của Phòng Giáo dục và
Đào tạo huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
- Đối tượng nghiên cứu: Các hoạt động quản lý việc bồi dưỡng đội ngũ

giáo viên THCS của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương.
-

9–


5. Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho
giáo viên đề ra trong luận văn này được thực hiện một cách triệt để và đồng bộ
thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng việc quản lý công tác bồi dưỡng nghiệp vụ
sư phạm cho giáo viên THCS ở Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng như chất lượng
giảng dạy của đội ngũ giáo viên THCS ở huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
6. Giới hạn của đề tài
Do mục đích nghiên cứu đã đặt ra nên luận văn tập trung nghiên cứu những
biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác quản lý việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
THCS của Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương từ
năm 2000 trở lại đây. Chính vì vậy phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ hạn
chế:
- Dưới góc độ của Phòng Giáo dục và Đào tạo.
- Trên địa bàn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
- Nghiên cứu quản lý bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên
THCS.

- Số liệu khảo sát sẽ thu thập từ năm 2000 đến nay.
- Khách thể điều tra: Hiệu trưởng, giáo viên, chuyên viên, cán bộ quản
lý của Phòng Giáo dục và Đào tạo.
7.

Phƣơng pháp nghiên cứu

- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp thống kê và phân tích số liệu

8.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chƣơng 1 Cơ sở lý luận của việc quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên
Trung học cơ sở
Chƣơng 2 Thực trạng quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên Trung học cơ sở
ở Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Thanh Miện
Chƣơng 3 Đề xuất các biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên Trung học cơ sở ở Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện
Thanh Miện
-10–


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ CÔNG TÁC BỒI DƢỠNG
GIÁO VIÊN TRUNG HỌC CƠ SỞ

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Yếu tố quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả của sự nghiệp giáo
dục đào tạo chính là đội ngũ giáo viên. Để có được đội ngũ giáo viên đủ mạnh
đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay, vấn đề đào tạo bồi dưỡng giáo
viên là hết sức cần thiết để năng cao chất lượng giáo dục. Những yêu cầu về
chuyên môn của giáo viên không những chỉ có kiến thức mà còn phải có những

kĩ năng cần thiết để tổ chức và thực hành công tác giáo dục, vấn đề không phải
tiếp thu kiến thức uyên bác mà phải có cả thời gian. Vì vậy, việc bồi dưỡng giáo
viên nhất thiết phải được làm thường xuyên và liên tục. Vấn đề đào tạo bồi
dưỡng giáo viên đã được các nhà khoa học giáo dục, các nhà quản lý giáo dục
quan tâm nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang bước sang thế kỷ
21, thế kỷ của tri thức với những yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo
dục. Một số công trình trong và ngoài nước đã được tác giả nghiên cứu và sử
dụng làm cơ sở lý luận cho đề tài này.
1.1.1. Thế giới
Nghề dạy học đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở nhiều nước
trên thế giới. Nước Nga có sách: “Chuẩn bị cho sinh viên làm công tác giáo dục
ở trường phổ thông” của tác giả N.L.Bondurep. Trong cuốn sách này, vai trò kỹ
năng sư phạm đối với nghề dạy học được tác giả quan tâm đặc biệt. Theo tác giả,
những yêu cầu chuyên môn của người thầy không chỉ có những kiến thức phong
phú mà còn phái có những kỹ năng cần thiết để tổ chức và thực hành công tác
giáo dục. Muốn làm công tác giáo dục tốt cần phải có những kỹ năng giáo dục
tốt. Vì vậy việc bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên nhất thiết phải được
làm thường xuyên.
Tác giả Jacques Nimie với tác phẩm: “Giáo viên rèn luyện tâm lý” đã
khẳng định việc đào tạo giáo viên không chỉ làm ở các trường sư phạm là đủ mà
còn trong cuộc sống nghề nghiệp sau này của mình, người giáo viên phải luôn
luôn tự rèn luyện bản thân mình.
Michell Develey: “Một số vấn đề đào tạo giáo viên” có đề cập đến vấn đề
đào tạo giáo viên bao gồm nhiều công đoạn như: Nội dung, phương thức đào
tạo, tính chất và bản sắc nghề nghiệp... đó là cuốn sách góp phần đổi mới công
tác đào tạo giáo viên.
-11–


Tác giả Berhard Muzynsky người Đức và Nguyễn Thị Phương Hoa đã

cho ra đời cuốn sách: “Con đường nâng cao chất lượng và cải cách các cơ sở đào
tạo giáo viên”. Trong cuốn sách này, hai tác giả đã đưa ra các tiêu chuẩn chương
trình cho việc đào tạo giáo viên của các trường CĐSP cũng như chất lượng đầu
ra của sinh viên dựa vào những phản hồi từ phía đơn vị sử dụng sinh viên tốt
nghiệp. Căn cứ vào những thông tin phản hồi đó để các trường CĐSP có kế
hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các giáo viên sau khi được sử dụng.
1.1.2. Việt nam

nước ta giáo dục bao giờ cũng được xem là quốc sách hàng đầu, nó có
vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Trước tiên phải nói đến
quan điểm về phát triển giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng việc kế thừa
những tinh hoa của các tư tưởng giáo dục tiên tiến và vận dụng sáng tạo phương
pháp luận của triết học Mác-Lênin, Người đã xác những cơ sở lý luận có giá trị
nền tảng cho công cuộc đổi mới giáo dục như vai trò, định hướng phát triển giáo
dục, mục đích dạy học, các phương thức dạy học, vai trò của quản lý và cán bộ
quản giáo dục. Hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục có giá
trị rất cao trong quá trình phát triển lý luận dạy học, lý luận giáo dục của nền
giáo dục cách mạng Việt Nam.
Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ điều đó nên Đại hội Đảng IX đã
khẳng định phát triển GD&ĐT là một trong những động lực quan trọng để thúc
đẩy sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người vì đây chính là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế
nhanh, bền vững và ổn định chính trị, coi GD&ĐT, khoa học công nghệ và
nguồn nhân lực là một bứt phá quan trọng để đi vào thực hiện chiến lược 20012010. Vì vậy giáo dục đã thực sự có được vị trí quan trọng trong chiến lược phát
triển con người, chiến lược kinh tế xã hội. Đảng đã coi GD&ĐT là “Quốc sách
hàng đầu”. Mục tiêu của giáo dục đã được ghi rõ trong Nghị quyết Đại hội Đảng
IX và trong kết luận số 14 KL/TƯ ngày 26/7 /2002 của Hội nghị lần thứ 6 Ban
chấp hành trung ương khóa IX về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TƯ 2 khóa VIII,
phương hướng phát triển GD&ĐT, khoa học và công nghệ đến năm 2010 là tiếp
tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy

và học, hệ thống trường lớp, công tác quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hóa,
hiện đại hóa….và tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, trước hết nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo thực hiện giáo dục toàn diện, đặc biệt giáo dục
tư tưởng, chính trị, nhân cách đạo đức, lối sống cho người học…
Chỉ thi 40-CT/TƯ ngày 14 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
-12–


lý giáo dục nhấn mạnh mục tiêu xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục là: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn
hóa, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu; đặc biệt chú trọng
nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà
giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự
nghiệp giáo dục để nâng cao nguồn nhân lực, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.[5, tr.12]
Công tác bồi dưỡng cũng được triển khai cho giáo viên ở hầu hết các cấp
trong ngành Giáo dục và Đào tạo. Năm 1994 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã lưu
hành nội bộ tập: “Bài giảng bồi dưỡng giáo viên THCS”. Đây thực sự là cuốn
cẩm nang cho giáo viên vì tập bài giảng này đã đề cập và cung cấp rất nhiều nội
dung, thông tin khác nhau về việc dạy học ở bậc THCS: Các vấn đề liên quan
đến quản lý giáo dục; Các vấn đề về tâm lý giáo dục; Các vấn đề về kỹ năng
giảng dạy
Thực tế đã có nhiều tác giả nghiên cứu về đổi mới giáo dục và thực tiễn
giáo dục trong nước như Nguyễn Cảnh Toàn, Đặng Vũ Hoạt, Phạm Minh Hạc,
Vũ Đình Cự, Trần Kiểm, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ
Lộc... và nhiều bài viết đăng trên các tạp chí phát triển giáo dục, giáo dục, Dạy
và học ngày nay cho thấy vấn đề đổi mới giáo dục đang được quan tâm nghiên
cứu và có tác dụng tích cực với thực tiễn đổi mới giáo dục nước ta.
Ngoài ra, trong một số công trình, đề tài nghiên cứu cũng đã đề cập về

vấn đề bồi dưỡng giáo viên ở những không gian khác nhau như: tác giả Phùng
Thanh Kỷ với công trình nghiên cứu về công tác bồi dưỡng giáo viên THCS ở
Hà Nội; tác giả Kiều Thị Bình có công trình nghiên cứu về công tác bồi dưỡng
giáo viên ở tỉnh Quảng Bình; tác giả Khoa Thị Điển với công trình nghiên cứu
về quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên tiểu học ở Hải Phòng…
1.2. Một số khái niệm
1.2.1.

Biện pháp

Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên,
biện pháp là: “cách làm, cách thức tiến hành” [41, tr.67].
Biện pháp là cách thức hành động để thực hiện một mục đích, là cách làm,
cách giải quyết một vấn đề cụ thể. Biện pháp là một bộ phận của phương pháp,
điều đó có nghĩa là để sử dụng một phương pháp nào đó phải sử dụng nhiều biện
pháp khác nhau. Cùng một biện pháp có thể sử dụng trong nhiều phương pháp.

-13–


Biện pháp bồi dưỡng chính là cách thức tác động vào đối tượng cần được
bồi dưỡng để giúp chủ thể nâng cao về nhận thức hoặc kiến thức chuyên môn
của một lĩnh vực nào đó.
Biện pháp quản lý có thể hiểu là cách thức tác động vào đối tượng quản lý
nhằm giúp chủ thể nâng cao khả năng hoàn thành có kết quả các mục tiêu đặt ra.
1.2.2. Quản lý
Từ xa xưa, khi các hoạt động của xã hội loài người còn tương đối đơn
giản với quy mô chưa lớn, công việc quản lý được thực hiện trên cơ sở kinh
nghiệm với sự linh hoạt, nhạy bén của người đứng đầu tổ chức. Kinh nghiệm
ngày càng phong phú và người ta rút ra những điều mang tính quy luật có thể

vận dụng trong nhiều tình huống tương tự. Ngày nay, quản lý vừa là một khoa
học, vừa là một nghệ thuật. Nó có vai trò quyết định đến sự thành công hay thất
bại trong nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
Tuỳ theo cách tiếp cận mà người ta có các quan điểm khác nhau về quản
lý. Theo giáo trình “Quản lý hành chính nhà nước” của Học viện hành chính
Quốc gia thì quản lý là một là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức và
định hướng của chủ thể quản lý vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các
quá trình xã hội và hành vi của con người nhằm duy trì tính ổn định và phát triển
của đối tượng theo những mục tiêu đã định” 27, tr.5.
Trên phương diện chính trị – xã hội, quản lý được hiểu là sự kết hợp giữa
tri thức với lao động. Để vận hành sự kết hợp này cần có một cơ chế quản lý phù
hợp. Cơ chế đúng, hợp lý thì xã hội phát triển. Ngược lại, thì xã hội phát triển
chậm hoặc không ổn định.
Trên phương diện hành động, quản lý được hiểu là sự chỉ huy, điều khiển,
điều hành.
Theo Harold Koontz, Cyril-Odonnel, Heinz Weihriech trong cuốn sách
“Những vấn đề cốt yếu của quản lý” thì cho rằng: “Quản lý là một hoạt động
thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục
đích của nhóm. Với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn ít nhất.”[43, tr.33].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung là
khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [35, tr.24].
Theo Nguyễn Minh Đạo: “Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có
định hướng của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể
quản lý (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế… bằng
-14–


một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các
giải pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối

tượng”[23, tr.7].
Tác giả Trần Kiểm lại cho rằng: “Quản lý là những tác động có định
hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ chức
để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định”[31, tr.7] hay “Quản lý là
những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử
dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và
ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ
chức với hiệu quả cao nhất ”[ 32, tr.8]
Các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Hoạt
động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức” [19, tr.1].
Nghiên cứu các định nghĩa quản lý, chúng ta có thể thấy mặc dù các tác
giả có các quan niệm khác nhau về quản lý nhưng họ đều thống nhất: Quản lý
luôn luôn tồn tại với tư cách là một hệ thống gồm các yếu tố chủ thể quản lý
(người quản lý, tổ chức quản lý); khách thể quản lý (người bị quản lý, đối tượng
quản lý) gồm con người, trang thiết bị kỹ thuật, vật nuôi, cây trồng và mục đích
mục tiêu chung của công tác quản lý do chủ thể quản lý áp đặt hay do yêu cầu
khách quan của xã hội hoặc do sự cam kết, thoả thuận giữa chủ thể quản lý và
khách thể quản lý, từ đó nảy sinh các mối quan hệ tương tác với nhau giữa chủ
thể và khách thể quản lý.
Như vậy, quản lý là một hoạt động mang tính tất yếu và không thể thiếu
được trong xã hội, đời sống xã hội, đời sống của mỗi cá nhân. Hiện nay, hoạt
động quản lý được người ta định nghĩa rõ hơn, cụ thể hơn: “ Quản lý là quá trình
đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động chức năng như:
kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”. [19, tr.1]
Khi bàn đến hoạt động quản lý và người quản lý cần khởi đầu từ khái
niệm “tổ chức”. Do tính đa nghĩa của thuật ngữ này nên ở đây chúng ta chỉ nói
đến tổ chức như một nhóm có cấu trúc nhất định của những con người có cùng
hoạt động vị một mục đích chung nào đó mà để đạt được mục đích nhất định,

một cá nhân riêng lẻ không thể đạt đến.
Các tổ chức khác nhau được phân biệt nhờ một loạt các tiêu chí:



Mục đích của tổ chức

 Quy mô của tổ chức
-15–




Cơ cấu của tổ chức

 Những điều kiện tồn tại và phát triển của tổ chức ….
Bất luận một tổ chức có mục đích gì, cơ cấu và qui mô ra sao đều cần phải
có sự quản lý và người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt được mục đích của
mình. Vậy hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ
chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức đó.
Từ các định nghĩa được nhìn nhận khác nhau từ nhiều góc độ, ta thấy rằng
tất cả các tác giả đều thống nhất về cốt lõi của các khái niệm quản lý, đó là trả
lời câu hỏi: Ai quản lý? (Chủ thể quản lý); Quản lý cái gì? (Khách thể quản lý);
Quản lý như thế nào? (Phương thức quản lý); Quản lý bằng cái gì? (Công cụ
quản lý); Quản lý nhằm làm gì? (Mục tiêu quản lý)
Và cũng từ đó, ta nhận thức được bản chất của hoạt động quản lý: là
những hoạt động của chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý để đảm
bảo cho hệ thống tồn tại, ổn định và phát triển lâu dài vì mục tiêu và lợi ích của
hệ thống.

Chức năng của quản lý
Trong lao động quản lý chủ thể tác động vào khách thể thông qua một hệ
thống các hoạt động xác định. Các hoạt động đó được chuyên môn hóa gọi là
chức năng quản lý. Khi xác định chức năng quản lý có nhiều cách trình bày khác
nhau. Theo quan điểm hiện nay, quản lý gồn bốn chức năng chính sau:



Lập kế hoạch: là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng của quản lý ví
nó gắn liền với việc lựa chọn chương trình hành động trong tương lai.
Chẳng những lập kế hoạch là chức năng cơ bản nhất của tất cả các nhà quản lý ở
mọi cấp trong một hệ thống mà các chức năng còn lại của quản lý cũng phải dựa
trên nó. Nhà công tác lập kế hoạch, người lãnh đạo của hệ thống sẽ tổ chức, điều
khiển và kiểm tra nhằm đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu thông qua trong kế
hoạch.

Lập kế hoạch là một phương pháp tiếp cận hợp lý để đạt tới các mục tiêu định
trước. Vì phương pháp tiếp cận này không tách rời khỏi môi trường, nên việc lập
kế hoạch phải xét tới bản chất của môi trường mà các yếu tố quyết định và hành
động của việc lập kế hoạch được dự kiến để hoạt động trong đó.
Lập kế hoạch là quyết định trước xem phải làm gì, làm như thế nào, khi nào
làm và ai làm. Nó đòi hỏi người lãnh đạo của tổ chức phải xác định các
-16–


chiến lược, đường lối một cách có ý thức và đưa ra các quyết định dựa trên sự
hiểu biết và những đánh giá thận trọng.




Tổ chức: Tổ chức là quá trình phân công và phối hợp các nhiệm vụ và
nguồn lực để đạt được các mục tiêu đã vạch ra. Đó là sự liên kết giữa các cá
nhân trong, những quá trình, những hoạt động trong hệ thống nhằm thực hiện
mục đích đề ra trên cơ sở các nguyên tắc và quy tắc của hệ thống.
Chức năng tổ chức còn là chức năng hình thành cơ cấu tổ chức quản lý cùng
các mối quan hệ giữa chung. Cơ cấu tổ chức quản lý là hình thức phân công
nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý, có tác động đến quá trình hoạt động của hệ
thống quản lý. Cơ cấu tổ chức quản lý, một mặt phản ánh cơ cấu trách nhiệm của
mỗi người trong hệ thống, mặt khác có tác động tích cực trở lại đến việc phát
triển của hệ thống nếu tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tổ chức quản lý.



Chỉ đạo: Ngoài việc lập kế hoạch và tổ chức, người quản lý còn phải làm
việc với các nhân viên, xem họ thực hiện các nhiệm vụ hàng ngày của mình thế
nào.. Chỉ đạo là quá trình tác động, gây ảnh hưởng đến thành viên trong tổ chức
để công việc của họ làm hướng tới các mục tiêu chung đề ra. Các nhà quản lý
phải có khả năng truyền đạt và thuyết phục các mục tiêu cho nhân viên và thúc
đẩy họ đạt được mục tiêu bằng nhiều biện pháp khác nhau.

Kiểm tra: Kiểm tra là quá trình thiết lập và thực hiện cơ chế thích hợp
để thu thập và xử lý thông tin đảm bảo đạt được các mục tiêu của tổ chức. Một
phần quan trọng của kiểm tra là đánh giá sự tiến bộ của tiến trình thực thi và
điều chỉnh hệ thống trong quá trình hoạt động để có giải pháp xử lý, đồng thời
tìm kiếm các cơ hội, các nguồn lực có thể khai thác để tận dụng, thúc đẩy hệ
thống sớm đạt được mục tiêu dự định.
Trong một chu trình quản lý cả bốn chức năng trên phải được thực hiện liên
tiếp và đan xen nhau, phối hợp bổ sung cho nhau tạo sự kết nối giữa chu trình
này sang chu trình khác theo hướng phát triển trong đó thông tin là yếu tố xuyên
suốt, không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng quản lý và là cơ sở cho

việc ra quyết định quản lý.
Lập K.H

KT, ĐG
-17–

Chỉ đạo


Sơ đồ 1: Sơ đồ chu trình quản lý
1.2.3. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục, là một loại hình của quản lý xã hội, là quá trình vận
dụng những nguyên lý, phương pháp, khái niệm... của khoa học quản lý vào một
lĩnh vực hoạt động cụ thể, một ngành chuyên biệt, đó là ngành giáo dục.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho
hệ điều hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các
tinh chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về
vật chất” [35, tr.12]
Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý giáo dục là
hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào
tạo các thế hệ trẻ đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội ngày một cao”[19, tr.14].
Tác giả Trần Kiểm thì cho rằng:
- Đối với cấp vĩ mô: “QLGD được hiểu là những tác động tự giác (có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể QL
đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục
là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển
GD & ĐT thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành GD”[32, tr.36-37].


- Đối với cấp vi mô: “QLGD thực chất là những tác động của chủ thể
QL vào quá trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách học sinh theo mục tiêu đào tạo của nhà trường” [32, tr.38-39].
Từ những khái niệm trên, dù ở cấp vĩ mô hay vi mô, ta có thể thấy rõ bốn yếu
tố của QLGD là: Chủ thể quản lý; Đối tượng quản lý; Khách thể quản lý và Mục
tiêu quản lý. Bốn yếu tố này tạo thành sơ đồ về quản lý giáo dục.
Chủ
thể
quản

Sơ đồ 2: Sơ đồ khái niệm quản lý giáo dục
-18–


Trong thực tiễn các yếu tố trên không thể tách rời nhau mà có quan hệ
tương tác gắn bó với nhau. Chủ thể quản lý tạo ra những tác nhân tác động lên
đối tượng quản lý và cùng với chủ thể quản lý hoạt động theo một quỹ đạo nhằm
cùng thực hiện mục tiêu của tổ chức. Khách thể quản lý nằm ngoài hệ thống
quản lý giáo dục. Nó có thể chịu tác động hoặc tác động trở lại đến hệ thống giáo
dục và hệ thống quản lý giáo dục.
Nói chung, quản lý giáo dục là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý trong lĩnh vực hoạt động giáo dục. Nói đầy đủ hơn của định nghĩa
này, QLGD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật
của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ thống giáo dục
quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. QLGD là hoạt động điều hành, phối hợp các lực
lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội.
QLGD gồm 3 lĩnh vực:




Quản lý chính sách (hoạch định chính sách, lập kế hoạch
thực hiện chính sách và phân bổ nguồn lực).



Quản lý hành chính (sử dụng tài lực, nhân lực, vật lực).



Quản lý sư phạm (sử dụng giáo viên, tổ chức quá trình dạy
học, quá trình giáo dục, kết quả học tập).

Dựa trên phạm vi quản lý, người ta chia quản lý giáo dục ra hai loại, đó là:
+
Quản lý hệ thống giáo dục: QLGD được diễn ra ở tầm vĩ mô, trong
phạm vi toàn quốc, trên địa bàn lãnh thổ địa phương (tỉnh, thành phố).
+
Quản lý nhà trường: QLGD ở tầm vi mô, trong phạm vi một đơn vị, một
cơ sở giáo dục.
1.2.4. Bồi dưỡng
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Bồi dưỡng là quá trình cập nhật, bổ
sung kiến thức, kỹ năng, thái độ nhằm nâng cao năng lực, trình độ nghề nghiệp”
[40, tr.36].
Tác giả Nguyễn Minh Đường cho rằng: “Bồi dưỡng có thể coi là quá trình
cập nhật hoá kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo
thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề nghiệp theo các chuyên đề” [24, tr.13].
Bồi dưỡng là làm tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất của con người, bồi
dưỡng là quá trình tiếp nối đào tạo nhằm nâng cao năng lực và phẩm chất chuyên
môn cho người lao động, là quá trình “cập nhật hoá kiến thức còn thiếu hoặc đã

-19–


lạc hậu, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng nghề nghiệp
theo chuyên đề” [2, tr.67].
Bồi dưỡng thực chất là làm giàu vốn kiến thức, nâng cao hiệu quả lao
động từ việc bồi đắp kiến thức thiếu hụt về tri thức, cập nhật cái mới trên cơ sở
“nuôi dưỡng”, “giữ gìn” những cái cũ còn phù hợp để mở mang có hệ thống
những tri thức, kỹ năng, nghiệp vụ.
Như vậy, bồi dưỡng là khâu tiếp nối của quá trình đào tạo nhằm trang bị
thêm những kiến thức, kỹ năng để nâng cao năng suất và hiệu quả công việc.
Sau khi được bồi dưỡng, năng lực cá nhân được nâng cao, đáp ứng nhu cầu phát
triển nguồn nhân lực hiện tại và trong tương lai của tổ chức.
Bồi dưỡng giáo viên là một việc làm thường xuyên của ngành Giáo dục
và Đào tạo để nâng cao, hoàn thiện trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho
các giáo viên đang giảng dạy trong các trường học.
Với phương châm GDTX, giáo dục suốt đời thì đào tạo, bồi dưỡng và đào
tạo lại là quá trình thống nhất. Bồi dưỡng và đạo tạo lại là sự tiếp nối của quá trình
bồi dưỡng. Chúng có thể tạo ra tiên đề về tiêu chuẩn cho quá trình đào tạo chính qui
ở bậc cao hơn về trình độ chuyên môn trong những lĩnh vực cụ thể (ví dụ như Bồi
dưỡng chuẩn hoá THSP, Bồi dưỡng chuẩn hoá môn 2 cho giáo viên THCS…)

1.2.4.1. Mục tiêu bồi dưỡng giáo viên
Chiến lược phát triển giáo dục năm 2001-2010 đề ra mục tiêu tổng quát:
là đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật
chất, văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Để đạt được các
mục tiêu nêu trên, giáo dục và khoa học công nghệ có vai trò quyết định, nhu
cầu phát triển giáo dục là vấn đề đặt ra hết mức bức thiết.
Các giải pháp phát triển giáo dục là : Đổi mới mục tiêu, nội dung chương

trình giáo dục; phát triển đội ngũ nhà giáo, đổi mới phương pháp giáo dục; đổi
mới quản lý giáo dục; tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và
phát triển mạng lưới trường lớp và các cơ sở giáo dục; tăng cường nguồn tài
chính cơ sở vật chất cho giáo dục; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; đẩy mạnh hợp
tác quốc tế về giáo dục. Trong đó đổi mới chương trình giáo dục, phát triển đội
ngũ nhà giáo là những giải pháp trọng tâm phấn đấu đến năm 2005 tất cả các
giáo viên THCS đều có trình độ cao đẳng trở lên, trong đố những giáo viên
trưởng phó bộ môn có trình độ đại học. Giáo viên được thường xuyên tham gia
các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ.

-20–


1.2.4.2. Nhiệm vụ của công tác bồi dưỡng giáo viên
Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên
để đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Giúp giáo viên có được phương pháp và khả năng tự học, tự nghiên cứu
thực hành và vận dụng các phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả của quá trình dạy-học để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục.
Dưới góc độ lí luận quản lí – quản lí nguồn nhân lực thì công tác bồi
dưỡng giáo viên chính là bước “huấn luyện và phát triển đội ngũ”, công tác này
diễn ra thường xuyên, liên tục theo từng chu kì đối với toàn thể đội ngũ giáo
viên (như BDTX theo chu kì), với các cá nhân thì đó có thể là bồi dưỡng để đạt
chuẩn, nâng chuẩn,... công việc này nhằm “nâng cao năng lực, khả năng cống
hiến của mỗi thành viên cho kết quả hoạt động của tổ chức...”.
1.2.4.3. Các yêu cầu và điều kiện thực hiện công tác bồi dưỡng giáo viên
Công tác bồi dưỡng giúp cho giáo viên tiếp nối quá trình đào tạo sau khi ra
trường. Giáo viên sau khi tốt nghiệp ở trường CĐPS, ĐHSP chỉ được cung cấp

những tri thức nền móng để học có thể đảm đương được công tác giảng dạy giáo
dục trong một giai đoạn nhất định. Trong thực tế do hội nhập kinh tế toàn cầu
trong nền kinh tế tri thức và đặc biệt để đáp ứng được với yêu cầu đổi mới của
SGK giáo viên cần phải được bồi dưỡng để bổ sung kiến thức, phương pháp
giảng dạy hiện đại cho phù hợp với trình độ trong khu vực và trên thế giới.
Về đối tượng giảng dạy: trẻ em từ 11 đến 15 tuổi có đặc điểm tâm sinh lí
khác với trẻ em ở các cấp học khác, ở giai đoạn này nhân cách đã và đang hình
thành rõ rệt, thái độ cư xử, tác phong sư phạm, năng lực chuyên môn của người
thầy có tác động quan trọng đến học sinh vì vậy việc bồi dưỡng giáo viên là một
nhu cầu không thể thiếu.
Về phạm vi hoạt động giao tiếp: gắn bó với cộng đồng xã hội nơi nhà
trường tham gia công tác, người giáo viên THCS ít có điều kiện tiếp xúc với nền
khoa học hiện đại, kiến thức cập nhật về mọi lĩnh vực, vì thế các chương trình
bồi dưỡng là điều kiện thuận lợi để họ tự nâng cao khả năng của mình lên đáp
ứng với yêu cầu của công việc.
Về cường độ lao động: giáo viên THCS có số giờ giảng dạy khá cao, chưa
kể các công tác khác. Nếu chỉ tính một tiết lên lớp, người giáo viên chỉ dành một
tiết chuẩn bị thì không còn thời gian để làm việc khác hoặc nghỉ ngơi để tái sản
xuất sức lao động. Để giúp lực lượng này bù đắp, cập nhật kiến thức không có
-

21 –


giải pháp nào hơn là bồi dưỡng (bồi dưỡng chuẩn hóa, bồi dưỡng nâng chuẩn,
bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng thay sách...).
Giáo viên THCS ngoài việc cung cấp kiến thức cơ sở ban đầu còn phải
thông qua đó hình thành và phát triển ở trẻ em những kỹ năng hoạt động và khả
năng tư duy. Để làm được điều này nhất thiết giáo viên phải được bồi dưỡng bài
bản trong tương lai, còn đội ngũ đang đảm nhiệm công việc giảng dạy ở bậc học

này vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Chúng ta phải bồi dưỡng và
đào tạo lại để chuẩn hóa đội ngũ, bằng hình thức đào tạo tại chức, đào tạo từ
xa...Đội ngũ giáo viên sẽ không bị xáo trộn về lao động và từng bước được
chuẩn hóa một công tác đi đôi với việc chuẩn hóa đội ngũ là việc hiện đại hóa
đội ngũ mà ngành giáo dục đã làm. Đặc biệt từ năm học 2000 – 2001 Bộ
GD&ĐT đã chỉ dạo triển khai việc dạy học theo chương trình SGK mới được
xây dựng và biên soạn với sự hợp tác của các chuyên gia hàng đầu trong và
ngoài nước nên đã phản ánh được xu thế mới của thế giới trong việc dạy học. Đa
số giáo viên được bồi dưỡng luân phiên hàng năm về chuyên môn và NVSP.
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục, vì vậy muốn chuẩn
hóa phải hiện đại hóa bậc trung học cơ sở, công tác bồi dưỡng giáo viên phải được
chú ý đúng mức. Vai trò của công tác bồi dưỡng với đội ngũ giáo viên như là một
giải pháp để nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm của toàn bộ đội ngũ –
một công tác vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược.

1.2.5. Nghiệp vụ sư phạm
Thuật ngữ nghiệp vụ sư phạm (NVSP) được hiểu theo nghĩa rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động sư phạm với tư cách là hệ thống
công việc mang tính nghề nghiệp, phân biệt với các lĩnh vực khác: Nghiệp vụ
ngân hàng; nghiệp vụ công an v.v… Theo nghĩa hẹp, nghiệp vụ sư phạm là các
phương thức, phương pháp, kỹ năng, các thủ thuật ứng xử của người thầy giáo
trong giảng dạy, giáo dục, giao tiếp với học sinh và các tầng lớp nhân dân. Trong
thực tế, đôi khi thuật ngữ NVSP còn được dùng theo nghĩa rất hẹp- chỉ là các
cách thức, các thủ thuật người thầy sử dụng trong giao tiếp và ứng xử với các
nhân, tập thể học sinh và các lực lượng xã hội khác.[28, tr.18].
Nghiệp vụ sư phạm gồm: Hệ thống tri thức hoạt động sư phạm và Kỹ năng
sư phạm.
 Hệ thống tri thức hoạt động sư phạm có 2 loại :
+ Khoa học bộ môn thường gọi là khoa học cơ bản: Toán học, Vật lý,
Sinh học, Sử học, Văn học...

+ Khoa học nghiệp vụ gồm Tâm lý học, Giáo dục học đại cương, Giáo
dục học bộ môn.
-

22 –


Do tính đặc thù của hoạt động sư phạm đòi hỏi người thầy giáo cần phải
hiểu biết nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo thành hệ thống tri thức văn hóa sâu rộng,
tâm lý học, văn hóa học, đạo đức học, triết học…
Kiến thức văn hóa chung là những tri thức cơ bản về xã hội và nhân văn
gắn liền với lịch sử phát triển của cộng đồng, dân tộc, quốc gia và của cả nhân
loại: văn hóa và văn minh nhân loại, văn hóa học Việt Nam, dân tộc học Việt
Nam, xã hội học Việt Nam, lịch sử phát triển tư tưởng và giáo dục Việt Nam,
triết học, các khoa học về ứng xử,… Người giáo viên nếu không được cung cấp
các tri thức cơ bản về văn hóa chung gắn với sự phát triển của cộng đồng và dân
tộc mình thì dễ xuất hiện nguy cơ trở thành thợ dạy học, chỉ biết duy nhất việc
dạy học môn khoa học nào đó như nhiều giáo viên hiện nay. Việc trở thành nhà
sư phạm đối với họ sẽ gặp nhiều khó khăn, muốn khắc phục buộc họ phải tự
mình trang bị những kiến thức nói trên trong hoạt động sư phạm của mình.
Kiến thức khoa học bộ môn là tri thức của lĩnh vực khoa học mà người
thầy giáo sau này phải tổ chức truyền thụ cho học sinh. Đối với giáo viên, không
chỉ bản thân tri thức khoa học mà phải cả lôgic hình thành chúng đều quan trọng.
Người giáo viên không chỉ hiểu nội dung tài liệu mà còn phải biết tái tạo lại con
đường, lôgic đã sản sinh ra nội dung đó.
Kiến thức về sinh – tâm lý – xã hội học sinh: Không cần phải phân tích
nhiều cũng đủ thấy tầm quan trọng của vấn đề hiểu đối tượng học sinh của người
thầy giáo trong hoạt động sư phạm. Vốn tri thức về tâm – sinh lý học sinh càng
trở lên quan trọng trong hoạt động giáo dục hiện nay, khi mà trẻ em là hệ thống
mở và phát triển có gia tốc cao. Sự hiểu biết tâm lí học sinh của người thầy giáo

bao hàm cả hiểu biết về đặc trưng thể chất – tâm lý lứa tuổi nói chung, các đặc
điểm riêng của cá nhân. Cả những đặc điểm hiện tại và chiều hướng phát triển
trong tương lai, cùng với các hoàn cảnh sống ảnh hưởng tới sự phát triển của các
em. Cả trong tình huống bình thường và các hành vi xảy ra trong các tình huống
bất thường… Nói cụ thể, giáo viên cần hiểu đặc điểm thế chất, đặc điểm tâm lí
và hoàn cảnh xã hội của học sinh.
Kiến thức về phương pháp dạy học bộ môn: Trong nền giáo dục trước
đây, với mục tiêu hình thành ở người học những hiểu biết nhất định về lĩnh vực
nào đó, nên nhiệm vụ chủ yếu của người thầy giáo là truyền giảng những điều đã
được học trước đó. Cơ chế tâm lí chủ yếu của người học là trí nhớ và tư duy tái
tạo. Vì vậy, đốivới thầy giáo việc hiểu tài liệu giảng dạy là nhiệm vụ quan trọng
nhất. Ngày nay vai trò của thầy giáo đã thay đổi, đó là định hướng cho trẻ em
trong học tập và tu dưỡng đạo đức, giúp đỡ các em khi gặp khó khăn, điều khiển
và điều chỉnh hành động học tập của các em khi cần thiết. Do vậy, phương pháp
dạy học hiện đại không còn được hiểu theo nghĩa các phương pháp truyền thụ
-

23 –


của thầy giáo với mọi hình thức mà là các phương pháp hướng đạo với mục đích
chỉ ra cho học sinh nguồn tài liệu chứa đựng thông tin cần chiếm lĩnh, cách khai
thác thông tin tối ưu, cách sử dụng thông tin hữu ích và sau cùng, cách sáng tạo
thông tin.
Phương pháp giáo dục học sinh: Hoạt động sư phạm về thực chất là hoạt
động giáo dục (theo nghĩa hẹp). Ai cũng biết rằng, cả con người và con vật đều
có dạy học, nhưng chỉ con người mới có giáo dục. Vì vậy chỉ có thể trong lĩnh
vực giáo dục mới thực sự là nhân vật trung tâm. Trong thực tế, mối quan tâm chủ
yếu là dạy học còn giáo dục thường vẫn bị xem nhẹ hơn, trong khi đó vấn đề
phải được đặt ngược lại.

Kiến thức về giao tiếp, ứng xử sư phạm: Đặc trưng của hoạt động sư
phạm và mọi hành vi ứng xử của người thầy giáo với học sinh, đồng nghiệp, với
cha mẹ học sinh và với mọi người xung quanh không chỉ là phương thức sinh
hoạt bình thường mà là phương tiện giáo dục học sinh, không bằng lời nói mà
bằng nhân cách của mình bộc lộ trong các hành vi ứng xử hàng ngày. Vì vậy
người thầy giáo cần thiết phải được trang bị tri thức về khoa học giao tiếp và
giao tiếp sư phạm. Đây là yếu tố quan trọng tạo ra năng lực khéo léo ứng xử sư
phạm của người giáo viên.
Kiến thức về nghiên cứu khoa học và khoa học giáo dục: Nghiên cứu
khoa học bộ môn và khoa học giáo dục là một trong những nhiệm vụ của người
thầy giáo. Nó không chỉ giúp thầy giáo giải quyết được những vấn đề nảy sinh
trong hoạt động sư phạm của mình, mà còn là biện pháp tích cực để nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người thầy giáo.

Hệ thống kỹ năng sư phạm: Để thành công trong hoạt động sư phạm, nếu
chỉ có lòng nhiệt tình và vốn tri thức sư phạm đã tiếp thu thì chưa đủ mà nó còn
phụ thuộc và khả năng vận dụng vốn tri thức, kinh nghiệm đã có vào việc giải
quyết những vấn đề mà thực tiễn giáo dục đặt ra.
Phạm Minh Hạc cho rằng năng lực sư phạm liên hệ một cách hữu cơ với việc
nắm vững kỹ năng, kỹ xảo sư phạm. Ông quan niệm kỹ năng sư phạm như là
những năng lực dạy học, thiết kế, tri giác, truyền đạt và giao tiếp. Nguyễn Như
An lại cho rằng kỹ năng sư phạm là khả năng thực hiện một số thao tác hay một
loạt các thao tác phức tạp của mọt hành động sư phạm bằng cách lựa chọn và
vận dụng những tri thức, cách thức, qui trình đúng đắn. Kỹ năng sư phạm của
người giáo viên bao gồm: chức năng giảng dạy, chức năng giáo dục và chức
năng nghiên cứu khoa học giáo dục. Để thực hiện được các chức năng trên,
người giáo viên cần có hệ thống kỹ năng sau:
1. Nhóm kỹ năng tìm hiểu học sinh
2. Nhóm kỹ năng thiết kế hoạt động dạy học và giáo dục
-


24 –


3. Nhóm kỹ năng sử dụng các phương pháp dạy học
4. Nhóm kỹ năng sử dụng các phương pháp giáo dục
5. Nhóm kỹ năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại vào dạy học
và giáo dục học sinh.
6. Nhóm kỹ năng tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
7. Nhóm kỹ năng giao tiếp sư phạm.
8. Nhóm kỹ năng nghiên cứu khoa học.
9. Ngoài ra, do tính đặc thù của hoạt động sư phạm, người giáo viên phải
thường xuyên hoàn thiện nhân cách của mình, vì vậy, cần phải có các kĩ
năng tương ứng, tức là những kĩ năng tự bồi dưỡng, hoàn thiện nhân cách.
1.2.6. Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm: Là một loại hình bồi dưỡng thường xuyên
cho giáo viên về tổ chức các hoạt động giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học,
thực hiện quy chế chuyên môn, công tác kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
học sinh,… Công tác bồi dưỡng này chủ yếu là tự bồi dưỡng có định hướng và
phối hợp với hoạt động bồi dưỡng của tập thể cộng đồng sư phạm.
1.2.6.1. Mục tiêu bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
- Giáo viên hiểu rõ và thực hành thuần thục những thao tác biểu hiện tác
phong sư phạm chuẩn mực khi thực hiện giờ giảng.
- Giáo viên thực hành tốt những kỹ năng từ đơn giản đến phức tạp việc
thuyết trình một vấn đề bằng ngôn ngữ của chính mình và thu hút được
độc giả.
- Giáo viên thành thạo kỹ năng viết và trình bày bảng phù hợp với nội
dung giúp cho việc minh họa kiến thức và giảng dạy đạt hiệu quả cao
nhất.
- Giáo viên hiểu rõ và hình thành tốt những kỹ năng xử lý tình huống sư

phạm, biết giao tiếp – ứng xử sư phạm phù hợp trong từng tình huống hoàn
cảnh.

- Giáo viên hiểu rõ, hoàn thiện những kỹ năng tổ chức quản lý trong giờ
học

- Giáo viên hiểu rõ, hoàn thiện những kỹ năng tổ chức hoạt động giáo
dục ngoài giờ học.
- Giáo viên có kỹ năng hoàn thiện hồ sơ tìm hiểu học sinh về tâm lý để
có khả năng trao đổi, tư vấn, chia sẻ và giáo dục học sinh được tốt nhất.
- Giáo viên hoàn thiện kỹ năng lập hồ sơ chủ nhiệm lớp, xây dựng kế
hoạch chủ nhiệm lớp, viết được các văn bản hành chính liên quan đến
công việc học đường.
1.2.6.2. Nhiệm vụ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm


×